Nguyễn Công Vinh
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Một số vấn đề về tài sản của doanh nghiệp và vai trò của tài sản
trong doanh nghiệp
1.1.1. Một số vấn đề về tài sản của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm tài sản của doanh nghiệp
Tài sản của doanh nghiệp là tất cả nguồn lực có thực, hữu hình
hoặc vô hình gồm các vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản của
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, có khả năng mang lại lợi ích
cho doanh nghiệp đó.
1.1.1.2. Phân loại tài sản của doanh nghiệp
Tài sản của doanh nghiệp thường được chia thành hai loại: Tài sản
ngắn hạn và tài sản dài hạn.
Tài sản ngắn hạn:
Tài sản ngắn hạn là những tài sản mà thời gian sử dụng, thu hồi luân
chuyển trong một năm hoặc một chu kỳ kịnh doanh. Tài sản ngắn hạn
gồm:
- Tiền và các khoản tương đương tiền: Tiền được hiểu là tiền mặt,
tiền gửi ngân hang và tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là
các khoản đầu tư ngắn hạn không quá 3 tháng, có khả năng chuyển đổi dễ
dàng thành tiền và không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi thành tiền và
không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi thành tiền. Để khắc phục những
nhược điểm mà chỉ tiêu “Tiền và các khoản tương đương tiền” trên Bảng
cân đối kế toán có thể đem lại do tính thời điểm của chỉ tiêu này, khi xem
xét cần căn cứ vào nhu cầu thực tế về tiền của doanh nghiệp trong từng
giai đoạn để nhận xét. Khoản mục này có thể tăng hoặc giảm không phải
do ứ đọng (hay thiếu tiền) mà có thể do doanh nghiệp đang có kế hoạch
tập trung tiền để chuẩn bị đầu tư mua sắm vật tư, tài sản,… hay do doanh
nghiệp vừa đầu tư vào một số lĩnh vực kinh doanh.
- Tài sản tài chính ngắn hạn: bao gồm các khoản đầu tư chứng
khoán có thời hạn thu hồi dưới một năm hoặc trong một chu kỳ kinh
doanh (như: tín phiếu kho Bạc, kỳ phiếu ngân hàng…) hoặc chứng khoán
mua vào bán ra (cổ phiếu, trái phiếu) để kiếm lời và các khoản đầu tư tài
chính khác không quá một năm.
- Tồn kho: Bao gồm vật tư, hàng hóa, sản phẩm, sản phẩm dở
dang. Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành liên tục,
1
Nguyễn Công Vinh
không bị gián đoạn, đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định được lượng hàng
tồn kho dự trữ hợp lý. Lượng hàng tồn kho dự trữ hợp lý là lượng dự trữ
vừa đáp ứng được nhu cầu kinh doanh liên tục, vừa không gia tăng chi
phí tồn kho gây ứ đọng vốn. Lượng dự trữ hợp lý phụ thuộc vào nhiều
nhân tố, trong đó chủ yếu vào quy mô sản xuất, tiêu thụ (lượng vật tư tiêu
dùng hay hàng hóa tiêu thụ bình quân một ngày đêm), vào mức độ
chuyên môn hóa, vào hệ thống cung cấp, vào tình hình tài chính của
doanh nghiệp và vào các nguyên nhân khác (tính thời vụ, vào định mức
tiêu hao vật tư, vào thuộc tính tự nhiên của vật tư hàng hóa, vào việc đảm
bảo các phương tiện vận chuyển cũng như khả năng cung cấp của người
bán). Khi xem xét tỷ trọng hàng tồn kho trong tổng tài sản, cần liên hệ
với ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, với chính sách
dự trữ, với tính thời vụ của kinh doanh và chu kỳ sống của sản phẩm
hàng hóa. Chẳng hạn, trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại, tỷ
trọng hàng tồn kho thường lớn do đối tượng kinh doanh của doanh nghiệp
này là hàng hóa; ngược lại, trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
(khách sạn, du lịch, giải trí, …), tỷ trọng hàng tồn kho thường chiếm tỷ
trọng thấp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh mang tính
thời vụ, vào những thời điểm nhất định trong năm, tỷ trọng hàng tồn kho
thường rất cao do yêu cầu dự trữ thời vụ; ngược lại, vào những thời điểm
khác, lượng hàng tồn kho lại quả thấp. Tương tự, khi sản phẩm hàng hóa
đang ở giai đoạn tăng trưởng, lượng dự trữ hàng tồn kho thường cao để
đáp ứng nhu cầu chiếm lĩnh thị trường; còn khi sản phẩm hàng hóa ỏ vào
giai đoạn suy thoái, để tránh rủi ro, lượng hàng hóa tồn kho thường được
giảm xuống ở mức thấp nhất.
Một doanh nghiệp có hệ thống cung cấp tốt sẽ giảm được lượng hàng
tồn kho mà không ảnh hưởng đến tính liên tục của quá trình kinh doanh.
Hệ thống cung cấp được xem là tiên tiến hiện nay được áp dụng là hệ
thống cung cấp kịp thời (Just in time). Theo hệ thống này, mọi nhu cầu về
vật tư, hàng hóa phục vụ cho sản xuất – kinh doanh trong kỳ đều được
doanh nghiệp lập kế hoạch và ký hợp đồng với các nhà cung cấp hết sức
chi tiết. Vì thế, doanh nghiệp không cần phải dự trữ hàng tồn kho, khi sử
dụng đến đâu, các nhà cung cấp sẽ phục vụ tới đó. Nhờ vậy, doanh
nghiệp không những tiết kiệm được vốn trong khâu dự trữ mà còn tiết
kiệm được các chi phí liên quan đến kho tàng bảo quản, bảo vệ, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói riêng và hiệu quả kinh doanh nói
chung.
2
Nguyễn Công Vinh
- Các khoản phải thu: Các khoản phải thu là một loại tài sản của
công ty tính dựa trên tất cả các khoản nợ, các giao dịch chưa thanh toán
hoặc bất cứ nghĩa vụ tiền tệ nào mà các con nợ hay khách hàng chưa
thanh toán cho công ty. Các khoản phải thu được kế toán của công ty ghi
lại và phản ánh trên bảng cân đối kế toán, bao gồm tất cả các khoản nợ
công ty chưa đòi được, tính cả các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán.
