ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRỊNH THU HƯƠNG
GIỚI TỪ TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG ANH
(CÓ SO SÁNH VỚI THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Thành Phố Hồ Chí Minh - Năm 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRỊNH THU HƯƠNG
GIỚI TỪ TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG ANH
(CÓ SO SÁNH VỚI THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu
Mã số: 62220110
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Lê Khắc Cường
2. TS. Nguyễn Thị Phương Trang
Phản biện độc lập:
1. PGS.TS. Nguyễn Công Đức
2. PGS.TS. Phạm Văn Tình
Phản biện:
1. GS.TS. Nguyễn Văn Hiệp
2. PGS.TS. Dư Ngọc Ngân
3. PGS.TS. Phạm Văn Tình
Thành Phố Hồ Chí Minh - Năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các tài liệu sử dụng trong luận án là trung thực. Các trích
dẫn trong luận án đều có chú thích rõ ràng. Các kết quả phân tích và
kết luận nêu trong luận án là hoàn toàn mới.
TP.HCM ngày 10 tháng 04 năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trịnh Thu Hương
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH SÁCH BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu 7
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu 8
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 10
6. Bố cục của luận án 11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 13
1.1 Giới từ trong tiếng Anh 13
1.1.1 Định nghĩa giới từ 13
1.1.2. Vai trò và vị trí của giới từ trong câu 13
1.1.3. Phân loại giới từ trong tiếng Anh 15
1.1.4. Giới ngữ 17
1.2 Giới từ trong tiếng Việt 20
1.2.1 Quan điểm của các nhà Việt ngữ học về giới từ trong tiếng Việt 20
1.2.2 Danh sách giới từ tiếng Việt 23
1.3 Thành ngữ và thành ngữ trong tiếng Anh, tiếng Việt 25
1.3.1 Thành ngữ (idiom) 25
1.3.1.1 Định nghĩa thành ngữ (idiom) và phân loại 25
1.3.1.2 Thành ngữ tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận 28
1.3.1.3 Thành ngữ và ẩn dụ tri nhận 29
1.3.1.4 Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy 30
1.3.2 Quan niệm về động từ phức đoạn (phrasal verb) 33
1.3.2.1 Các định nghĩa về động từ phức đoạn 33
1.3.2.2 Các loại động từ phức đoạn 34
1.3.2.3 Ngữ pháp và ngữ nghĩa của động từ phức đoạn 36
1.4 Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt 39
1.4.1 Định nghĩa thành ngữ 39
1.4.2 Đặc trưng hình thức và ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Việt 40
1.4.3 Phân biệt thành ngữ với tục ngữ 42
1.5 Tiếp cận giới từ và thành ngữ theo ngôn ngữ học tri nhận 45
1.6. Tiểu kết 51
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIỚI TỪ XUẤT HIỆN NHIỀU NHẤT TRONG
THÀNH NGỮ TIẾNG ANH (IN, ON, AT, OUT) 53
2.1. Khảo sát từ điển thành ngữ tiếng Anh để tìm những giới từ
xuất hiện nhiều nhất 53
2.1.1. Khảo sát từ điển thành ngữ của Longman 53
2.1.2. Khảo sát theo từ điển thành ngữ của Oxford 56
2.1.3. Một vài lưu ý về ngữ nghĩa và ngữ pháp của giới từ trong thành ngữ 57
2.1.3.1. Về ngữ nghĩa 58
2.1.3.2. Về ngữ pháp 59
2.2 Ngữ nghĩa và ngữ pháp của các giới từ IN, ON, AT, OUT
trong thành ngữ 60
2.2.1 Ngữ nghĩa và ngữ pháp của IN 62
2.2.1.1 Ngữ nghĩa của IN 62
2.2.1.2. Ngữ pháp của IN 64
2.2.2 Ngữ nghĩa và ngữ pháp của ON 65
2.2.2.1. Ngữ nghĩa của ON 65
2.2.2.2 Ngữ pháp của ON 67
2.2.3 Ngữ nghĩa và ngữ pháp của At 67
2.2.3.1. Ngữ nghĩa của AT 67
2.2.3.2. Ngữ pháp của AT 68
2.2.4 Ngữ nghĩa và ngữ pháp của OUT 69
2.2.4.1. Ngữ nghĩa của OUT 69
2.2.4.2. Ngữ pháp của OUT 71
2.2.5. Một số nhận xét về giới từ OF 72
2.3. Hiện tượng chuyển đổi từ loại của IN, ON, AT, OUT: 73
2.4 Phân biệt cách dùng IN, ON, AT 74
2. 5. Ngữ nghĩa thành ngữ thường dùng với giới từ IN, ON, AT, OUT, OF 79
2.5.1. Thành ngữ tiếng Anh với giới từ IN 79
2.5.2. Thành ngữ với giới từ ON 80
2.5.3. Thành ngữ với giới từ AT 81
2.5.4. Thành ngữ tiếng Anh với giới từ OUT 82
2.5.5. Bàn thêm về thành ngữ tiếng Anh với giới từ OF 83
2.6. Tiểu kết 83
CHƯƠNG 3: GIỚI TỪ IN, ON, AT, OUT TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ
NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN 85
3.1. Tiếp cận một số khái niệm căn bản của ngôn ngữ học tri nhận
để giải thích về giới từ và thành ngữ 85
3.1.1. Khái niệm nghiệm thân (embodiment) 85
3.1.2. Ẩn dụ theo cách tiếp cận tri nhận 87
3.1.2.1. Ẩn dụ ý niệm theo quan điểm của Lakoff và Johnson 87
3.1.2.2 Các loại ẩn dụ theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận 89
3.1.2.3. Ẩn dụ và sự gắn kết văn hóa (mối tương quan giữa văn hóa và ẩn dụ)92
3.2 Sự đa nghĩa của giới từ giải thích theo ngữ nghĩa học tri nhận 94
3.2.1 Giới từ IN 106
3.2.2 Giới từ ON 108
3.2.3 So sánh về nghĩa của IN với ON 111
3.2.4 Giới từ AT 112
3.2.5 Giới từ OUT 114
3.3. Khả năng thay đổi nghĩa của giới từ trong các thành ngữ tiếng Anh 117
3.4. Tiểu kết 120
CHƯƠNG 4: SO SÁNH GIỚI TỪ IN, ON, AT, OUT VỚI 123
