Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.83 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, Việt Nam đã thu được rất
nhiều thắng lợi to lớn, chúng ta đã thay đổi đáng kể mức sống của người dân,
nền kinh tế liên tục tăng trưởng cao. Để có được những thành công như vậy là
nhờ có những chuyển biến trong tư duy lý luận và thực tiễn trên mọi mặt của
nền kinh tế. Thực tế cho thấy trong 20 năm qua, đặc biệt là trong những
năm gần đây, ngoài khả năng sẵn có, chúng ta đã thu hút đợc nhiều nguồn
vốn đầu tư từ nước ngoài, đóng góp lớn cho công cuộc phát triển của đất nước.
Trong các nguồn vốn đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm vị trí
rất quan trọng và có tác động không nhỏ tới kinh tế Việt Nam. Bên cạnh giải
quyết việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách, FDI còn có tác động tới
nhiều mặt của nền kinh tế nước ta nói chung và khu vực kinh tế nói riêng, có
cả tác động tiêu cực và tác động tích cực ở nhiều mức độ khác nhau. Vấn đề
đặt ra hiện nay là phải tổng kết, đánh giá đúng đắn và có tầm khái quát về
ảnh hưởng của FDI nhằm tìm ra giải pháp tăng tính hiệu quả và bền vững của
nguồn vốn quan trọng này, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang ngày càng
hội nhập vào quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới.
Được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Hoàng Thị Hoài Hương bộ môn chuyên
đề 1, Đại học Quy Nhơn, chúng em, nhóm sinh viên lớp Kinh tế Đầu tư 34a đã thực
hiện đề tài " Tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước". Mục đích của
đề tài, đúng như tên gọi của nó là dựa trên vốn hiểu biết, các kiến thức đã được học
của sinh viên chuyên ngành kinh tế đồng thời tiếp thu những ý kiến của cô giáo, các
bài viết của các nhà quản lý, nhà khoa học để giải thích tác động của FDI và doanh
nghiệp FDI tới nền kinh tế nước ta.
Qua đề tài chúng em mong muốn có thể nắm bắt được một số khía cạnh
trong hoạt động của khu vực FDI, đưa ra những nhận định và giải pháp hợp lý cho
lĩnh vực này trong tình hình mới. Tuy nhiên, do còn hạn chế về thời gian và chưa
tiếp cận nhiều trên thực tế nên mức độ hiểu biết về FDI còn chưa đầy đủ. Chúng em
rất mong được sự chỉ dẫn và góp ý của cô để hoàn thiện hơn đề tài này. Chúng em
xin chân thành cảm ơn.
Phần một: LÝ LUẬN CHUNG


I. FDI
1. Các khái niệm:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu
tư và người sử dụng vốn đầu tư là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các
cá nhân người nước ngoài trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn
đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra.
Theo IMF thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là một tổ chức kinh tế(nhà đầu tư
trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế
khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc
quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế đó.
Theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc
tổ chức, cá nhân người nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài
sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
theo quy định của luật này.
Kể từ năm 1996 thì khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là việc
nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào
khác để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một
nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ một tài sản nào khác vào quốc gia đó để
có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại
quốc gia đó với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình.
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh
tế có nhân tố nước ngoài : chủ đầu tư, vốn đầu tư, địa điểm đầu tư từ các quốc gia
khác nhau. Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc tịch
hoặc lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư trực
tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản trong đầu tư trực tiếp
vượt ra khỏi biên giới một quốc gia.
Qua đó ta có thể thấy được đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay có hai đặc
điểm nổi bật đó là: có sự di chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư trực

tiếp tham gia vào quá trình hoạt động sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
Trong thực tiễn, FDI được thực hiện theo những hình thức khác nhau, trong đó
những hình thức được áp dụng phổ biến bao gồm:
+ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
+ Doanh nghiệp liên doanh
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Ngoài những hình thức đầu tư trên, còn một vài hình thức đầu tư 100% vốn
nước ngoài khác như BOT( xây dựng – kinh doanh – chuyển giao), BTO( xây dựng –
chuyển giao – kinh doanh)…
2. Tác động tích cực của FDI tới khu vực kinh tế trong nước
2. 1. Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng.
Vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển kinh
tế nhất là đối với các nước đang phát triển. Đây là những nước có tiềm năng về
lao động và tài nguyên thiên nhiên, nhưng do trình độ sản xuất còn thấp kém,
cơ sở vật chất kĩ thuật nghèo nàn, lạc hậu nên chưa có điều kiện khai thác các
tiềm năng này. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói, các nước cần
huy động vốn từ trong nước và nước ngoài, đầu tư phát triển để có được mức tăng
trưởng kinh tế cao và ổn định. Trong tình hình hiện nay, việc huy động vốn từ trong
nước chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển chung cho toàn xã hội cũng như khu
vực kinh tế trong nước. Trong khi đó, trên thế giới có nhiều nước đang nắm trong
tay một khối lượng vốn lớn và có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài, thì đó là cơ hội để
các nước đang phát triển tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vào việc
phát triển kinh tế. Ở nhiều nước đang phát triển, vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ
đáng kể trong tổng vốn đầu tư phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Ngay cả đối với
các doanh nghiệp, việc thu hút vốn ĐTNN đã và đang là vấn đề được quan tâm,
lượng vốn này cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp
dưới hình thức hợp tác, liên doanh. Trong đó có một số nước hoàn toàn dựa vào
nguồn vốn ĐTNN, đặc biệt là giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế. Đối với các
nước công nghiệp phát triển, ĐTNN vẫn là nguồn vốn bổ sung quan trọng và có ý
nghĩa to lớn trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia này. Khác với các

nước đang phát triển, không phải do thiếu vốn đầu tư, cũng không phải do trình độ
kĩ thuật thấp kém mà các nước công nghiệp cần thu hút vốn ĐTNN. Thực tế thì
chính các nước công nghiệp phát triển là những nước đầu tư ra nước ngoài nhiều
nhất và cũng thu hút phần lớn vốn ĐTNN.
2. 2. Góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu trong khu vực kinh tế trong nước
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) là một bộ phận quan trọng của
hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày
càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền
kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế giữa các nước
trên thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước
cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh
tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc
đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì, thông qua đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở nước
nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp hiện đại hoá trình độ công nghệ ở
nhiều ngành kinh tế, làm tăng năng suất lao động ở các ngành này và làm
tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Một số ngành được kích thích phát triển
bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng sẽ có nhiều ngành bị mai một đi rồi
đến chỗ xoá sổ.
2. 3. Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tạo năng lực sản xuất, ngành sản xuất,
phương thức sản xuất và kinh doanh mới, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước
nâng cao khả năng cạnh tranh.
Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó
vốn đầu tư bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu, và vốn vô hình như chuyên gia, kĩ thuật công nghệ, kinh
nghiệm quản lý. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình
chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho
cả bên đầu tư cũng như bên nhận đầu tư. Ở các nước đang phát triển, trình độ kĩ
thuật còn lạc hậu, việc tự nghiên cứu, chế tạo là rất khó khăn và tốn kém. Do đó,

cần biết tận dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật thông qua chuyển giao công
nghệ. Còn ở các nước phát triển, mặc dù đã có trình độ sản xuất hiện đại, khoa học
kĩ thuật tiên tiến nhưng mỗi nước chỉ tập trung vào một số lĩnh vực mà họ có ưu
thế hơn và ngược lại chính sự tập trung đó cho phép họ có khả năng phát triển
vượt trội lên ở một hay một số lĩnh vực nào đó. Và muốn thay thế cho kĩ thuật- công
nghệ mới thì họ cũng phải tìm cho được nơi thải công nghệ cũ. Việc "thải" những
công nghệ cũ này dễ dàng được nhiều nước chấp nhận. Chính sự lan toả những
thành tựu khoa học kĩ thuật của nhân loại thường xuyên như thế đã tạo ra môi
trờng thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng khoa học kĩ thuật. Ảnh hưởng "lan
toả" của khu vực FDI đối với các khu vực, các quốc gia thể hiện ở các mặt: sự xuất
hiện của các doanh nghiệp FDI sẽ đồng hành với công nghệ tiên tiến và việc chuyển
giao công nghệ này sẽ thúc đẩy năng suất lao động tăng lên; người lao động tại các
doanh nghiệp FDI có cơ hội tiếp thu kĩ thuật, trình độ quản lý; sức ép từ khu vực
FDI buộc các doanh nghiệp trong nớc tăng cường đầu tư cho công nghệ, nhân lực
để cạnh tranh với doanh nghiệp FDI mà
còn có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước. Cùng với đó là sự ra
đời của sản phẩm mới, phương thức sản xuất và kinh doanh nghiệp mới
để mở rộng môi trường và nâng cao sức cạnh tranh.