Khoản phải thu này tăng hoặc giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Tuy nhiên, khi xem xét nội dung này cần liên hệ với phương thức tiêu thụ
(bán buôn, bán lẻ), với chính sách tín dụng bán hàng (tín dụng ngắn hạn,
tín dụng dài hạn), với chính sách thanh toán tiền hàng (chiết khấu thanh
toán), với khả năng quản lý nợ cũng như năng lực tài chính của khách
hàng, … để nhận xét. Chẳng hạn, số nợ phải thu tăng hoặc giảm không
phải do yếu kém của doanh nghiệp trong quản lý nợ mà có thể do phương
thức tiêu thụ áp dụng tại doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp áp dụng
phương thức bán lẻ là chủ yếu thì số nợ phải thu sẽ thấp do hàng bán ra
được thu tiền ngay; ngược lại, với doanh nghiệp áp dụng phương thức
bán buôn là chủ yếu thì tỷ trọng nợ phải thu sẽ cao do đặc trưng phương
thức tiêu thụ này là thanh toán chậm. Hoặc với chính sách tín dụng bán
hàng khác nhau trong thời kỳ doanh nghiệp áp dụng chính sách tín dụng
bán hàng dài hạn, số nợ phải thu chắc chắn sẽ lớn hơn số nợ phải thu
trong thời kỳ áp dụng chính sách bán hàng ngắn hạn. Do chính sách tín
dụng bán hàng có quan hệ chặt chẽ với lượng hàng hóa tiêu thụ và được
coi như một biện pháp để kích thích tiêu thụ nên khi xem xét số nợ phải
thu phát sinh, cần liên hệ với lượng hàng hóa tiêu thụ để đánh giá. Việc
áp dụng chính sách chiết khấu thanh toán cũng có quan hệ trực tiếp với số
nợ phải thu. Bởi vậy, để thu hồi vốn kịp thời, tránh bị chiếm dụng vốn,
doanh nghiệp cần xây dựng và vận dụng chính sách chiết khấu thanh toán
hợp lý, linh hoạt. Trường hợp do khả năng quản lý khách hàng kém,
khoản nợ phải thu sẽ tăng do phát sinh các khoản “nợ xấu” trong kỳ (nợ
khó đòi, nợ quá hạn), để giảm bớt rủi ro có thể xảy ra, doanh nghiệp cần
có các biện pháp thích hợp như: bán các khoản nợ cho công ty mua bán
nợ, ngừng cung cấp hàng hóa cho khách hàng này hay nhờ sự can thiệp
của pháp luật để thu hội nợ. Đồng thời, để tránh tình trạng nợ đọng thêm,
doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ càng năng lực tài chính của khách hàng và
tình hình thanh toán của khách hàng trước khi đặt quan hệ làm ăn.
Ngoài ra, còn có tài sản ngắn hạn khác.
Tài sản dài hạn:
3
Nguyễn Công Vinh
Tất cả các tài sản khác ngoài tài sản ngắn hạn được xếp vào loại
tài sản dài hạn. Tài sản dài hạn bao gồm các khoản phải thu dài hạn, tài
sản cố định, bất động sản đầu tư, các khoản tài sản tài chính dài hạn và
các tài sản dài hạn khác.
Các khoản phải thu dài hạn: là các khoản phải thu dài hạn của khách
hàng, phải thu nội bộ dài hạn và các khoản phải thu dài hạn khác có thời
hạn thu hồi hoặc thanh toán trên một năm.
Bất động sản đầu tư: Là những bất động sản, gồm: quyền sử dụng đất,
nhà hoặc một phần của nhà và đất, cơ sở hạ tầng do người chủ sở hữu
hoặc người đi thuê tài sản theo hợp đồng thuê tài chính nắm giữ nhằm
mục đích thu lợi từ việc cho thuê hoặc chờ tăng giá mà không phải để sử
dụng trong sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ hay cho các mục đích
quản lý hoặc bán trong kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường.
Một bất động sản đầu tư được ghi nhận là tài sản phải thỏa mãn
đồng thời 2 điều kiện sau: Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương
lai, nguyên giá của bất động sản đầu tư bao gồm giá mua, và các chi phí
tài chính liên quan, thuế trước bạ và các chi phí giao dịch khác. Nguyên
giá của bất động sản đầu tư bao gồm giá mua và các chi phí liên quan trực
tiếp như: phí dịch vụ tư vấn pháp luật liên quan, thuế trước bạ và các chi
phí giao dịch liên quan khác.
Tài sản cố định: Là những tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử
dụng dài cho các hoạt động của doanh nghiệp. Thông tư số 45/2013/TT-
BTC ngày 25/4/2013 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn chế độ quản lý,
sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định (TSCĐ) thì nếu thỏa mãn đồng
thời cả ba tiêu chuẩn dưới đây thì được coi là tài sản cố định:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng
tài sản đó.
- Có thời gian sử dụng trên 1 năm trở lên.
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy và có giá trị
từ 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) trở lên.
Trong điều kiện hiện nay, việc đầu tư đổi mới tài sản cố định là một
trong các yếu tố quyết định tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vì:
- Tài sản cố định là yếu tố quyết định năng lực sản xuất – kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Nhờ đổi mới tài sản cố định mới có được năng suất cao, chất lượng
sản phẩm và dịch vụ tốt, chi phí tạo ra sản phẩm, dịch vụ thấp tạo điều
kiện đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, dịch làm tăng doanh thu và do đó
4
Nguyễn Công Vinh
doanh nghiệp mới có đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Xét trên góc độ
này, đầu tư đổi mới tài sản cố định kịp thời, hợp lý trở thành vấn đề sống
còn đối với mỗi doanh nghiệp.
- Xét trên góc độ đó tài chính doanh nghiệp, sự nhạy cảm trong đầu tư
đổi mới tài sản cố định là một nhân tố quan trọng để giảm chi phí như:
Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định, hạ thấp hao phí năng lượng, giảm
chi phí biến đổi để tạo ra sản phẩm và là biện pháp rất quan trọng để hạn
chế hao mòn vô hình trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật phát
triển nhanh, mạnh như hiện nay.
Tài sản cố định được phân loại dựa trên các tiêu thức nhất định nhằm
phục vụ cho những yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Thông thường có
một số cách thức phân loại chủ yếu sau:
- Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện: Theo phương
pháp này, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia làm hai
loại: Tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình.
Tài sản cố định hữu hình: Là những tài sản cố định có hình thái vật
chất cụ thể do doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh như: Nhà
cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị truyền
dẫn….vv
Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật
chất cụ thể nhưng xác định được giá trị do doanh nghiệp quản lý và sử
dụng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho
các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn tài sản cố định vô hình.
Thông thường, tài sản cố định vô hình bao gồm: Quyền sử dụng đất có
thời hạn, nhãn hiệu hàng hóa, quyền phát hành, phần mềm máy vi tính,
bản quyền sáng chế…
Phương pháp phân loại này giúp cho người quản lý thấy được cơ
cấu đầu tư vào tài sản cố định theo hình thái biểu hiện, là căn cứ để quyết
định đầu tư tài sản dài hạn hoặc điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phù hợp và
có biện pháp quản lý phù hợp với mỗi loại tài sản cố định.
- Phân loại tài sản theo mục đích sử dụng: Dựa theo tiêu thức này,
toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh: Là những tài sản cố
định đang dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động
sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp.
Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh,
quốc phòng: Là những tài sản cố định không mang tính chất sản xuất do
5
Nguyễn Công Vinh
doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp
và các hoạt động đảm bảo an ninh quốc phòng.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý doanh nghiệp thấy được
kết cấu tài sản cố định theo mục đích sử dụng, từ đó tạo điều kiện thuận
lợi cho việc quản lý và tính khấu hao tài sản cố định có tính chất sản xuất,
có biện pháp quản lý phù hợp với mỗi loại tài sản cố định.
Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng:
Căn cứ vào tình hình sử dụng tài sản cố định có thể chia toàn bộ
tài sản cố định của doanh nghiệp thành các loại sau:
- Tài sản cố định đang dùng
- Tài sản cố định chưa cần dùng
- Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý
Dựa vào cách phân loại này, người quản lý nắm được tổng quát
tình hình sử dụng tài sản cố định trong doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đề ra
các biện pháp sử dụng tối đa các tài sản cố định hiện có trong doanh
nghiệp, giải phóng nhanh các tài sản cố định không cần dùng và chờ
thanh lý để thu hồi vốn.
Tài sản tài chính dài hạn: Là các khoản đầu tư vào việc mua bán các
chứng khoán có thời hạn thu hồi trên một năm hoặc góp vốn liên doanh
bằng tiền bằng hiện vật, mua cổ phiếu có thời hạn thu hồi vốn trên một
năm và các loại đầu tư khác vượt quá thời hạn trên một năm. Có thể nói
tài sản tài chính dài hạn là các khoản vốn mà doanh nghiệp đầu tư vào các
lĩnh vực kinh doanh, ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trong thời hạn trên một năm nhằm tạo ra nguồn lợi tức lâu dài cho
doanh nghiệp.