ĐƠN VỊ TƯƠNG ĐƯƠNG TRONG TIẾNG VIỆT 123
4.1 So sánh giới từ IN, ON, AT, OUT trong thành ngữ tiếng Anh và đơn vị
tương đương trong thành ngữ tiếng Việt 123
4.1.1 Thành ngữ có giới từ IN, ON, AT, OUT và có từ HAND so sánh với thành
ngữ có từ TAY trong thành ngữ tiếng Việt 123
4.1.1.1 Lí do lựa chọn thành ngữ có HAND 123
4.1.1.2. Lựa chọn ngữ liệu để đối chiếu trong tiếng Việt 126
4.1.2. So sánh về ứng xử ngữ pháp (grammatical behaviour)
(cụ thể là sự chuyển đổi từ loại) của giới từ “IN, ON, AT, OUT”
với “TRONG, TRÊN, VÀO, RA, Ở, TẠI” 127
4.1.3 So sánh về sự phát triển ngữ nghĩa của giới từ “IN, ON, AT, OUT” với
“TRONG, TRÊN, VÀO, RA, Ở, TẠI ” 136
4.1.3.1. IN, ON, AT so sánh với VÀO 136
4.1.3.2. IN, OUT so sánh với VÀO, RA 137
4.1.3.3. IN, ON so sánh với TRÊN, TRONG 140
4.1.3.4 AT so sánh với Ở/TẠI 148
4.1.3.5. So sánh giới từ IN, ON, AT, OUT trong thành ngữ tiếng Anh với VÀO,
RA, TRONG, TRÊN, Ở, TẠI trong thành ngữ tiếng Việt 150
4.2.Ứng dụng trong việc giảng dạy ngoại ngữ 154
4.3. Ứng dụng trong việc dạy và học môn dịch (translation) 156
4.4. Tiểu kết 162
KẾT LUẬN 164
NGUỒN XUẤT XỨ TƯ LIỆU 170
NHỮNG CÔNG BỐ KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI
DUNG LUẬN ÁN 172
TÀI LIỆU THAM KHẢO 173
PHỤ LỤC 186
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Adj : tính từ
Adv : trạng từ
LM : mốc định vị
N : danh từ
ODE : Oxford Dictionary of English
Prep : giới từ
S : chủ từ
TR : vật được định vị
V : động từ
DANH SÁCH CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: phân chia giới từ đơn và giới từ phức [190, 159] 16
Bảng 1.2: Định vị theo không gian 16
Bảng 1.3: Phân biệt thành ngữ với tục ngữ trong tiếng Việt 43
Bảng 2.1: Chức năng từ loại của IN, ON, AT, OUT. 73
Bảng 2.2: Cách dùng IN, ON , AT 75
Bảng 2.3: AT, IN, ON với cách dùng về thời gian 77
Bảng 3.1: Sơ đồ ý tượng của OVER (Lakoff 1987) 104
Bảng 3.2: Nghĩa và ví dụ của IN theo sơ đồ ngữ nghĩa 107
Bảng3.3: Nghĩa và ví dụ của ON theo sơ đồ ngữ nghĩa 110
Bảng 3.4: Nghĩa và ví dụ của AT theo sơ đồ ngữ nghĩa: 113
Bảng 3.5: Nghĩa và ví dụ của OUT theo sơ đồ ngữ nghĩa: 115
Bảng 4.1: Từ chỉ bộ phận cơ thể trong thành ngữ tiếng Anh-tiếng Việt 125
Bảng 4.2: Thành ngữ có từ HAND có chứa IN, ON, AT, OUT 125
Bảng 4.3: Ngữ nghĩa IN, ON, AT dịch sang tiếng Việt. 137
Bảng 4.4: Ngữ nghĩa IN, OUT so sánh với VÀO-RA 138
Bảng 4.5: Ngữ nghĩa IN-ON so sánh với TRÊN-TRONG 140
Bảng 4.6: Ngữ nghĩa AT so sánh với Ở-TẠI 149
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Giới từ trong 3000 thành ngữ 55
Hình 2.2: Giới từ trong 10000 thành ngữ 56
Hình 2.3: Giới từ trong 10000 thành ngữ 57
Hình 3.1: Từ MOTHER của Lakoff theo dạng phạm trù tâm lan tỏa 95
Hình 3.2: Từ XE trong tiếng Việt theo dạng phạm trù tâm lan tỏa. 97
Hình 3.3: Sơ đồ về phạm trù tâm lan tỏa của giới từ IN 98
Hình 3.4: Sơ đồ về phạm trù tâm lan tỏa của giới từ ON 99
Hình 3.5: Sơ đồ về phạm trù tâm lan tỏa của giới từ AT 100
Hình 3.6: Sơ đồ về phạm trù tâm lan tỏa của giới từ OUT 101
Hình 4.1: Bản đồ ngành dịch của HOME 157
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiếng Anh là một ngôn ngữ có nhiều giới từ hơn những ngôn ngữ khác.
Howard Sargeant đã viết: “Chúng ta đã biết rằng tiếng Anh là một ngôn ngữ mà các
từ không thay đổi hình thái hay hình thức nhiều lắm. Chính vì thế giới từ được dùng
để nối kết các mối quan hệ giữa các từ trong một câu, và kết quả là tiếng Anh sử
dụng giới từ hơn rất nhiều lần so với hầu hết các ngôn ngữ khác” [109, 18]. Nhưng
giới từ trong tiếng Anh cũng gây ra nhiều rắc rối cho người học hơn bất cứ các từ
loại nào khác. Giới từ được coi là những từ rất nhỏ bé, không bao giờ thay đổi dạng,
là những từ khi nói không có trọng âm, không được viết hoa trong các tiêu đề văn
bản… và người bản xứ chọn dùng một giới từ theo thói quen không hề phải suy
nghĩ [113, V]. Có thể nêu những khó khăn khi học giới từ như sau: (1) Không có
một ngôn ngữ nào có giới từ hay tương đồng một cách chính xác với giới từ tiếng
Anh. (2) Một giới từ kết hợp với từ khác có thể có nhiều nghĩa (trường hợp động từ
phức đoạn). Ví dụ “make up”có thể có đến 9 nghĩa; (3) Giới từ có thể chuyển đổi từ
loại thành danh từ hay động từ… [113, v-vii]
Tác giả Bryan A. Garner trong cuốn A Dictionary of Modern American
Usage đã đưa ra nhận xét như sau “Dường như càng ngày càng có nhiều người viết
gặp khó khăn trong việc sử dụng đúng giới từ trong những thành ngữ khác nhau”
[167, 70]. Ngay cả những nhân vật có tên tuổi cũng có thể dùng sai giới từ. Ví dụ
tổng thống George W. Bush 2006, đã dùng sai giới từ trong đoạn dẫn sau đây:
“…devoted the best years of his life in serving his country”. Câu đúng phải là:
“…devoted the best years of his life to serving his country”. Một tờ báo bản địa của
Anh viết: Navy spends $ 516 million for rocket. Câu đúng phải là: Navy spends $
516 million on rocket.