2. 4. Thúc đẩy xuất khẩu và giao lưu thương mại quốc tế.
Hoạt động thương mại diễn ra đều có lợi cho tất cả các quốc gia, các
quốc gia sẽ chuyên môn hoá mà mình có lợi thế so sánh, chuyên sâu để lớn
mạnh và chiếm ưu thế về mặt hàng đó. Khi đó các quốc gia sẽ xuất khẩu mặt
hàng mà mình có lợi thế và nhập khẩu những mặt hàng khác. Trên thực tế,
các nước phát triển đã tận dụng và khai thác rất tốt các tiềm năng, thế mạnh
của mình. Họ không những đầu tư ra nớc ngoài mà còn thu hút đầu tư vào trong
nước nhất là những ngành mà họ không có lợi thế nhưng lượng tiêu dùng lớn hay
có khả năng phát triển để nhằm cân bằng cán cân thương mại. Bên cạnh đó, các
nước đang phát triển, mặc dù có những lợi thế so sánh song chưa có điều kiện để
khai thác và sử dụng thì việc thu hút ĐTNN vào trong nước là rất cần thiết. Điều đó
thúc đẩy cho các nớc đang phát triển xuất khẩu được ra thị trường thế giới nhiều

mặt hàng họ có lợi thế so sánh hơn, hạn chế nhập khẩu nhằm cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế.
3. Hạn chế trong tác động của FDI tới khu vực kinh tế trong nước
3. 1. Công nghệ không phải là công nghệ nguồn.
Tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài là một phương thức cho phép các
nước đang phát triển tăng cường tiếp thu trình độ công nghệ hiện đại trên thế giới.
Tuy nhiên, mức độ hiện đại đến đâu còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng dù thế
nào thì đây cũng là lợi ích căn bản của các nước khi tiếp nhận đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới, có nhiều công ty của
nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển
giao công nghệ cho nước nào tiếp nhận đầu tư. Đây là cơ hội của các nước
đang phát triển có thể tiếp thu kĩ thuật- công nghệ thuận lợi nhất. Nhưng
không phải các nước đang phát triển được nhận công nghệ miễn phí mà họ cũng
phải trả một khoản "học phí" không nhỏ cho việc tiếp nhận chuyển giao công
nghệ này. Các nước đang phát triển muốn tiếp thu được kĩ thuật công nghệ tiên
tiến song thực tế thì không hẳn là như vậy. Những công nghệ mà họ được tiếp
nhận chủ yếu là những công nghệ đã lạc hậu. Trong chuyển giao công nghệ,
phần lớn mới chỉ được giao phần cứng, đó là máy móc thiết bị, còn phần mềm
như kiến thức quản lý, tổ chức, các bí quyết đào tạo cán bộ quản lý và công
nhân thực hiện công nghệ được chuyển giao là phần chiếm một tỷ trọng lớn trong
quy trình công nghệ lại không được quan tâm đúng mức. Do đó, những
nước tiếp nhận công nghệ sẽ phải chịu nhiều thiệt hại, như ô nhiễm môi trường,
gây cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, ảnh hưởng tới sức khoẻ và đời sống
dân.