Cụ thể, tài sản tài chính dài hạn bao gồm:
- Các chứng khoán dài hạn, phản ánh giá trị các khoản đầu tư cho việc
mua bán các cổ phiếu và trái phiếu có thời hạn trên một năm và có thể
bán ra bất cứ lúc nào với mục đích kiếm lợi nhuận.
Tài sản dài hạn khác bao gồm: Chi phí trả trước dài hạn, tài sản thuế
thu nhập hoàn lại, tài sản dài hạn khác
1.1.2. Vai trò của tài sản trong doanh nghiệp
1.1.2.1. Vai trò của tài sản ngắn hạn
Để tiến hành sản xuất, ngoài tài sản cố định như máy móc, thiết bị,
nhà xưởng…vv doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua
sắm hàng hóa, nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy,
tài sản ngắn hạn là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động
6
Nguyễn Công Vinh
hay nói cách khác tài sản ngắn hạn là điều kiện tiên quyết của quá trình
sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, tài sản ngắn hạn còn đảm bảo cho quá trình sản xuất của
doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. Tài sản ngắn hạn
còn là công cụ phản ánh đánh giá quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất,
tiêu thụ của doanh nghiệp.
Tài sản ngắn hạn còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động
của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Vai trò của tài sản dài hạn
Tài sản dài hạn (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ yếu tham gia
vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nó gắn liền với
doanh nghiệp trong suốt quá trình tồn tại. Doanh nghiệp có tài sản cố
định có thể không lớn về mặt giá trị nhưng tầm quan trọng của nó lại
không nhỏ chút nào.
TSCĐ phản ánh mặt bằng cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp, phản ánh
quy mô của doanh nghiệp có tương xứng hay không với đặc điểm loại
hình kinh doanh mà nó tiến hành.
TSCĐ luôn mang tính chất quyết định đối với quá trình sản xuất
hàng hóa của doanh nghiệp. Do đặc điểm luân chuyển của mình qua mỗi
chu kỳ sản xuất, tài sản cố định tồn tại trong trong một thời gian dài và nó
tạo ra tính ổn định trong chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp cả về sản
lượng và chất lượng.
Trong nền kinh tế thị trường, khi mà nhu cầu tiêu dùng được nâng
cao thì cũng tương ứng với tiến trình cạnh tranh ngày càng trở nên gay
gắt hơn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm sao để tăng năng
suất lao động, tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành
hạ, nhằm chiếm lĩnh thị trường. Sự đầu tư không đúng mức đối với tất cả
tài sản cố định cũng như việc đánh giá thấp tầm quan trọng của TSCĐ dễ
đem lại những khó khăn sau cho doanh nghiệp:
- TSCĐ không đủ tối tân để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác cả
về chất lượng và giá thành sản phẩm. Điều này có thể dẫn đến các doanh
nghiệp đến bờ vực phá sản nếu lượng vốn của nó không đủ để cải tạo, đổi
mới tài sản.
- Sự thiếu hụt các khả năng sản xuất sẽ giúp các đối thủ cạnh tranh
giành mất một phần thị trường của doanh nghiệp và điều này buộc doanh
nghiệp khi muốn giành lại thị trường khách hàng đã mất phải tốn kém
7
Nguyễn Công Vinh
nhiều về chi phí tiếp thị hay phải hạ giá thành sản phẩm hoặc cả hai biện
pháp.
TSCĐ còn là một công cụ huy động vốn khá hữu hiệu:
- Đối với vốn vay ngân hàng thì tài sản cố định được coi là điều kiện
khá quan trọng bởi nó đóng vai trò là vật thế chấp cho món tiền vay. Trên
cơ sở trị giá của tài sản thế chấp Ngân hàng mới có quyết định cho vay
hay không và cho vay với số lượng là bao nhiêu.
- Theo Các Mác(Karl Max): Tài sản dài hạn là “xương sống và bắp
thịt” của sản xuất, tài sản cố định là nhận tố quan trọng để tăng năng suất
lao động và phát triển kinh tế. Nó thể hiện một cách chính xác nhất năng
lực và trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi doanh nghiệp tiên
tiến hay lạc hậu.
- Tài sản cố định của doanh nghiệp được coi là lạc hậu, lỗi thời hay
tiến tiến hiện đại sẽ quyết định năng lực sản xuất yếu kém hay năng lực
sản xuất cao. Trình độ trang thiết bị TSCĐ cao hay thấp dẫn đến năng
suất lao động cao hay thấp, nghĩa là TSCĐ có trình độ công nghệ hiện đại
hơn thì trong một khoảng thời gian nhất định khả năng sản xuất sẽ cao
hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm, hoàn thiện hơn cả về mẫu mã và chất
lượng sản phẩm. TSCĐ càng hiện đại thì tiêu hao nguyên vật liệu đầu vào
sẽ ít hơn, khiến cho giá thành sản phẩm hạ thấp hơn, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp có lợi thế về khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- TSCĐ được coi là thứ vũ khí quan trọng đối với doanh nghiệp trong
quá trình cạnh tranh. Doanh nghiệp nào sở hữu được TSCĐ mới hơn,
hiện đại hơn sẽ là doanh nghiệp chiến thắng. Do đó, người ta luôn vươn
tới trình độ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hơn, hiện đại hơn để không chỉ
khỏi tụt hậu, thua thiệt với các doanh nghiệp khác
1.2.Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp
Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản là xem xét hiệu quả sử dụng của
các loại tài sản lưu động và tài sản lưu động của doanh nghiệp giữa kỳ
này với kỳ trước. Cụ thể phân tích các vấn đề:
Phân tích tình hình sử dụng tài sản để đáp ứng đầy đủ, kịp thời khả
năng thanh toán, tăng tốc độ luân chuyển tài sản. Nếu doanh nghiệp dự
trữ tài sản đáp ứng kịp thời khả năng thanh toán đến hạn hoặc sắp đến
hạn, tài sản không sinh lời không dự trữ nhiều chứng tỏ việc sử dụng có
hiệu quả và ngược lại.
Phân tích tốc độ luân chuyển của toàn bộ tài sản dựa trên các chỉ
tiêu doanh thu trên tổng tài sản và lợi nhuận trên tổng tài sản để có thể
8
Nguyễn Công Vinh
thấy được một đồng tài sản (vốn) doanh nghiệp bỏ ra trong một thời kỳ
nhất định thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc lợi nhuận.
Phân tích khả năng sinh lời của một đồng tài sản lưu động và tài
sản cố định vì hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản cao hay thấp phụ thuộc
vào hiệu quả sử dụng của từng loại tài sản cấu thành nên tổng tài sản. Vì
vậy, ta cần phân tích các chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản lưu động và
hiệu suất sử dụng tài sản cố định để thấy được một đồng tài sản lưu động
hay một đồng tài sản cố định doanh nghiệp bỏ ra trong một kỳ thì thu
được bao nhiêu đồng doanh thu.
1.2.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tổng tài sản
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản:
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân trong
kỳ
Trong đó: Tổng tài sản bình quân trong kỳ là bình quân số học của
tổng tài sản có ở đầu kỳ và cuối kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị tài sản tạo ra bao nhiêu đơn vị doanh
thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn hiệu quả sử dụng tài sản của doanh
nghiệp là tốt, góp phần nâng cao khả năng đầu tư của chủ doanh nghiệp.