Vào năm 1925, theo David Thatcher, có tác giả đã thấy bi quan và tức giận
khi nói rằng “việc dùng sai giới từ là một khuyết điểm phổ biến lạ thường của
những người viết và nói tiếng Anh, mà thậm chí ngay cả những tác giả được xem là
mẫu mực hay chuẩn mực cũng không ngoại lệ” [167, 70].
2
Giới từ tiếng Anh gắn bó mật thiết với thành ngữ. Người nói tiếng Anh sử
dụng rất nhiều thành ngữ. Thừa hưởng một kho tàng thành ngữ khổng lồ từ các thế
hệ tiền nhân để lại, người bản xứ sử dụng thành ngữ rất thường xuyên trong giao
tiếp hàng. Điều này được chứng minh qua nhiều nghiên cứu của các nhà Anh ngữ
học. Chẳng hạn, Pollio và các đồng nghiệp đã đếm các dạng thức tu từ mới cũng
như các dạng thức tu từ khô cứng (được coi là thành ngữ) được dùng và phát hiện ra
là người nói và người viết dùng 1,8 dạng thức tu từ mới và 4,08 thành ngữ trong
một phút. Lazar, Warr-Leeper, Nicholson, & Johnson (1989) phát hiện ra rằng 36%
của tất cả các phát ngôn đều có chứa ít nhất một thành ngữ đa nghĩa (multiple
meaning expression); ít nhất là một thành ngữ xuất hiện trong 11,5% của tất cả các
phát ngôn, và thành ngữ được dùng với tần suất ngày càng tăng ở các cấp học lớn
hơn. Makkai, Boatner, & Gate (1996) đã trình bày hơn 4000 thành ngữ tiếng Anh
trong cuốn “Từ điển thành ngữ tiếng Anh-Mỹ” của họ (Dictionary of American
idioms) và lần xuất bản gần đây số lượng thành ngữ trong cuốn từ điển này đã lên
đến hơn 8000. Cuốn “Từ điển thành ngữ tiếng Anh Mỹ” của tác giả Richard A.
Spear do nhà xuất bản McGraw Hill xuất bản lần đầu tiên vào năm 1987 chỉ có
8000 thành ngữ. Nhưng gần đây, trong lần xuất bản lần thứ tư vào năm 2007 thì đã
có hơn 14000 thành ngữ [148, 3-4].
Tóm lại sử dụng giới từ và thành ngữ là hai đặc điểm nổi bật trong tiếng Anh
và gây khó khăn cho người học tiếng Anh như một ngoại ngữ. Chính vì vậy, luận án
này nghiên cứu giới từ trong thành ngữ. Sau hơn mười năm giảng dạy tiếng Anh và
nhiều năm lao động để biên soạn từ điển thành ngữ Anh Việt, chúng tôi đã tập hợp
tài liệu, xác định khung lí thuyết và tận dụng những kinh nghiệm của mình trong
quá trình giảng dạy để thực hiện luận án “Giới từ trong thành ngữ tiếng Anh (có so
sánh với thành ngữ tiếng Việt)”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có rất nhiều tác giả nghiên cứu về giới từ và thành ngữ. Sớm nhất thì phải kể
đến Aristotle, nhà triết học Hy Lạp 384-322 trước Công nguyên. Dựa trên các cơ sở
ngữ pháp học và logic học, Aristotle phân chia từ thành từ nối, danh từ, động
3
từ…Trong đó, từ nối mà ông đề cập gồm có liên từ và giới từ. Các học giả thuộc
trường phái Alexandria dựa trên các công trình của Stoic xếp các lớp từ thành tám
loại riêng biệt, trong đó có giới từ. Ở Nga và Liên Xô (cũ) trường phái ngữ pháp
truyền thống đã nghiên cứu từ loại trong một thời gian dài, trong đó có thể kể đến
các công trình của M. V. Lomonosov ở thế kỷ XVIII, L. V. Sherba, A.A.
Reformatskij, Ju. S. Stepanov, V.M. Solcev, A.I. Smirnitskij v.v. trong thế kỷ XX.
Ở Tây Âu, J. Lyons và những nhà ngữ pháp, ngữ nghĩa cũng quan tâm nghiên cứu
giới từ. Theo Lyons, hai chức năng cơ bản của giới từ là chức năng cú pháp và chức
năng định vị [dẫn theo 32].
Ở Việt Nam, đã có một số luận án chọn đối tượng khảo sát là giới từ hoặc có
liên quan đến giới từ. Có thể kể đến luận án tiến sĩ khoa học của Nguyễn Lai về sau
được in thành chuyên luận về “Nhóm từ chỉ hướng vận động trong tiếng Việt”, luận
án tiến sĩ ngữ văn của Trần Quang Hải (2001) “Nghiên cứu giới từ định vị theo
hướng ngữ dụng”, luận án tiến sĩ ngữ văn của Nguyễn Cảnh Hoa (2001) “Nghiên
cứu ngữ pháp và ngữ nghĩa của giới từ tiếng Anh, đối chiếu với tiếng Việt”, luận án
tiến sĩ ngữ văn của Lê Văn Thanh (2003) “Ngữ nghĩa của các giới từ chỉ không gian
trong tiếng Anh (trong sự đối chiếu với tiếng Việt). Theo Trần Quang Hải (2001) thì
“Việc nghiên cứu giới từ với tư cách là một phần của ngữ pháp đã có một lịch sử
lâu dài, gắn với sự ra đời của bộ môn ngôn ngữ học.” [27, 2].
Các sách có bàn riêng về giới từ trong tiếng Việt có thể kể đến những cuốn
như "Hư từ trong tiếng Việt hiện đại" của Nguyễn Anh Quế, "Ngữ pháp tiếng Việt:
Từ loại" của Đinh Văn Đức, “Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt” của Hoàng Trọng
Phiến… Ngoài ra, trong các sách cơ sở ngôn ngữ học, phần bàn về từ loại cũng có
nhắc đến giới từ một cách khái quát, như “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” của
Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, “Dẫn luận ngôn ngữ học” của
Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết, “Dẫn
luận ngôn ngữ học” của Vũ Đức Nghiệu (chủ biên) và Nguyễn Văn Hiệp. Các tác
giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Nguyễn Thiện Giáp nêu ra mười loại từ loại thì
giới từ thuộc về "kết từ" (tên gọi khác là "quan hệ từ"). Kết từ (quan hệ từ) là từ
4
dùng để liên kết, sẽ gồm hai loại nhỏ là "liên từ" (liên kết quan hệ đẳng lập) và
"giới từ" (liên kết quan hệ chính phụ).