3. 2. Gây ra sự cạn kiệt nguyên vật liệu đầu vào cho các doanh nghiệp trong nước
Trong quá trình thực hiện đầu tư, xây dựng các công trình, khu công
nghệ, khu chế xuất sẽ làm phá vỡ môi trường cân bằng sinh thái, gây ô
nhiễm môi trường, hệ động vật, thực vật bị phá huỷ không còn nguyên vẹn.
Hầu hết các nước đang phát triển, khi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài
thường hay phải sử dụng những công nghệ lạc hậu, điều này ảnh hưởng không nhỏ

đến môi trường sinh thái. Hệ thống xử lý rác thải một cách hiện đại, hợp lý đòi hỏi
một khối lượng lớn vốn bỏ ra, nên các nhà đầu tư thường ít quan tâm đến vấn đề
xử lý rác thải. Các chất rác thải gần như được thải trực tiếp vào môi trường gây ô
nhiễm môi trường không khí, ô nhiễm nguồn nước gây ảnh hưởng trực tiếp đến
cuộc sống của người dân. Bên cạnh đó việc khai thác sử dụng các nguồn nguyên
liệu, năng lượng của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách tràn lan,
không khoa học đã gây sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ, than đá, là
một vấn đề đang được quan tâm. Trong tương lai không xa, chúng ta sẽ phải đối
mặt với vấn đề thiếu nhiên liệu, vật liệu đặc biệt là năng lượng. Các nhà đầu tư
nước ngoài việc tìm kiếm thị trường đầu tư, ngoài việc quan tâm đến thị trường
tiêu thụ họ còn quan tâm đến những thị trường có nguồn nguyên liệu đầu vào dồi
dào để khai thác. Đó cũng chính là điều lo
ngại cho các doanh nghiệp trong nước khi mà nguồn nguyên liệu đầu vào ngày
càng trở nên cạn kiệt. Do đó, nguy cơ từ bây giờ chúng ta phải có biện pháp
để giải quyết tình trạng này.
3. 3. Gây ra tình trạng chảy máu chất xám tại chỗ và ảnh hưởng đến nguồn lao
động trong các doanh nghiệp trong nước
Ở các nước đang phát triển, có nguồn lao động dồi dào, đây là một yếu tố
để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vì chi phí cho lao động rất rẻ. Nhưng đa
phần nguồn lao động của các nước này đều chưa qua đào tạo hoặc được đào tạo
với trình độ thấp. Công nhân lành nghề có kĩ năng còn ít và khả năng thực
hành còn ít. Chỉ có một lượng nhỏ những người đã qua đào tạo với trình độ cao,
mới có khả năng tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài.
Nhưng bộ phận này lại chủ yếu làm việc cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
với mức thu nhập cao và nhiều ưu đãi. Đây chính là hiện tượng "chảy máu chất
xám" tại chỗ. Hiện tượng này đang có xu hướng ngày càng tăng ở các nước đang
phát triển. Xét trên góc độ lợi ích kinh tế, trong cơ chế mới, ở những doanh nghiệp
này, tranh chấp lao động là vấn đề khó tránh khỏi. Khi mà hầu hết các lao
động có trình độ đều thích làm việc trong các doanh nghiệp FDI thì lượng lao
động này trong các doanh nghiệp trong nước lại ít. Vấn đề đặt ra cho các

doanh nghiệp trong nước là làm sao để thu hút được lực lượng lao động này để
nâng cao năng suất lao động cũng như tính cạnh tranh.
II. TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI:
1. Khái niệm:
Các chuyên gia thực hiện nghiên cứu tác động của đầu tư nước ngoài tới
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam cho rằng, kỳ vọng lớn nhất của các nước đang phát
triển trong việc thu hút đầu tư nước ngoài là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế
với hai lý do chính.
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài được coi là một nguồn vốn quan trọng để bổ
sung vốn đầu tư trong nước. Thứ hai, đầu tư nước ngoài tạo cơ hội cho các nước
nghèo tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn, dễ dàng chuyển giao công nghệ hơn, thúc
đẩy quá trình phổ biến kiến thức, nâng cao kỹ năng quản lý và trình độ lao động
Tác động này được xem là tác động tràn của đầu tư nước ngoài, góp phần
làm tăng năng suất của các doanh nghiệp trong nước và cuối cùng là đóng góp vào
tăng trưởng kinh tế nói chung.