-Hệ số sinh lời tổng tài sản:
Hệ số sinh lời tổng tài sản (ROA) =
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Tổng tài sản bình quân
Hệ số sinh lời tổng tài sản phản ánh một đơn vị tài sản tạo ra bao
nhiêu đơn vị lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Chỉ tiêu này được sử dụng
để đo hiệu quả của việc tài trợ cho nhu cầu về tài sản của doanh nghiệp
bằng vốn chủ sở hữu và vốn vay. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn chi phí nợ thì
đầu tư bằng nợ có lợi cho doanh nghiệp hơn đầu tư bằng vốn chủ.
- Suất hao phí của tài sản so với doanh thu thuần:
9
Nguyễn Công Vinh
Khả năng tạo ra doanh thu của tài sản là một chỉ tiêu kinh tế cơ bản
để dự kiến vốn đầu tư khi doanh nghiệp muốn một mức doanh thu thuần
như dự kiến, chỉ tiêu này được xác định như sau:
Suất hao phí của tài
sản so với doanh thu
thuần
=
Tài sản bình quân
Doanh thu thuần bán hàng
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp thu được 1
đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu đồng tài sản đầu tư, chỉ tiêu này
càng thấp hiệu quả sử dụng tài sản càng tốt, góp phần tiết kiệm tài sản và
nâng cao doanh thu thuần trong thời kỳ của doanh nghiệp.
- Suất hao phí của tài sản so với lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế của các tài
sản mà doanh nghiệp đang sử dụng cho hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu
này thường được xác định như sau:
Suất hao phí của tài sản
so với lợi nhuận sau thuế =
Tài sản bình quân
Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp thu được 1
đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp thì cần bao nhiêu đồng
tài sản, chỉ tiêu này càng thấp hiệu quả sử dụng các tài sản càng cao.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
- Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn:
Hiệu suất sử dụng TSNH =
Doanh thu thuần
TSNH bình quân trong kỳ
Trong đó: TSNH bình quân trong kỳ là bình quân số học của TSNH
có ở đầu kỳ và cuối kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị giá trị TSNH sử dụng trong kỳ đem
lại bao nhiêu đơn vị doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tở hiệu quả
sử dụng TSNH càng cao.
- Hệ số sinh lời tài sản ngắn hạn:
Lợi nhuận sau thuế
10
Nguyễn Công Vinh
Hệ số sinh lời TSNH =
TSNH bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của TSNH. Nó cho biết mỗi
đơn vị giá trị TSNH có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau
thuế:
- Vòng quay tài sản ngắn hạn:
Vòng quay TSNH =
Doanh thu thuần
Tài sản ngắn hạn bình quân
Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ TSNH của doanh nghiệp quay
được bao nhiêu vòng, nếu vòng quay lớn thì chứng tỏ doanh nghiệp sử
dụng hiệu quả TSNH.
- Số ngày 1 vòng quay TSNH
Số ngày 1 vòng quay TSNH =
360
Vòng quay tài sản ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để TSNH quay được một
vòng. Thời gian quay càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng nhanh.
- Vòng quay hàng tồn kho:
Là số lần hàng hóa tồn kho bình quân trong kỳ được bán ra trong
kỳ kế toán. Vòng luân chuyển này càng nhanh thì hiệu quả do mộ đồng
tài sản mang lại càng cao, vòng quay hàng tồn kho cao thì doanh nghiệp
được đánh giá là hoạt động có hiệu quả, đã giảm được vốn đầu tư cho
hàng hóa dự trữ, rút ngắn được chu kỳ chuyển đổi hàng dự trữ thành tiền
mặt hoặc giảm bớt nguy cơ hàng hóa tồn kho thành hàng ứ đọng. Tuy
nhiên, vòng quay hàng tồn kho quá cao có thể dẫn tới nguy cơ doanh
nghiệp không đủ hàng hóa cung cấp cho việc bán hàng dẫn đến tình trạng
cạn kho, mất khách hàng gây ảnh hưởng tới tốc độ kinh doanh của doanh
nghiệp trong lâu dài.
11
Nguyễn Công Vinh
Ngược lại, tỷ số quay vòng hàng tồn kho thấp thì cho thấy có sự
tồn kho quá mức hàng hóa làm tăng chi phí một cách lãng phí. Sự quay
vòng tồn kho chậm có thể đặt doanh nghiệp vào tình thế khó khăn về tài
chính trong tương lai.
Công thức:
Vòng quay hàng tồn kho =
Doanh thu thuần
Hàng tồn kho bình quân
Số ngày của một vòng quay hàng tồn kho:
Số ngày của một vòng quay =
hàng tồn kho
360
Số vòng quay hàng tồn kho
Chỉ tiêu này cho biết số ngày để số hàng tồn kho quay được một
vòng. Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho và số ngày của một vòng quay
bằng hàng tồn kho tỷ lệ nghịch với nhau. Vòng quay tăng thì số ngày
giảm và ngược lại.
- Vòng quay các khoản phải thu:
Vòng quay các khoản phải thu =
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ biến đổi các khoản
phải thu thành tiền mặt. Hệ số này là một thước đo quan trọng để đánh
giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, được tính bằng cách lấy doanh
thu trong kỳ chia cho số dư bình quân các khoản phải thu trong kỳ. Nó
cho biết các khoản phải thu phải quay bao nhiêu vòng trong một kỳ báo
cáo nhất định để đạt được doanh thu trong kỳ đó. Tỷ số này càng lớn
chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu là cao. Quan sát số vòng quay
khoản phải thu sẽ cho biết chính sách bán hàng trả chậm của doanh
nghiệp hay tình hình thu hồi nợ của doanh nghiệp.
- Kỳ thu tiền bình quân:
Kỳ thu tiền bình quân =
360
12
Nguyễn Công Vinh
Vòng quay khoản phải thu
Tỷ số này cho biết doanh nghiệp mất bình quân là bao nhiêu ngày để
thu hồi các khoản phải thu của mình.
- Suất hao phí tài sản ngắn hạn so với lợi nhuận sau thuế
Suất hao phí TSNH so
với lợi nhuận =
Tài sản ngắn hạn bình quân
Lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này cho biết để có 1 đồng lợi nhuận sau thuế thì cần bao
nhiêu đồng tài sản ngắn hạn bình quân, chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ
hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao. Chỉ tiêu này còn là căn cứ để
các doanh nghiệp xây dựng dự toán về nhu cầu tài sản ngắn hạn khi muốn
có mức lợi nhuận như mong muốn.
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn
- Hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn
Hiệu suất sử dụng TSDH =
Doanh thu thuần
TSDH bình quân trong kỳ
Tróng đó: TSDH bình quân trong kỳ là bình quân số học của TSDH
có ở đầu kỳ và cuối kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị giá trị TSDH trong kỳ tạo ra bao
nhiêu đơn vị doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng
TSDH càng cao.
- Hệ số sinh lời tài sản dài hạn
Hệ số sinh lợi TSDH =
Lợi nhuận sau thuế
TSDH bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của TSDH. Nó cho biết mỗi
đơn vị giá trị TSDH có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau
thuế.
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định thì sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả sử dụng TSCĐ của
13
Nguyễn Công Vinh
doanh nghiệp ngày càng lớn. Hiệu suất TSCĐ được thể hiện qua công
thức:
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Doanh thu thuần
TSCĐ bình quân
Để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ, một mặt phải nâng cao quy mô
về kết quả đầu ra, mặt khác phải sử dụng hợp lý và tiết kiệm về cơ cấu
của TSCĐ.