Hiện nay, nghiên cứu giới từ đã có định hướng mới, theo ngôn ngữ học tri
nhận, nhờ vào những nghiên cứu tiên phong của Ray Jackendoff, George P. Lakoff,
Ronald Wayne Langacker, Evans, Vyvyan & Melanie Green… Langacker đã nêu
cặp khái niệm nổi tiếng, đó là Trajector/Landmark (Vật được định vị/Mốc định vị)
và FIGURE/GROUND (Hình/Nền) để làm cơ sở cho những lược đồ ý tượng (Image
Schema) dùng để nghiên cứu giới từ. Vận dụng các khái niệm này thì nổi tiếng nhất
có lẽ là nghiên cứu trường hợp (case study) của Lakoff (1990) về sự chuyển nghĩa
của từ OVER theo kiểu tâm lan tỏa (radiality), được in dưới dạng phụ lục của cuốn
“Fire, Woman and Dangerous things” (The University of Chicago Press). Nghiên
cứu của Lakoff được xem là một nghiên cứu kinh điển của ngữ pháp kết cấu
(construction grammar), một nhánh của ngữ pháp tri nhận.
Về thành ngữ tiếng Anh thì cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu và nhiều
chuyên khảo về thành ngữ, nhiều cuốn từ điển thành ngữ đã được biên soạn để giúp
người học học tập và tra cứu dễ dàng hơn. Theo Cowie (1998) thì giới nghiên cứu
Liên Xô và Đông Âu đã nghiên cứu thành ngữ từ thập niên 50. Trong ba mươi năm
qua, thành ngữ cũng bắt đầu trở thành một đề tài được nhiều học giả Tây Âu và Hoa
Kỳ quan tâm nghiên cứu. Ngoài ra cũng đã có nhiều dự án nghiên cứu thành ngữ
trên quy mô lớn và đã có rất nhiều hội thảo quốc tế về thành ngữ. Đã có rất nhiều từ
điển chuyên về thành ngữ của những nhà xuất bản tên tuổi như Longman, Oxford,
Cambridge… Số lượng công trình nghiên cứu về thành ngữ trong thời gian gần đây
là rất nhiều và đa số khảo sát thành ngữ dưới góc độ cấu trúc ngữ nghĩa. Tuy nhiên,
sự xuất hiện của ngôn ngữ học tri nhận vào đầu những thập niên 1970 đã mang lại
nhiều thay đổi về cách nhìn nhận và cách tiếp cận thành ngữ. Có những công trình
nghiên cứu về thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người như của Ning Yu
(2007), Armina Janyan và Elena Andonova (2000) … các sách chuyên khảo về
thành ngữ của Chitra Fernando (1997), Andreas Langlotz (2006), Sam Glucksberg (2001)…
5
Các tài liệu nghiên cứu về thành ngữ ở Việt Nam từ trước đến nay phần lớn
tiếp cận theo hướng cấu trúc- ngữ nghĩa. Có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như
Bùi Khắc Việt (1981), Trương Đông San (1974), Hoàng Văn Hành (1976), Chu
Bích Thu (1994), Phan Văn Quế (1995), Nguyễn Văn Tu (1960, 1968, 1976), Đỗ
Hữu Châu (1962, 1981, 1986), Nguyễn Kim Thản (1963), Cù Đình Tú (1973,
1982), Nguyễn Văn Mệnh (1972, 1986), Nguyễn Thiện Giáp (1975, 1985), Hồ Lê
(1976)… Đến đầu năm 2008, các công trình nghiên cứu về thành ngữ ở Việt Nam
theo cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận mới chỉ ở dạng bài báo đăng tạp chí và
cuối năm 2008 thì mới có luận án tiến sỹ ngữ văn của Nguyễn Ngọc Vũ “Thành ngữ
tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn
của ngôn ngữ học tri nhận”.
Luận án của chúng tôi là nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu về giới từ trong
thành ngữ tiếng Anh, đi sâu vào nghiên cứu bốn giới từ đơn có tần số xuất hiện
thuộc loại cao nhất trong thành ngữ tiếng Anh, có so sánh với tiếng Việt. Cách tiếp
cận của chúng tôi về bốn giới từ này dựa trên cách tiếp cận theo cấu trúc-ngữ nghĩa
kết hợp với cách tiếp cận theo ngôn ngữ học tri nhận. Hai lí do khiến chúng tôi
không chọn cách tiếp cận cấu trúc-ngữ nghĩa một cách thuần tuý, mà thay vào đó,
có sự kết hợp với cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận, đó là: 1) Cách tiếp cận
cấu trúc-ngữ nghĩa đã được một số công trình đi trước lựa chọn, điển hình là luận án
của Nguyễn Cảnh Hoa, Trần Quang Hải và Lê Văn Thanh, vì vậy sẽ rất khó có cái
mới nếu chúng tôi chỉ dùng cách tiếp cận này; 2) Cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri
nhận cho phép người nghiên cứu có cái nhìn sâu hơn vào quá trình phát triển ngữ
nghĩa của giới từ, bất luận chúng được dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày
hay trong thành ngữ.
Theo nhận định chung của nhiều nhà nghiên cứu, hướng tiếp cận theo tri
nhận ngày nay được nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu lựa chọn vì cách tiếp cận
này đưa ra được một số mô hình và cách lý giải, hợp lí hơn, khắc phục được những
thiếu sót mà cách thức lý giải theo cấu trúc- ngữ nghĩa chưa giải quyết được.
Hiện nay, ngôn ngữ học tri nhận được coi là một hệ thống lý thuyết, cách tiếp
6
cận có cơ chế rất linh hoạt chứ không phải đơn thuần là một lý thuyết ngôn ngữ đơn
lẻ. Quá trình tri nhận của con người xứng đáng là một diễn đàn dành cho những
nghiên cứu liên ngành, theo đó có một loạt vấn đề cần nghiên cứu như: bản chất và
sự sắp xếp hay tổ chức của hệ thống ý niệm, bản chất của quá trình tri nhận tham
gia vào việc nói và hiểu ngôn ngữ tự nhiên (gồm cả ngôn ngữ dấu hiệu, cử chỉ -sign
language), mối quan hệ của chúng với các miền khác của sự tri nhận của con người,
bao gồm hệ thống kiến thức và khái niệm chung và các quá trình (vấn đề ngôn ngữ
và tư duy) và các hệ thống cảm giác và hành vi ứng xử khác như là tầm nhìn và
hành vi ứng xử phi lời (ví dụ như: điệu bộ, cử chỉ) [135].
Đặc biệt, liên quan đến các giới từ, các nhà ngôn ngữ học tri nhận đã tiếp tục
các truyền thống của tâm lý học và triết học, lưu ý đến tầm quan trọng của không
gian và các trải nghiệm không gian được thể hiện trong ngôn ngữ và tư duy [172, ix].