Vậy Tác động tràn là tác động gián tiếp xuất hiện khi có mặt của các doanh
nghiệp FDI làm cho các doanh nghiệp trong nước thay đổi hành vi của mình như
thay đổi công nghệ, thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh…
Có 4 kênh xuất hiện tác động tràn nhiều nhất: kênh di chuyển lao động, kênh
phổ biến & chuyển giao công nghệ, kênh liên kết sản xuất và kênh cạnh tranh.
2. Các kênh chủ yếu xuất hiện tác động tràn:
2.1. Kênh di chuyển lao động:
Lao động có kỹ năng chuyển từ doanh nghiệp FDI tới doanh nghiệp trong
nước được coi là một kênh quan trọng có thể tạo ra tác động tràn tích cực. tác
động tràn xảy ra nếu như số lao động này sử dụng kiến thức đã học được trong
thời gian làm việc tại các doanh nghiệp FDI vào công việc trong doanh nghiệp
trong nước. Có hai cách để tạo ra tác động tràn. Đó là số lao động này tự thành lập
Công ty riêng hoặc làm thuê cho các doanh nghiệp trong nước, nhất là trong cùng
ngành mà doanh nghiệp FDI đang hoạt động.
2.2. Kênh phổ biến & chuyển giao công nghệ:

Đây là một kênh rất quan trọng để tạo ra tác động tràn tích cực của FDI. Cho
đến nay chỉ tiêu hay được dùng để đo khả năng hấp thụ công nghệ là trình độ học
vấn hoặc trình độ chuyên môn của lao động trong doanh nghiệp và chỉ tiêu biểu thị
cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp thể hiện qua chỉ tiêu cho các hoạt động
R&D.
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến việc xuất hiện tác động tràn là khả năng tiếp
thu công nghệ mới của chính các doanh nghiệp FDI. Nhiều nghiên cứu cho rằng
công nghệ mới chủ yếu do các công ty mẹ tạo ra , trong khi đó các công ty con ở các
nước đang phát triển hầu như chỉ tập trung đến khâu sản xuất chiếm lĩnh thị
trường dựa trên các lợi thế về công nghệ do công ty cung cấp. Do đó khả năng tiếp
thu công nghệ của các công ty con hoạt động ở nước nhận đầu tư ngày càng cao,
càng có lợi cho quá trình sinh ra tác động tràn tích cực qua rò rỉ công nghệ.
2.3. Kênh liên kết sản xuất
Kênh liên kết sản xuất là một kênh rất quan trọng tạo ra tác động tràn. Tác
động “ ngược chiều “ có thể xuất hiện nên các doanh nghiệp trong nước cung cấp
nguyên liệu hoặc phân phối sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài . Mức độ
tác động càng cao nếu khối lượng sản phẩm phân phối hoặc nguyên liệu cung cấp
càng nhiều, tức là quan hệ tỷ lệ thuận.
Trong liên kết sản xuất tồn tại dưới hai hình thức đó là liên kết dọc và liên
kết ngang. Liên kết dọc là sản phẩm của doanh nghiệp này là nguyên liệu đầu vào
của doanh nghiệp kia. Liên kết ngang là các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại
sản phẩm.
2.4. Kênh cạnh tranh
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI có thể tạo ra áp lực cạnh tranh lớn
cho các doanh nghiệp trong nước, trước hết là đổi mới doanh nghiệp trong cùng
nhóm ngành.
Để thu được biểu hiện của kênh tác động này chúng ta cần thu nhập những
thông tinh về sức ép cạnh tranh thị trường của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự
đánh giá. Trong khu vực doanh nghiệp FDI chịu sức ép cạnh tranh lớn nhất giữa
các doanh nghiệp này với nhau thì các doanh nghiệp trong nước lại cho rằng họ

đang chịu sức ép cạnh tranh mạnh ngang nhau từ các doanh nghiệp FDI và chính
các doanh nghiệp trong nước. Trong khi doanh nghiệp FDI chịu áp lực mạnh nhất
về sản phẩm như chủng loại, mẫu mã, thì các doanh nghiệp trong nước lại đánh giá
cao nhất về công nghệ có trình độ cao hơn từ các doanh nghiệp FDI.