- Mối quan hệ giữa tài sản dài hạn và vốn dài hạn
+ Nếu tài sản dài hạn lớn hơn nợ dài hạn và phần thiếu hụt được bù
đắp bởi vốn chủ sở hữu thì điều đó là hợp lý vì nó thể hiện doanh nghiệp
sử dụng đúng mục đích nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu, nhưng nếu phần
thiếu hụt này được bù đắp bởi nợ ngắn hạn thì điều này sẽ làm mất cân
đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
+ Nếu tài sản dài hạn nhỏ hơn nợ dài hạn, điều này chứng tỏ một phần
nợ dài hạn đã chuyển vào tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Hiện tượng này
vừa gây lãng phí chi phí lãi vay nợ dài hạn vừa thể hiện sử dụng sai mục
đích nợ dài hạn. Điều này có thể dẫn tới lợi nhuận kinh doanh giảm và
những rối loạn tài chính doanh nghiệp.
- Suất hao phí tài sản dài hạn so với lợi nhuận:
Suất hao phí tài sản dài
hạn so với lợi nhuận =
Tài sản dài hạn bình quân
Lợi nhuận sau thuế TNDN
- Hệ số hao mòn tài sản cố định:
Hệ số hao mòn tài sản =
cố định hữu hình
Số tiền khấu hao lũy kế đã trích
Nguyên giá TSCĐHH tại thời điểm
đánh giá
1.2.4. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản thông qua mô hình tài chính
Mô hình Dupont: Mô hình tài chính Dupont là một trong những mô hình
thường được vận dụng để phân tích hiệu quả sử dụng tài sản của doanh
nghiệp trong mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố đầu vào và kết quả
đầu ra. Yếu tố đầu vào của doanh nghiệp thể hiện bằng các tài sản đầu tư.
14
Nguyễn Công Vinh
Kết quả đầu ra của doanh nghiệp đó là chỉ tiêu doanh thu thuần, lợi
nhuận. Mục đích của mô hình tài chính Dupont là phân tích khả năng
sinh lợi của một đồng tài sản mà doanh nghiệp sử dụng dưới sự ảnh
hưởng cụ thể của những bộ phận tài sản, chi phí, doanh thu nào. Thông
qua phân tích, giúp cho các nhà quản trị đưa ra các quyết định nhằm đạt
được khả năng lợi nhuận mong muốn. Trong phân tích theo mô hình
Dupont, cụ thể như sau:
Tỷ suất sinh
lời của tài
sản (ROA)
=
LNST
=
LNST
x
Doanh thu
TSBQ Doanh thu TSBQ
Tỷ suất sinh lời
của tài sản (ROA) =
Tỷ suất sinh lời của
doanh thu (ROS) x
Vòng quay của tài sản
bình quân (SOA)
Sau đó dựa vào mô hình tài chính chi tiết này để nghiên cứu, xem xét
các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của tài sản (ROA).
Các nhân tố ảnh hưởng đến ROA theo mô hình Dupont.
Ý nghĩa của mô hình Dupont như sau: Bên phải triển khai số vòng
quay của toàn bộ tài sản bình quân: phần này trình bày tài sản ngắn hạn
bình quân cộng với tài sản dài hạn bình quân bằng tổng số tài sản doanh
nghiệp sử dụng. Doanh thu thuần tiêu thụ chia cho toàn bộ tài sản bình
quân cho biết số vòng quay của tài sản trong kỳ phân tích.
Số vòng quay của tài sản bình quân càng cao chứng tỏ sức sản xuất
của các tài sản đó càng nhanh, đó là nhân tố để tăng sức sinh lời của tài
sản.
Nhìn vào bên phải ta thấy vòng quay của tài sản bình quân bị ảnh
hưởng bởi những nhân tố sau:
- Tổng doanh thu thuần càng lớn, số vòng quay càng nhiều
- Tài sản bình quân càng nhỏ, số vòng quay càng nhiều
Song tổng doanh thu thuần và tổng tài sản bình quân có quan hệ
mật thiết với nhau, trong thực tế 2 chỉ tiêu này thường quan hệ cùng
chiều, khi tổng tài sản bình quân tăng thì tổng doanh thu thuần cũng tăng.
15
Nguyễn Công Vinh
Trên cơ sở đó nếu doanh nghiệp muốn tăng vòng quay của tài sản
thì cần phân tích các nhân tố liên quan, phát hiện các mặt tích cực, tiêu
cực của từng nhân tố để có biện pháp nâng cao số vòng quay của tài sản
bình quân, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Bên trái triển khai tỷ suất sinh lời của doanh thu thuần: Phần này
trình bày tổng chi phí bao gồm chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
Doanh thu thuần trừ đi tổng chi phí bằng lợi nhuận thuần, lợi nhuận thuần
chia cho doanh thu thuần bằng tỷ suất sinh lời của doanh thu thuần.
Bên trái cho biết những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của
doanh thu thuần. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp muốn tăng sức sinh lời của
doanh thu thuần cần có các biện pháp giảm chi phí bằng cách phân tích
những nhân tố cấu thành đến tổng chi phí để có biện pháp phù hợp. Đồng
thời tìm mọi biện pháp để nâng cao doanh thu, giảm các khoản giảm trừ.
Khi nghiên cứu khả năng sinh lời của tài sản cũng cần phải quan
tâm đến mức tăng của vốn chủ sở hữu bởi số vòng quay của tài sản bình
quân và sức sinh lời của doanh thu thuần là hai nhân tố không phải lúc
nào cũng tăng ổn định. Mặt khác, để tăng lợi nhuận trong tương lai cũng
cần phải đầu tư thêm. Việc tăng vốn chủ sở hữu phụ thuộc vào lợi nhuận
thuần và chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Do vậy, cần
phải kết hợp tăng vốn chủ sở hữu và tăng những nguồn tài trợ từ bên
ngoài. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp dựa vào mô
hình tài chính Dupont giúp đánh giá đầy đủ hiệu quả trên mọi phương
diện. Đồng thời phát hiện ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
tài sản để từ đó có các biện pháp nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản của doạnh
nghiệp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản, ngoài việc tính toán và phân
tích các chỉ tiêu trên, doanh nghiệp cũng cần hiểu rõ các nhân tố tác động
tới hiệu quả sử dụng tài sản. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra các
chiến lược và kế hoạch phù hợp với từng giai đoạn để có thể phát huy
hiệu quả sử dụng tài sản một cách tối đa giúp cho doanh nghiệp đạt được
những mục tiêu đề ra.
16
Nguyễn Công Vinh
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Trình độ cán bộ quản lý và tay nghề của công nhân
Có thể nói, con người là nhân tố quan trọng trong bất cứ hoạt động
nào. Trong hoạt động sản xuất- kinh doanh cũng vậy, con người đóng vai
trò quyết định đến hiệu quả hoạt động nói chung và hiệu quả sử dụng tài
sản nói riêng, đặc biệt là trình độ của cán bộ quản lý và tay nghề của
người công nhân.
Trước hết, về trình độ cán bộ quản lý: Trình độ cán bộ quản lý thể
hiện ở trình độ chuyên môn nhất định, khả năng tổ chức, quản lý và ra
quyết định.
Nếu cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng,
khả năng tổ chức, quản lý tốt đồng thời đưa ra những quyết định đúng
đắn, phù hợp với tình hình của doanh nghiệp và tình hình thị trường thì
hiệu quả sử dụng tài sản cao, mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp.