Vai trò của không gian và các trải nghiệm không gian trong ngôn ngữ và tư
duy được ngôn ngữ học tri nhận nhấn mạnh như là quá trình nghiệm thân
(embodiment), quá trình được coi là nền tảng của sự phát triển ngữ nghĩa trong
ngôn ngữ. Theo các nhà tri nhận luận, sự thể hiện của ngữ nghĩa trong ngôn ngữ là
dựa trên các khái niệm nền tảng trong tự nhiên. Ngôn ngữ không nhìn nhận một
cách trực tiếp về “thế giới thật”. Đúng hơn là ngôn ngữ nhìn nhận/nói về cái đại
diện trong hệ thống khái niệm của con người. Hệ thống khái niệm bao gồm hệ cấu
trúc khái niệm (nghĩa là các khái niệm cơ sở, các lược đồ hình ảnh v.v), phản ánh và
giải thích thế giới với tư cách là một trung gian phản ánh thông qua sự nhận thức và
trải nghiệm của con người. Cấu trúc khái niệm là một kết quả cho thấy con người
chúng ta trải nghiệm và tương tác với thế giới vật chất không gian (spatio-physical
world) mà chúng ta đang sống như thế nào. Thế giới bên “ngoài kia” cung cấp cho
chúng ta một cơ tầng tri giác mộc mạc (raw sense-perceptual substrate), làm nền
cho hệ thống ý niệm (conceptual system). Tuy nhiên, chúng ta trải nghiệm cái gì và
trải nghiệm như thế nào chủ yếu là chịu ảnh hưởng hay nhờ vào bản chất của cơ thể
và kiến trúc thần kinh học của chúng ta. Nói cách khác, trải nghiệm là mang tính
nghiệm thân [172, 3].
7
Chúng tôi nghĩ rằng thế giới là vô tận và vẫn còn rất nhiều điều chúng ta
không thể giải thích hết được. Tất cả những cái tồn tại được thì đều có lý do hợp lý
của nó và không hẳn cái mới có thể thay thế hoàn toàn hay phủ nhận được những
cái trước nó. Mọi tri thức đều phản ánh cái thời đại của nó. Không có tri thức nào có
thể bao quát toàn bộ thế giới. Khoa học xã hội và nhân văn là ngành khoa học mang
tính kế thừa cao. Chính vì vậy, trong luận án này, khi chọn đề tài nghiên cứu về giới
từ trong thành ngữ tiếng Anh, so sánh với tiếng Việt thì chúng tôi vừa muốn kế thừa
ưu điểm của cách tiếp cận cấu trúc- ngữ nghĩa, vừa muốn kết hợp với những kết quả
mới trong hướng tiếp cận theo tri nhận, nhằm tìm cách lý giải đơn giản nhất và dễ
nhất cho người đọc cũng như người học ngoại ngữ (tiếng Anh cho người Việt và
tiếng Việt cho người nước ngoài) để giải quyết những vấn đề gây khó khăn, có liên
quan đến giới từ trong thành ngữ. Để tránh sa vào cuộc tranh luận lí thuyết ngoài
tầm của luận án, chúng tôi sẽ không đi sâu phân tích hay bàn về sự khác nhau giữa
cách tiếp cận theo cấu trúc- ngữ nghĩa và cách tiếp cận theo tri nhận.
Tóm lại, với loại đề tài này, trong luận án chúng tôi chọn cách tiếp cận
thường thấy (như ở các tác giả đi trước như Nguyễn Cảnh Hoa, Trần Quang Hải và
Lê Văn Thanh ) là cấu trúc-ngữ nghĩa. Nhưng do sự phát triển của ngôn ngữ học
tri nhận ở Việt Nam và thế giới trong những năm gần đây, nên khi khảo sát sự phát
triển ngữ nghĩa (các quá trình ý niệm hoá) cũng như sự chuyển đổi từ loại của các
giới từ, luận án chủ trương vận dụng hướng tiếp cận tri nhận, vì đây là cách tiếp cận
cho phép hiểu sâu nhất, giải thích thuyết phục nhất những vấn đề này. Dĩ nhiên, do
ngôn ngữ học học tri nhận còn rất mới mẻ ở Việt Nam nên sự vận dụng cách tiếp
cận này trong luận án chắc chắn chỉ là những bước ban đầu.
3. Đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là giới từ trong thành ngữ tiếng Anh
có so sánh với tiếng Việt. Đối tượng nghiên cứu là giới từ, còn thành ngữ là môi
trường để các giới từ hành chức và cũng làm vai trò hạn định phạm vi thu thập tư
liệu và khảo sát về giới từ. Việc xét giới từ trong thành ngữ giúp nhấn mạnh vào
8
nghĩa không gian và phi không gian của giới từ cũng như là nhân tố tạo nên tính
bóng bảy, súc tích của thành ngữ. Bức tranh về giới từ trong thành ngữ chắc chắn là
một bức tranh nhiều màu sắc, thú vị.
3.2. Mục đích nghiên cứu:
- Xác lập khung lí thuyết cần thiết để nghiên cứu giới từ trong thành ngữ
tiếng Anh, so sánh với tiếng Việt, xoay quanh những khái niệm quan trọng như giới
từ, giới ngữ, động từ phức đoạn, thành ngữ, ẩn dụ và nghiệm thân, quan hệ giữa
ngôn ngữ-văn hoá-tư duy.
-Nghiên cứu ngữ nghĩa và ứng xử ngữ pháp (grammatical behaviours) của 4
giới từ có tần số xuất hiện cao nhất trong tiếng Anh nói chung và thành ngữ tiếng
Anh nói riêng là IN, ON, AT, OUT.
- Nghiên cứu quá trình phát triển ngữ nghĩa của các giới từ IN, ON, AT,
OUT đi từ nghĩa không gian đến nghĩa phi không gian và những biến đổi từ loại
(parts of speech, hay word classes) kèm theo quá trình phát triển ngữ nghĩa này.
- So sánh quá trình phát triển ngữ nghĩa và biến đổi từ loại của IN, ON, AT,
OUT của tiếng Anh với các từ tương đương trong tiếng Việt nhằm áp dụng kết quả
nghiên cứu vào việc chữa lỗi có liên quan đến giới từ trong thành ngữ cho người
Anh học tiếng Việt và ngược lại.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng kết hợp nhiều phương pháp, thủ pháp ngôn ngữ học.
Trước hết, phương pháp miêu tả được dùng để miêu tả cấu trúc của thành
ngữ, miêu tả các ứng xử ngữ pháp của các giới từ IN, ON, AT, OUT trong thành
ngữ tiếng Anh và các từ tương đương trong tiếng Việt.