Phần hai: TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI ĐẾN KHU VỰC KINH TẾ TRONG NƯỚC
I.Tình hình thu hút FDI trong những năm qua.
Từ đầu thập niên 1990, kinh tế vĩ mô của Việt Nam được ổn định, tốc độ phát
triển kinh tế cũng lên quỹ đạo và ở mức tương đối cao. Quan hệ với Trung Quốc và
các nước khác trong khu vực đã bình thường hoá. Nhật đã quyết định viện trợ trở
lại (1992) và Hội nghị các nhà tài trợ giúp Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng đã
được quyết định sẽ tổ chức hằng năm (bắt đầu năm 1993). Sự chuyển biến thuận
lợi này cùng với vị trí địa lý tốt, tình hình chính trị, xã hội ổn định và một nước có
dân đông, có nguồn lao động phong phú đã làm cho Việt Nam trở thành môi
trường đầu tư nhiều tiềm năng. Theo kết quả thăm dò hằng năm về kế hoạch đầu
tư nước ngoài của vài ngàn doanh nghiệp lớn Nhật Bản do Ngân hàng hợp tác
quốc tế Nhật Bản (JBIC) thực hiện, Việt Nam đã sớm trở thành một trong những
môi trường mà doanh nghiệp Nhật chú ý. Việt Nam xếp thứ 5 trong lần thăm dò
năm 1992. Năm 1993 Việt Nam ở vị trí thứ 4 và trong 2 năm liên tiếp sau đó đã
vươn lên vị trí thứ 2. Từ năm 1996 vị trí của Việt Nam giảm nhưng hầu như năm
nào cũng nằm trong 5 nước được doanh nghiệp Nhật đánh giá cao về tiềm năng.
Việt Nam tiếp tục được nước ngoài đánh giá cao về tiềm năng nhưng dòng chảy
FDI vào Việt Nam từ nửa sau thập niên 1990 đã giảm nhanh và hiện nay cũng đang
có sự hồi phục.
Tính đến tháng 6-2013, Việt Nam có 15.067 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng
vốn đăng ký khoảng 218,8 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 106,3 tỷ USD, chiếm
khoảng 48,6%. Riêng năm 2013, FDI có sự đảo chiều tăng trở lại ngoạn mục so với
giai đoạn đi xuống liên tục kể từ 2009-2012, với kết quả khả quan cả về vốn đăng
ký mới, vốn bổ sung và vốn thực hiện, cũng như cơ cấu ngành và chủ đầu tư.
Theo đó, trong năm 2013 (tính đến ngày 15-12-2013), cả nước thu hút FDI
đạt 21,6 tỷ USD, tăng 54,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: 14,3 tỷ USD vốn

đăng ký của 1.275 dự án được cấp phép mới, tăng 70,5% (số dự án tăng 0,7%) và
7,3 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của 472 lượt dự án được cấp phép từ các năm
trước, tăng 30,8%. Vốn FDI thực hiện ước đạt 11,5 tỷ USD, tăng 9,9% so với năm
2012. 50 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư FDI cấp phép mới,
trong đó Thái Nguyên có số vốn đăng ký lớn nhất với 3.381,1 triệu USD, chiếm
23,7% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Bình Thuận 2.029,6 triệu USD, chiếm
14,2%; Hải Phòng 1.843,6 triệu USD, chiếm 12,9%; Bình Định 1.019,7 triệu USD,
chiếm 7,1%; TP Hồ Chí Minh 949 triệu USD, chiếm 6,6%; Đồng Nai 745,1 triệu USD,
chiếm 5,2%; Bình Dương 714 triệu USD, chiếm 5%; Hải Dương 620,6 triệu USD,
chiếm 4,3%
Trong số 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào
Việt Nam năm 2013, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 3.752,1 triệu USD, chiếm
26,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Singapore 3.014,1 triệu USD, chiếm
21,1%; Trung Quốc 2.276,6 triệu USD, chiếm 16%; Nhật Bản 1.295 triệu USD, chiếm
9,1%; Liên bang Nga 1.021,7 triệu USD, chiếm 7,2%; Hồng Kông (Trung Quốc) 604
triệu USD, chiếm 4,2%; Đài Loan 400 triệu USD, chiếm 2,8%.