Nếu khả năng tổ chức, quản lý kém, quyết định sai lầm thì tài sản sẽ
không được sử dụng một cách hiệu quả dẫn đến doanh nghiệp có thể thua
lỗ, thậm chí phá sản. Như vậy, trình độ cán bộ quản lý đóng vai trò hết
sức quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản trong
doanh nghiệp. Do đó, yêu cầu đối với bộ phận này là rất cao, họ cần có
chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần trách nhiệm cao, năng
động, sáng tạo nhằm đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời cho doanh
nghiệp.
Thứ hai, về trình độ của công nhân: Bộ phận công nhân là bộ phận
trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ, trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nên
là nhân tố trực tiếp sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Đối với công nhân
sản xuất có tay nghề cao, có khả năng tiếp thu công nghệ mới, phát huy
được tính sáng tạo,tự chủ trong công việc, có ý thức giữ gìn và bảo quản
tài sản trong quá trình vận hành thì tài sản sẽ được sử dụng hiệu quả hơn
đồng thời sẽ tạo ra sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, hạ giá thành góp
phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu
trình độ tay nghề của người công nhân thấp, không nắm bắt được các thao
tác kỹ thuật, ý thức bảo quản máy móc kém sẽ dẫn tới tình trạng sử dụng
lãng phí nguyên vật liệu, giảm tuổi thọ của máy móc làm tăng giá thành,
giảm chất lượng sản phẩm. Điều đó có thể làm giảm doanh thu và lợi
nhuận của doanh nghiệp dẫn tới hiệu quả sử dụng tài sản giảm.
17
Nguyễn Công Vinh
1.3.1.2. Tổ chức sản xuất kinh doanh
Một quy trình sản xuất kinh doanh hợp lý sẽ khắc phục được tình
trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các khâu, góp phần tiết kiệm
nguồn lực, tăng năng suất lao động, giảm chi phí bất hợp lý, hạ giá thành
sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, một doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh tốt, có
nhiều giải pháp thực hiện chiến lược phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của
doanh nghiệp trong từng thời kỳ và phù hợp với nhu cầu thị trường thì
hiệu quả sử dụng tài sản sẽ cao.
Ngoài ra, sự tiến bộ của khoa học và công nghệ cũng đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của doanh
nghiệp. Nếu doanh nghiệp tiếp cận kịp thời với sự tiến bộ khoa học công
nghệ để đổi mới trang thiết bị thì sẽ giảm được hao mòn vô hình của tài
sản cố định, nâng cao chất lượng, đổi mới sản phẩm, hạ giá thành và nâng
cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.3.1.3. Đặc điểm sản xuất – kinh doanh
Đây là nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng tài
sản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có đặc điểm khác nhau về ngành
nghề kinh doanh sẽ đầu tư vào tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn khác
nhau. Tỷ trọng tài sản ngắn hạn và tài sqanr dài hạn khác nhau nên hệ số
sinh lợi của tài sản cũng khác nhau. Doanh nghiệp có đặc điểm hàng hóa
khác nhau và đối tượng khách hàng khác nhau nên chính sách tín dụng
thương mại cũng khác nhau dẫn đến tỷ trọng khoản phải thu khác nhau.
Như vậy, đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tác động quan
trọng đến hiệu quả sử dụng tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu tài
sản, vòng quay và hệ số sinh lợi của tài sản.
1.3.1.4. Năng lực quản lý tài sản của doanh nghiệp
Quản lý tài sản một cách khoa học chặt chẽ sẽ góp phần làm tăng
hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Quản lý tài sản của doanh nghiệp được thể hiện chủ yế trong các nội
dung sau:
Quản lý tiền mặt: Quản lý tiền mặt là quyết định mức tồn quỹ tiền
mặt, cụ thể là đi tìm bài toán tối ưu để ra quyết định cho mức tồn quỹ tiền
mặt sao cho tổng chi phí đạt tối thiểu mà vẫn đủ để duy trì hoạt động bình
thường của doanh nghiệp.
18
Nguyễn Công Vinh
Việc xác định lượng tiền mặt dự trữ chính xác giúp cho doanh
nghiệp đáp ứng các nhu cầu về giao dịch, dự phòng, tận dụng được những
cơ hội thuận lợi trong kinh doanh do chủ động trong hoạt động thanh toán
chi trả. Đồng thời, doanh nghiệp có thể đửa ra các biện pháp thích hợp
đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi nhằm thu lợi nhuận. Điều này đòi hỏi
nhà quản lý phải có năng lực phân tích và phán đoán tình hình trên thị
trường tiền tệ, thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó có
sự lựa chọn để đưa các quyết định sử dụng ngân quỹ đúng đắn, làm giảm
tối đa các rủi ro về lãi suất hoặc tỷ giá hối đoái, tối ưu hóa việc đi vay
ngắn hạn, tăng hiệu quả sử dụng tài sản.
Quản lý tiền mặt hiệu quả góp phần năng cao hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn nói riêng và hiệu quả sử dụng tài sản nói chung cho doanh
nghiệp.
Quản lý dự trữ, tồn kho: Trong quá trình luân chuyển vốn ngắn hạn
phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì hàng hóa dự trữ, tồn kho có ý nghĩa
rất lớn cho hoạt động của doanh nghiệp, nó như tấm đệm an toàn giữa các
giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
do các hoạt động này diễn ra không đồng bộ. Hơn nữa, hàng hóa dự trữ,
tồn kho giúp cho doanh nghiệp giảm thiệt hại trước những biến động của
thị trường. Tuy nhiên, nếu dự trữ quá nhiều sẽ làm tăng chi phí lưu kho,
chi phí bảo quản và gây ứ đọng vốn. Vì vậy, căn cứ vào kế hoạch sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng sẵn sang cung ứng của nhà
cung cấp cùng với những dự đoán biến động của thị trường, doanh nghiệp
cần xác định một mức tồn kho hợp lý nhằm nâng cao hiêu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp.
Quản lý các khoản phải thu: Trong nền kinh tế thị trường, việc mua
bán chịu hay còn gọi là tín dụng thương mại là một hoạt động khoogn thể
thiếu đói với mọi doanh nghiệp. Do đó, trong các doanh nghiệp hình
thành khoản phải thu.
Tín dụng thương mại giúp cho doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ tiêu
thụ sản phẩm, thu hút khách hàng, tăng doanh thu bán hàng, giảm chi phí
tồn kho của hàng hóa, góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản cố định
và hạn chế hao mòn vô hình. Tuy nhiên, tín dụng thương mại cũng có thể
đem đến những rủi roc ho doanh nghiệp như làm tăng chi phí quản lý, chi
phí đòi nợ, chi phí bù dắp cho vốn thiểu hụt, làm tăng chi phí nếu khách
hàng không trả được nợ.
19
Nguyễn Công Vinh
Do vậy, các nhà quản lý cần so sánh giữa thu nhập và chi phí tăng
them để quyết định có nên cấp tín dụng thương mại không cũng như phải
quản lý các khoản tín dụng này như thế nào để đảm bảo thu được hiệu
quả cao nhất.
Nội dung chủ yếu của chính sách quản lý là các khoản thu bao gồm:
Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng, phân tích đánh giá khoản tín
dụng được đề
Quản lý các khoản đầu tư tài chính dài hạn: kết quả tài chính cuối
cùng của hoạt động đầu tư tài chính dài hạn chính là tổng mức lợi nhuận.
Tổng mức lợi nhuận là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi
phí hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp. Ngoài việc so sánh theo
hướng xác định mức biến động tuyệt đối và mức biến động tương đói chỉ
tiêu tổng mức lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư tài chính dài hạn,
còn phân tích sự biến động tổng mức lợi nhuận do ảnh hưởng của ba nhân
tố:
- Tổng doanh thu hoạt động tài chính dài hạn.