Luận án dùng phương pháp miêu tả, kết hợp với phương pháp phân tích ngữ
nghĩa để miêu tả ngữ nghĩa của các giới từ IN, ON, AT, OUT ở Chương 2 và ngữ
nghĩa của VÀO, RA, TRONG, TRÊN, Ở, TẠI ở Chương 4. Mục đích sử dụng hai
phương pháp miêu tả và phân tích ngữ nghĩa là để thấy rõ sự lan tỏa nghĩa của giới
9
từ, từ nghĩa không gian lan tỏa sang nghĩa phi không gian, sự thay đổi trong ứng xử
ngữ pháp của các từ này và sự chuyển đổi từ loại.
Luận án đặc biệt sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu để thấy những điểm
tương đồng và khác biệt giữa giới từ trong thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng
Việt trên các bình diện ngữ pháp và ngữ nghĩa. Phương pháp này trước hết cho
chúng ta thấy sự tương đồng và khác biệt về ngữ nghĩa và ứng xử ngữ pháp của các
giới từ tiếng Anh so với tiếng Việt. Phương pháp này còn cho chúng ta thấy rõ
những điểm tương đồng và dị biệt trong quá trình nghiệm thân, trong quá trình ý
niệm hóa thế giới, và sự thể hiện thông qua ngôn ngữ của người Anh và người Việt.
Phương pháp này áp dụng trong toàn bộ luận án ở các chương 2, 3 và 4.
Ngoài ra luận án còn sử dụng các thủ pháp thống kê và thủ pháp mô hình hóa.
Thủ pháp thống kê ngôn ngữ học được dùng để chọn các giới từ tiếng Anh có
tần số sử dụng cao nhất và tiêu biểu nhất cho quá trình biến đổi ngữ nghĩa, đi từ
nghĩa không gian sang nghĩa phi không gian của chúng. Phương pháp này cũng
nhằm đến sự khẳng định việc sử dụng nhiều giới từ như là một đặc điểm nổi trội của
tiếng Anh.
Luận án sử dụng các thủ pháp mô hình hoá, đưa ra mô hình về sơ đồ ngữ
nghĩa và sự lan tỏa nghĩa của các giới từ IN, ON, AT, OUT áp dụng ở chương 3.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp liên ngành (có sự kết hợp giữa
văn hóa học và ngôn ngữ học), cũng như sử dụng phương pháp điều tra và phỏng
vấn của ngôn ngữ học xã hội.
4.2. Nguồn tư liệu:
Nguồn tư liệu chính của luận án là các giới từ trong thành ngữ tiếng Anh
được lấy từ Từ điển thành ngữ tiếng Anh của nhà xuất bản Longman và Oxford, từ
điển thành ngữ Anh Việt của Lã Thành – Trịnh Thu Hương- Trung Dũng.
Các tư liệu về ngữ nghĩa từ vựng của từ trong tiếng Việt được lấy từ Từ điển
tiếng Việt của Hoàng Phê và Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý. Nguồn ngữ
liệu về thành ngữ tiếng Việt lấy từ cuốn Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam
của Nguyễn Lân.
10
Ngoài ra, luận án còn sử dụng tư liệu lấy từ các ấn phẩm tiếng Anh và tiếng
Việt đã được xuất bản. Riêng về tư liệu khảo sát các lỗi do giao thoa (chuyển di)
tiêu cực, chúng tôi lấy tư liệu là các bài tập, bài dịch của sinh viên và các cộng tác
viên người bản ngữ nói tiếng Anh.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về lí luận, luận án góp phần vào việc làm phong phú hơn lí thuyết ngôn ngữ
học tri nhận thông qua ngữ liệu và nghiên cứu đối chiếu tiếng Anh và tiếng Việt,
liên quan đến những giới từ không gian thường gặp nhất, đồng thời góp phần làm rõ
hơn mối quan hệ giữa ngôn ngữ, tư duy và văn hoá, chỉ ra những quá trình ý niệm
hoá mang tính phổ quát và những quá trình ý niệm hoá mang tính đặc thù.
Việc nghiên cứu về giới từ và giới từ trong thành ngữ theo hướng tri nhận sẽ
giúp giải thích thấu đáo và triệt để sự lan tỏa nghĩa (radiality) của giới từ, từ những
nghĩa không gian lan tỏa sang những nghĩa phi không gian, tạo thành những phạm
trù mà ngôn ngữ học tri nhận gọi là các phạm trù tâm lan tỏa (radial categories). Lý
thuyết ẩn dụ ý niệm và khái niệm nghiệm thân, tính lan tỏa… được trình bày trong
luận án không chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu giới từ và thành ngữ mà còn có
tiềm năng to lớn trong việc nghiên cứu ngôn ngữ, tâm lý, dịch thuật và giảng dạy
văn hóa học.
Về thực tiễn, các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp người Việt học tiếng
Anh tốt hơn và dễ dàng hơn, giúp người nước ngoài học tiếng Việt dễ hơn.Có thể
nói, việc nghiên cứu, khảo sát giới từ trong thành ngữ từ góc độ ngôn ngữ học tri
nhận là một hướng đi mới mẻ, cho phép các giáo viên giảng dạy ngoại ngữ, các nhà
nghiên cứu đi sâu hơn, xa hơn và giải quyết được những khó khăn, vướng mắc, tồn
tại trong những nghiên cứu về thành ngữ và giới từ từ trước tới nay.
Luận án cũng cung cấp một kho dữ liệu phong phú về những thành ngữ có
chứa các giới từ IN, ON, AT, OUT. Trong tiếng Anh, những thành ngữ và những
giới từ này có tần số xuất hiện rất cao. Các bảng danh sách thành ngữ trong luận án
sẽ hỗ trợ rất nhiều cho việc học và giảng dạy tiếng Anh.
Vì luận án chỉ ra được cách thức tri nhận về giới từ không gian IN, ON, AT,
11
OUT trong tiếng Anh, từ đó phác họa ra được cách thức và sự ý niệm hóa các nghĩa
phi không gian của những giới từ này, chỉ ra sự khác nhau và sự giống nhau trong
cách tri nhận về không gian giữa người Việt và người Anh, nên các kết quả đó sẽ là
cơ sở để chữa một số lỗi phổ biến khi học và sử dụng những giới từ này.
Trên lĩnh vực dịch thuật, luận án chỉ ra một số nghĩa cơ bản và nhiều ví dụ
minh họa với cách dịch cụ thể, giúp các dịch giả bớt lúng túng khi gặp các giới từ
IN, ON, AT, OUT trong thành ngữ tiếng Anh.