Xuất khẩu của khu vực FDI trong những năm gần đây có xu hướng tăng mạnh và
chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu: Năm 2011 chiếm 56,9% và
tăng 41%; năm 2012 chiếm 63,1% và tăng 31,1%; năm 2013 chiếm 61,4% và tăng
22,4%. Đặc biệt, khu vực FDI xuất siêu liên tục sáu năm qua, với mức 6,6 tỷ USD
năm 2008; 4,3 tỷ USD năm 2009; 2,1 tỷ USD năm 2010; 6,2 tỷ USD năm 2011; 12,3
tỷ USD năm 2012 và năm 2013 tăng vọt lên 14 tỷ USD, trong khi trong đó khu vực
kinh tế trong nước nhập siêu 13,1 tỷ USD.
Hoạt động nhập khẩu cũng có xu hướng tăng mạnh và kim ngạch chiếm tỷ
trọng cao trong tổng kim ngạch nhập khẩu: Năm 2011 nhập khẩu của khu vực FDI
chiếm 45,7% và tăng 32,1%; năm 2012 chiếm 52,7% và tăng 22,7%; năm 2013
chiếm 56,7% và tăng 24,2%. FDI đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế,
tăng thu ngân sách nhà nước, từ 1,8 tỷ USD (1994-2000) lên 14,2 tỷ USD (2001-
2010).
Hiện tại, 58,4% vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp - xây dựng và

tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành
công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí,
điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi-măng…
Hoạt động FDI đã lan tỏa đến các khu vực khác của nền kinh tế; phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo việc làm (hiện có trên hai triệu lao động trực
tiếp, từ ba đến bốn triệu lao động gián tiếp liên quan đến các doanh nghiệp (DN)
FDI) khơi dậy nguồn lực đầu tư trong nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải cách
DN nhà nước, đổi mới thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường,
thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và góp phần tăng cường mối quan hệ chính trị,
đối ngoại, phát triển quan hệ hữu nghị với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ, đối tác
trên thế giới.
Ngoài ra, hoạt động thu hút FDI đã góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung với EU, Hiệp
định Thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư với 62 quốc
gia/vùng lãnh thổ và Hiệp định Đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản và nhiều quốc
gia; đưa Việt Nam từng bước tham gia chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu.
Tuy nhiên, hoạt động FDI ở Việt Nam thời gian qua còn nhiều hạn chế về thu hút
công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghiệp hỗ trợ, đầu tư phát triển hạ tầng,
chuyển giao công nghệ và giá trị gia tăng. 80% DN FDI sử dụng công nghệ trung
bình, 5% sử dụng công nghệ cao và còn lại sử dụng công nghệ lạc hậu, thậm chí gây
ô nhiễm môi trường. Số dự án FDI vào các dịch vụ trung gian, dịch vụ giá trị gia
tăng cao, giáo dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, môi trường… còn hạn chế và
vào lĩnh vực nông ngư nghiệp rất thấp, thậm chí có xu hướng giảm dần. Ngoài ra,
thu nhập bình quân theo tháng của người lao động trong DN FDI chỉ cao hơn khu
vực DN tư nhân trong nước, nhưng thấp hơn khu vực DN nhà nước.
Năm 2002, xuất khẩu của doanh nghiệp FDI (4,6 tỷ USD) chỉ chiếm khoảng
¼ trong xuất khẩu của cả nước (16,7 tỷ USD) nhưng từ khi gia nhập WTO đến nay,
tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp FDI đã dần dần tăng lên, từ khoảng 1/3 vào
năm 2007 đến nay đã chiếm gần 2/3 trong hoạt động xuất khẩu của cả nước.