- Mức chi phí để tạo ra một đồng doanh thu từ hoạt động đầu tư tài
chính dài hạn.
- Mức lợi nhuận được tạo từ một đồng chi phí hoạt động đầu tư tài
chinh dài hạn.
Từ mối quan hệ trên, có thể xây dựng phương trình kinh tế sau:
Tổng mức lợi nhuận hoạt động tài chính dài hạn = Tổng doanh thu
hoạt động đầu tư tài chính dài hạn x mức chi phí cho một đồng doanh thu
từ hoạt động đầu tư tài chính dài hạn x Mức lợi nhuận được tạo ra từ một
đồng chi phí hoạt động đầu tư tài chính dài hạn.
Quản lý tài sản cố định: Để đạt được các chỉ tiêu về hiệu quả sử
dụng tài sản cố định, doanh nghiệp phải xác định quy mô và chủng loại
tài sản cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là vấn đề thuộc
đầu tư xây dựng cơ bản, đòi hỏi doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ càng các
quyết định về đầu tư dựa trên cơ sở các nguyên tắc và quy trình phân tích
dự án đầu tư. Nếu mua nhiều tài sản cố định mà không sử dụng hết sẽ gây
ra sự lãng phí vốn, song nếu phương tiện không đủ so với lực lượng lao
động thì năng suất sẽ giảm. Trên cơ sở lượng tài sản cố định đã mua sắm,
một mặt doanh nghiệp phải tận dụng tối đa thời gian và hiệu suất của
máy, thực hiện an toàn, tiết kiệm trong vận hành máy, cố gắng khấu hao
nhanh để sớm đổi mới, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến,
hiện đại. Điều đó sẽ tạo điều kiện để cho doanh nghiệp luôn luôn được
20
Nguyễn Công Vinh
đổi mới theo hướng tích cực, hiện đại, cung cấp những sản phẩm, dịch vụ
phù hợp với nhu cầu của thị trường, mang tính cạnh tranh cao.
Việc đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định cho thấy khấu hao có
tác động lớn đến các chỉ tiêu. Do đó, doanh nghiệp cần xác định phương
pháp tính khấu hao tài sản cố định cho thích hợp.
Trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất – kinh doanh, do
chịu nhiều tác động bởi nhiều nguyên nhân khác nhau nên tài sản cố định
bị giảm dần về giá trị, hay còn gọi là hao mòn. Có hai loại hao mòn là hao
mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là loại hao mòn do quá trình sử dụng và do tác
động của môi trường, hình thái vật chất của TSCĐ bị mài mòn, biến
dạng, gãy, vỡ, hỏng…
Hao mòn vô hình là loại hao mòn do tiến bộ của khoa học kỹ thuật,
một loại máy móc thiết bị mới ra đời ưu việt hơn làm TSCĐ bị giảm giá
hoặc lỗi thời.
Do TSCĐ hao mòn như vậy, doanh nghiệp cần tạo lập quỹ để thu hồi,
tái đầu tư vào tài sản mới, doanh nghiệp cần trích khấu hao cho TSCĐ.
Trích khấu hao TSCĐ là việc tính chuyển một phần giá trị của TSCĐ
tương ứng với phần hao mòn vào giá thành sản phẩm và sẽ thu hồi được
phần giá trị đó thông qua tiêu thụ sản phẩm.
Việc xác định mức trích khấu hao là công việc tương đối phức tạp.
Trước tiên, doanh nghiệp phải xác định tốc độ hao mòn của tài sản. Điều
này rất khó khăn do xác định hao mòn hữu hình đã khó, xác định hao
mòn vô hình càng khó hơn, nó đòi hởi sự hiểu biết, khả năng dự đoán của
doanh nghiệp. Khi đã xác định được mức độ hao mòn, doanh nghiệp cần
phải cân nhắc tới các yếu tố sau:
Tình hình tiêu thụ sản phẩm doa TSCĐ đó chế tạo trên thị trường.
Do tình hình tiêu thụ tác động trực tiếp đến giá bán sản phẩm đồng thời
sẽ cho biết lượng cầu sản phẩm của doanh nghiệp là bao nhiêu và hoạt
động của TSCĐ sẽ ở mức công suất nào và kéo theo nó hao mòn ở mức
độ nào.
Nguồn vốn đầu tư cho TSCĐ là vốn chủ sở hữu hay vốn vay.
Ảnh hưởng của thuế đến việc trích khấu hao. Do việc trích khấu hao
ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm, ảnh hưởng đến lợi nhuận
của doanh nghiệp va ảnh hưởng đến thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải
nộp.
21
Nguyễn Công Vinh
Quy định của nhà nước trong việc tính khấu hao: Nhà nước có quy
định quản lý trong việc trích khấu hao TSCĐ như phương pháp tính khấu
hao, thời gian sử dụng định mức của TSCĐ, tác động trực tiếp đến mức
trích khấu hao hàng kỳ của doanh nghiệp.
Việc lựa chọn được phương pháp tính khấu hao TSCĐ thích hợp là
biện pháp quan trọng để bảo toàn vốn cố định và cũng là một căn cứ quan
trọng để xác định thời gian hoàn vốn đầu tư vào tài sản cố định từ các
nguồn tài trợ dài hạn. Thông thường có các phương pháp khấu hao chủ
yếu sau:
- Phương pháp khấu hao đường thẳng:
Phương pháp này có ưu điểm là cách tính đơn giản, dễ hiểu. Mức
khấu hao được tính vào giá thành sản phẩm ổn định, tạo điều kiện ổn định
giá thành sản phẩm. Nhưng phương pháp này không phản ánh chính xác
mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ vào giá thành sản phẩm trong thời kỳ
sử dụng TSCĐ khác nhau, khả năng thu hồi vốn đầu tư chậm, làm cho
TSCĐ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình:
M
KH
= NG:T
Trong đó:
M
KH :
Số khấu hao hàng năm
NG : Nguyên giá TSCĐ
T : Thời gian sử dụng định mức của TSCĐ
- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần : Thực chất của phương
pháp này là đẩy nhanh mức khấu hao theo thời gian sử dụng. Phương
pháp này có ưu điểm là phản ánh chính xác hơn mức độ hao mòn TSCĐ
vào giá trị sản phẩm, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư mua sắm TSCĐ
trong những năm đầu sử dụng. Phương pháp này có ưu điểm là phản ánh
chính xác hơn mức độ hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, nhanh chóng
thu hồi vốn đầu tư mua sắm TSCĐ trong những năm đầu sử dụng, hạn
chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Phương pháp này phù hợp với
doanh nghiệp có TSCĐ chịu ảnh hưởng nhiều của hao mòn vô hình như
thiết bị tin học, thiết bị điện.
Tóm lại, mục đích của việc tạo lập quỹ khấu hao là để tái đầu tư, thay
thế, đổi mới TSCĐ. Khi TSCĐ chưa được khấu hao hết, chưa được thay
thế bằng TSCĐ mới thì khấu hao được tích lũy và doanh nghiệp co quyền
sử dụng số khấu hao lũy kế cần tuân thủ đúng các quy định về chế độ
quản lý tài chính hiện hành của Nhà nước.
22
Nguyễn Công Vinh
Đối với TSCĐ, bên cạnh việc xác định phương pháp khấu hao thích
hợp thì để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, doanh nghiệp cũng cần
thường xuyên tiến hành đánh giá, kiểm kê TSCĐ. Điều này giúp cho nhà
quản lý nắm được chính xác số TSCĐ của doanh nghiệp, tình hình sử
dụng cũng như giá trị thực tế của tài sản đó.