6. Bố cục của luận án
Ngoài Mở đầu, phần chính văn của luận án được chia thành bốn chương.
Chương một: Cơ sở lý luận
Nội dung chương này trình bày những cơ sở lý thuyết căn bản về thành ngữ,
động từ phức đoạn các khái niệm lý thuyết về thành ngữ của người Anh và người
Việt. Đây là những cơ sở lý luận cần có để tìm hiểu về giới từ trong tiếng Anh cũng
như trong tiếng Việt. Trong chương này chúng tôi cũng giới thiệu tổng quan về một
số khái niệm căn bản khác trong ngôn ngữ học tri nhận giúp cho việc tìm hiểu và lý
giải sự phát triển ngữ nghĩa của thành ngữ cũng như giới từ trong thành ngữ.
Chương hai: Những giới từ xuất hiện nhiều nhất trong thành ngữ tiếng Anh
(IN, ON, AT, OUT).
Trong chương này chúng tôi tiến hành khảo sát các giới từ tiếng Anh có tần
số xuất hiện cao trong từ điển của Longman và Oxford ở hai phương diện ngữ nghĩa
và ngữ pháp, đó là bốn giới từ đơn IN, ON, AT và OUT. Chúng tôi miêu tả và phân
tích ngữ nghĩa của từng giới từ và sự chuyển đổi từ loại của bốn giới từ đơn này.
Sau cùng chúng tôi cố gắng phân biệt cách dùng của IN, ON, AT, OUT thông qua
nhiều ví dụ cụ thể để giúp người học có thể học và sử dụng những giới từ này dễ
dàng và hiệu quả.
Chương ba: Giới từ IN, ON, AT, OUT tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận.
Ở chương này chúng tôi giới thiệu chi tiết về một số khái niệm căn bản của
ngôn ngữ học tri nhận như khái niệm nghiệm thân, tâm lan tỏa, lý thuyết ẩn dụ ý
niệm của Lakoff và Johnson và sự đa nghĩa của từ. Thông qua các lý thuyết và khái
niệm này của ngôn ngữ học tri nhận, chúng tôi lý giải sự phát triển về ngữ nghĩa của
12
các giới từ không gian IN, ON, AT, OUT trong tiếng Anh, đó là quá trình lan tỏa từ
các nghĩa không gian sang các nghĩa phi không gian.
Chương bốn: So sánh giới từ IN, ON, AT, OUT với đơn vị tương đương
trong thành ngữ tiếng Việt.
Trong chương này chúng tôi điểm lại, phân tích và tổng kết quan điểm của
các nhà nghiên cứu nhằm nêu bật mối quan hệ và tác động, lẫn nhau giữa ngôn ngữ,
tri nhận và văn hóa. Sau đó chúng tôi so sánh và phân tích chi tiết về ngữ nghĩa của
từng giới từ trong thành ngữ tiếng Anh so sánh với thành ngữ tiếng Việt, thông qua
đó nêu ra sự tương đồng cũng như sự khác biệt về cách tư duy, về tri nhận không
gian giữa người Anh và người Việt. Cuối chương chúng tôi đề xuất một số cách dạy
và học nhằm giúp học viên người Việt học tiếng Anh và học viên người nói tiếng
Anh học tiếng Việt tốt nhất và hiệu quả nhất. Và từ đó chúng tôi cũng đưa ra những
giải pháp giúp cho việc dịch thuật giới từ trong thành ngữ từ tiếng Anh sang tiếng
Việt cũng như từ tiếng Việt sang tiếng Anh được hay hơn, dễ dàng và hợp lí hơn.
Ngoài ra, luận án có 10 phụ lục. Phụ lục 1 là toàn bộ các câu dịch của sinh
viên, thông qua các câu dịch này chúng tôi đã đi tìm và phân tích những lỗi điển
hình sinh viên hay mắc phải để từ đó đưa ra giải pháp giúp sinh viên học và sử dụng
giới từ cũng như thành ngữ tiếng Anh thông thạo và hiệu quả hơn. Phụ lục 2 là toàn
bộ thành ngữ có từ HAND
1
, phần này được dùng để đối chiếu và so sánh với các
thành ngữ có từ TAY trong thành ngữ tiếng Việt để thấy rõ những tương đồng và
khác biệt cũng như vai trò và vị trí của giới từ trong thành ngữ tiếng Anh so sánh
với thành ngữ tiếng Việt. Phụ lục 3, 4, 5, 6 là nguồn ngữ liệu phân tích, khảo sát để
về việc học và tiếp thu giới từ trong thành ngữ tiếng Anh. Phụ lục 7: thành ngữ
tiếng Việt có các từ như “TRONG, TRÊN, VÀO, RA, Ở, TẠI ” Phụ lục 8, danh
sách giới từ tiếng Anh. Phụ lục 9, thành ngữ tiếng Việt có từ Tay. Phụ lục 10: Sơ đồ
ngữ nghĩa của IN, ON, AT, OUT.
1
Sở dĩ chúng tôi chọn thành ngữ có từ HAND (tay) vì theo ngôn ngữ học tri nhận, các bộ phận cơ thể người đóng một vai trò cực kỳ
quan trọng trong các quá trình nghiệm thân. Trong số các bộ phân cơ thể người, thì HAND (tay) được xem là bộ phận quan trọng bậc
nhất trong quá trình con người lao động, tương tác với môi trường.
13
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Giới từ trong tiếng Anh
1.1.1 Định nghĩa giới từ
Trong tiếng Anh giới từ có một vai trò rất quan trọng cả trên phương diện
ngữ pháp cũng như trong việc tạo nên nghĩa của câu. Các tác giả Anh ngữ có nhiều
định nghĩa về giới từ, chúng tôi xin nêu ra một số định nghĩa. Theo Michael Swan
thì “giới từ là những từ như on, off, of, into, và thường đi theo sau nó là một danh từ
hay một đại từ” [147, xxiii]. Theo từ điển Oxford Advanced Learner (2010) thì
“giới từ là một từ hay một nhóm từ như là in, from, to, out of, on behalf of, được
dùng trước một danh từ hay đại từ để chỉ nơi chốn, vị trí, thời gian hay phương
cách. Còn cụm giới từ là một giới từ và danh từ đi theo sau giới từ đó ví dụ như ‘at
night hay after breakfast’” [108]. Theo David Thatcher thì “giới từ là một loại từ
loại dùng để nối hoặc liên hệ một phần của câu, thường là danh từ, hay đại từ, hay
động từ dưới hình thức V+ing hay một bổ ngữ (complement) tương đương với các
phần khác của câu hay với cả câu.” [167, 15]
Nhìn chung, định nghĩa của các tác giả đều có điểm thống nhất, đó là: giới từ
là từ nối trong câu, giới từ thường đứng sau động từ và trước các thành phần khác
của câu. Vị trí của giới từ trong câu rất linh hoạt. Trong luận án này chúng tôi sẽ sử
dụng định nghĩa giới từ của David Thatcher.