Đánh giá TSCĐ là việc xác định lại giá trị của TSCĐ tại một thời
điểm nhất định. Việc đánh giá chính xác giá trị TSCĐ là căn cứ để tính
khấu hao nhằm thu hồi vốn. Qua đánh giá và đánh giá lại TSCĐ còn giúp
cho người quản lý nắm được tình hình biến động về vốn của doanh
nghiệp để có biện pháp điều chỉnh thích hợp như : Chọn hình thức khấu
hao phù hợp, thanh lý, nhượng bán tài sản để giải phóng vốn…
- Đánh giá TSCĐ gồm những nội dung sau :
Xác định giá trị ban đầu của TSCĐ : Giá ban đầu của TSCĐ là giá
mua và những chi phí khác kèm theo.
Cách đánh giá này giúp cho doanh nghiệp thấy được số tiền vốn đầu
tư mua sắm TSCĐ ở thời điểm ban đầu là căn cứ để xác định số tiền phải
khấu hao để tái sản xuất giản đơn TSCĐ.
Xác định, đánh giá lại TSCĐ: Đánh giá lại TSCĐ là giá của tài sản tại
thời điểm kierm kê đánh giá. Giá đánh giá lại của TSCĐ có thể cao hơn
hoặc có thể thấp hơn giá ban đầu của nó.
Căn cứ vào kết quả phân tích tình hình cụ thể như : tình hình biến
động giá trên thị trường, quan hệ cung cầu trên thị trường về loại tài sản
đó, xu hướng về tiến bộ kỹ thuật trong ngành… người quản lý đưa ra
quyết định xử lý tài sản một cách chuẩn xác như điều chỉnh mức khấu
hao hoặc phương pháp khấu hao, thanh lý, nhượng bán để đổi mới TSCĐ,
hiện đại hóa TSCĐ thông qua sửa chữa lớn…
1.3.1.5. Công tác thẩm định dự án
Công tác thẩm định dự án và đặc biệt là thẩm định tài chính dự án có
vai trò rất quan trọng đối với hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp, ảnh
hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Nếu công tác thẩm định tài chính dự án được thực hiện theo một quy
trình chặt chẽ với đội ngũ cán bộ thẩm định có trình độ chuyên môn vững
vàng thì dự án sẽ được đánh giá một cách chính xác về mức độ cần thiết
của dự án đối với doanh nghiệp, quy mô của dự án, chi phí, lợi ích của dự
án mang lại và cả những rủi ro có thể gặp phải trong tương lai. Điều này
giúp cho doanh nghiệp có những quyết định đầu tư đúng đắn góp phần
nâng cao sức mạnh cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng doanh
23
Nguyễn Công Vinh
thu và tăng lợi nhuận làm cho hiệu suất sử dụng tổng tài sản và hệ số sinh
lợi tổng tài sản tăng. Ngược lại, công tác thẩm định tài chính dự án không
hiệu quả sẽ dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm hoặc doanh nghiệp
có thể bỏ qua các cơ hội đầu tư do dự án bị đánh giá sai. Quyết định đầu
tư sai lầm sẽ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng. Nếu đầu tư quá nhiều, không
đúng hướng hoặc đầu tư không đồng bộ sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí
vốn làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu đầu tư quá ít
không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường, từ đó có thể bị mất thị trường, giảm
khả năng cạnh tranh. Tất cả các điều này đều dẫn đến tài sản không được
khai thác một cách triệt để và làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản.
1.3.1.6. Khả năng huy động vốn và cơ cấu vốn
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được
thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất – kinh doanh. Vốn là nguồn
hình thành nên tài sản. Vì vậy, khả năng huy động vốn cũng như vấn đề
cơ cấu vốn sẽ có ảnh hưởng lớn đến hiệu qủa sử dụng tài sản của doanh
nghiệp.
Nếu doanh nghiệp có khả năng huy động vốn lớn sẽ là cơ hội để mở
rộng quy mô sản xuất – kinh doanh, đa dạng hóa các hoạt động đầu tư
làm tăng doanh thu cho doanh nghiệp và từ đó làm tăng hiệu suất sử dụng
tổng tài sản. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp duy trì được cơ cấu vốn hợp
lý thì chi phí vốn sẽ giảm, góp phần làm giảm chi phí kinh doanh, tăng lợi
nhuận và do đó hệ số sinh lợi tổng tài sản sẽ tăng.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
1.3.2.1. Môi trường kinh tế
Nhân tố này thể hiện các đặc trưng của hệ thống kinh tế trong đó các
doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh như : Chu kỳ
phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế, hệ thống tài chính tiền tệ, tình hình
lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, các chính sách tài chính tín dụng của nhà
nước.
Nền kinh tế nằm trong giai đoạn nào của chu kỳ phát triển kinh tế,
tăng trưởng kinh tế sẽ quyết định đến nhu cầu sản phẩm cũng như khả
năng phát triển các hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Hệ thống tài chính tiền tệ, lạm phát, thất nghiệp và các chính sách tài
khóa của chính phủ có tác động lớn tới quá trình ra quyết định sản xuất
kinh doanh và kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ lạm phát
cao thì hiệu quả sử dụng tài sản thực của doanh nghiệp sẽ khó có thể cao
24
Nguyễn Công Vinh
được do sự mất giá của đồng tiền. Ngoài ra, chính sách tài chính – tiền tệ
cũng tác động lớn tới hoạt động huy động vốn cũng như hiệu quả sử dụng
vốn, tài sản của doanh nghiệp.
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, doanh nghiệp còn chịu tác động
của thị trường quốc tế. Sự thay đổi chính sách thương mại của các nước,
sự bất ổn của nền kinh tế các nước tác động trực tiếp đến thị trường đầu
vào và đầu ra của doanh nghiệp.
Như vậy, những thay đổi của môi trường kinh tế ngày càng có tác
động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cho
doanh nghiệp những thuận lợi đồng thời cả những khó khăn. Do đó,
doanh nghiệp phải luôn đánh giá và dự báo những thay đổi đó đó để có
thể đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm tranh thủ những cơ hội và
hạn chế những tác động tiêu cực từ sự thay đổi của môi trường kinh tế.
1.3.2.2. Chính trị - pháp luật
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước là hết sức quan
trọng. Sự can thiệp ở mức độ hợp lý của Nhà nước vào hoạt động sản
xuất – kinh doanh của doanh nghiệp là cần thiết và tập trung ở các nội
dung như : duy trì ổn định kinh tế, kích thích phát triển kinh tế thông qua
hệ thống pháp luật, chính trị, định hướng phát triển kinh tế, phát triển cơ
sở hạ tầng kinh tế - xã hội.
1.3.2.3. Khoa học - công nghệ
Khoa học – công nghệ là một trong những nhân tố quyết định đến
năng suất lao động và trình độ sản xuất của nền kinh tế nói chung và của
từng doanh nghiệp nói riêng. Sự tiến bộ khoa học – công nghệ sẽ tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất giảm bớt chi phí,
tăng khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, tiến bộ khoa học – công nghệ sẽ tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất, giảm bớt chi
phí, tăng khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, tiến bộ khoa học công nghệ
cũng có thể làm cho tài sản của doanh nghiệp bị hao mòn vô hình nhanh
hơn. Có những máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ… mới chỉ nằm
trên các dự án, các dự thảo, phát minh đã trở nên lạc hậu ngay chính thời
điểm đó.
Như vậy, việc theo dõi cập nhật sự phát triển của khoa học – công
nghệ là hết sức cần thiết đối với doanh nghiệp khi lựa chọn phương án
đầu tư để có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
25