1.1.2. Vai trò và vị trí của giới từ trong câu
Tiếng Anh có khoảng 140 giới từ nhưng theo David Thatcher thì có 66 giới
từ đơn được dùng thường xuyên. Đó là những giới từ sau:
1)about, 2) above, 3) across, 4) after, 5) against, 6) along, 7)alongside, 8)amid(st),
9)among(st), 10)around, 11)as, 12)at, 13)before, 14)behind, 15)below, 16)beneath,
17)beside(s), 18)between, 19)beyond, 20)but, 21)by, 22)concerning, 23)considering,
24)despite, 25)down, 26)during, 27)except, 28)for, 29)from,30)in, 31)inside,
14
32)into, 33)less, 34)like, 35)minus, 36)near, 37)notwithstanding, 38)of, 39)off,40)
on, 41)onto, 42)opposite, 43)out, 44)outside, 45)over, 46)past, 47)pending, 48)plus,
49)regarding, 50)round, 51)since, 52)through, 53)throughout, 54)till, 55)to,
56)toward(s), 57)under, 58)underneath, 59)unlike, 60)until, 61)up, 62)upon, 63)via,
64)with, 65)within, 66)without.
Theo như định nghĩa thì giới từ là từ dùng để nối (liên kết - link), để thiết lập
quan hệ, giúp các đơn vị trở thành một chuỗi liên quan với nhau về ngữ pháp và ngữ
nghĩa. Giới từ có thể diễn tả nguyên nhân, tác nhân, công cụ, cách thức, phương
tiện, chức năng, và mục đích. Giới từ có khi được so sánh như là một loại vữa hay
hồ liên kết các khối nguyên liệu (là các từ loại khác, chủ yếu là danh từ hoặc danh
ngữ) lại với nhau thành những bức tường trong một tòa nhà (là câu hay đoạn văn).
Ta hãy xét ví dụ, câu “I went the cinema my friend the evening the twenty-fifth” (tôi
đến rạp chiếu phim bạn tôi buổi tối 25) có thể bị xem như là một đống gạch lộn
xộn, không rõ nghĩa, nhưng khi chúng ta đưa giới từ to, with, on và of vào những vị
trí thích hợp ở trong câu, để có “I went to the cinema with my friend on the evening
of the twenty-fifth” (tôi đến rạp chiếu phim với bạn tôi vào buổi tối 25) thì những
viên gạch nguyên liệu đó đã được gắn kết lại với nhau thành một câu kết cấu chặt
chẽ đầy ý nghĩa [167,158]. Như vậy rõ ràng là việc loại bỏ giới từ sẽ dẫn đến câu
viết trơ trụi, nghèo nàn, lộn xộn dễ nhầm lẫn [dẫn theo 167, 15].
Thường thì tất cả các giới từ có thể ở vị trí đầu câu. Một giới từ có thể được
đặt trước hoặc sau những giới từ khác ví dụ: “They are not up to such a difficult
job”. Giới từ cũng có thể được đặt trước hay đặt sau động từ, trạng từ, tính từ, danh
từ hay danh động từ (gerund). David Thatcher đã so sánh vị trí của giới từ trong câu
như một người dân du mục nay đây mai đó, hay một ngôi sao bóng đá di chuyển
khắp sân cỏ. Tuy nhiên, giới từ phải đứng trước mạo từ (article: a, an, the) và đại từ
sở hữu (him/his, her/her, it/its). Nên nhớ là giới từ không được phép đứng trước
hoặc sau đại từ làm chủ ngữ (I, he, she), và thường thì giới từ không đặt cuối câu
[167, 23].
15
Có trường hợp trong câu ta có thể bỏ được giới từ, nhưng cũng có những
trường hợp không thể bỏ giới từ được. Một số giới từ có thể có một hoặc nhiều
nghĩa. Chẳng hạn, từ điển OED cho chúng ta đến 10 nghĩa của giới từ with. Trong
những trường hợp mà nghĩa của giới từ là nghĩa hàm chỉ của động từ đứng trước
giới từ đó (implied in the preceding verb) thì chúng ta có thể bỏ giới từ đó đi được.
Ví dụ: “climb (up) the mountain”, “pass (by) the forest”, “turn (round) the corner”
thì những giới từ (up), (by), (round) có thể bỏ được. Nhưng cũng có những trường
hợp, người ta thêm giới từ vào mà thực sự không cần thiết, ví dụ như: “catch on
fire”, “plummet down”. Hoặc ví dụ trong câu “Peter Mandelson has no special
knowledge or interest in Northern Ireland,” chúng ta có thể thêm giới từ of vào sau
từ knowledge. Trong tiếng Anh có một số động từ không bắt buộc phải có giới từ đi
theo động từ đó và không làm thay đổi nghĩa của động từ “approve of/approve”,
“offend against/ offend”, “repent of/repent” và trong những trường hợp này chúng
ta có thể bỏ được giới từ. Tuy nhiên có những trường hợp khi đưa thêm giới từ vào
thì nghĩa thay đổi, hay động từ bắt buộc phải có giới từ đi kèm.
Theo Tom Cole thì đôi khi việc sử dụng giới từ là không bắt buộc và điều
này khiến việc sử dụng giới từ càng thêm rối rắm. Ông đưa ra ví dụ so sánh: “When
I’m at home, I feel safe” và “when I’m home, I feel safe”, các câu hoàn toàn không
khác nhau về nghĩa, như vậy có giới từ AT hay không có AT đi trước chữ home thì
nghĩa của câu không có khác biệt gì. [81, 23-24].
1.1.3. Phân loại giới từ trong tiếng Anh
Về mặt ngữ nghĩa, có thể xem xét các loại giới từ và nghĩa cơ bản của theo
các phạm trù không gian (space), thời gian (time) và ẩn dụ (metaphor) chuyển đổi
từ phạm trù này sang phạm trù khác. Về mặt cấu tạo, Yule chia giới từ thành hai
loại đó là giới từ đơn (simple prepositions) và giới từ phức (complex prepositions).
Giới từ đơn lại có thể chia thành hai loại dựa trên cách dùng về ngữ pháp
(grammatical uses) và cách dùng về từ vựng (lexical uses) [181, 158]. Do khuôn
khổ có giới hạn của luận án, nên chúng tôi chỉ khảo sát có chọn lọc “giới từ đơn”
trong tiếng Anh.