Tỷ trọng nhập khẩu của doanh nghiệp FDI trong nhập khẩu chung của cả

nước cũng tăng lên nhanh chóng, từ khoảng 1/3 trong hoạt động nhập khẩu của cả
nước, nay đã chiếm ½ trong tổng nhập khẩu của cả nước.
Mặt khác, qua số liệu xuất - nhập khẩu của doanh nghiệp FDI nói riêng và cả
nước nói chung, có thể thấy từ 2002 - 2010, doanh nghiệp FDI và cả nước đều nhập
siêu là chủ yếu nhưng tỷ trọng nhập siêu của doanh nghiệp FDI rất thấp và khá ổn
định. Từ 2002 - 2011, nhập siêu của doanh nghiệp FDI luôn từ dưới 5 tỷ USD. Trong
khi, nhập siêu của cả nước thì lớn hơn và có những năm tăng đột biến như giai
đoạn 2007 - 2011.
Đặc biệt, từ 2012 đến nay, Việt Nam đã bắt đầu xuất siêu và việc xuất siêu
này chủ yếu nhờ xuất nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp FDI khi khu vực này
xuất siêu lớn trong khi khu vực doanh nghiệp trong nước vẫn tiếp tục nhập siêu.
Với quy mô xuất nhập khẩu hiện nay và việc Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập các
tổ chức thương mại lớn trong và ngoài khu vực sắp tới, dự báo dòng vốn FDI và
doanh nghiệp FDI còn là một trong những trụ cột lớn của nền kinh tế đất nước.
Triển vọng về một chu kỳ mới
Có nhiều cơ hội và cơ sở để tin rằng từ năm 2014 sẽ bắt đầu chu kỳ mới tăng
trưởng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Với tư cách là một bộ phận của nền kinh
tế Việt Nam, được Nhà nước khuyến khích phát triển lâu dài, được bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp và đối xử bình đẳng trên cơ sở hợp tác cùng có lợi, thực hiện theo
đúng cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Theo tinh thần Nghị quyết 103 của Chính phủ ban hành tháng 9-2013, trong
giai đoạn tới, cần tạo bước chuyển mạnh về thu hút FDI cả về lượng và chất để
phát huy hiệu quả đầu tư của từng địa phương, từng vùng và phù hợp tổng thể lợi
ích Quốc gia.
Theo đó, ưu tiên các dự án quy mô lớn, sản phẩm cạnh tranh cao, phát triển
hệ thống các ngành, các DN phụ trợ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập
đoàn xuyên quốc gia, có chất lượng, công nghệ cao, thân thiện với môi trường, đặc
biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp;
phát triển kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu và
phát triển, dịch vụ hiện đại; lựa chọn các nhà đầu tư lớn, có uy tín đầu tư phát triển

thị trường tài chính.
Mặt khác, cần chú trọng đến các dự án có quy mô vừa và nhỏ phù hợp với
từng ngành kinh tế, từng địa phương và phù hợp với định hướng tái cấu trúc, lợi
thế của từng vùng. Việc thu hút FDI phải bảo đảm phù hợp với quy hoạch và chỉ
đạo tập trung, thống nhất của trung ương, đi đôi với phân cấp hợp lý cho các địa
phương trên cơ sở điều kiện kinh tế, xã hội và năng lực, chất lượng đội ngũ cán bộ,
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong chức năng kiểm tra, giám sát, bảo đảm
tính nghiêm minh của pháp luật.
Việc sửa đổi, điều chỉnh chính sách, pháp luật đầu tư nước ngoài phải bảo
đảm nguyên tắc nhất quán, công khai, minh bạch, có tính dự báo, tạo thuận lợi cho
nhà đầu tư và có tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực, không ngừng nâng
cao năng lực cạnh tranh, ngày càng thuận lợi hơn và ưu đãi hơn; khuyến khích, tạo
điều kiện và tăng cường sự liên kết giữa các DN vì lợi ích tổng thể nền kinh tế và
quốc gia; tiếp tục tạo dựng khung pháp lý thuận lợi, minh bạch cho việc thành lập,
hoạt động và chấm dứt các DN thuộc mọi thành phần kinh tế.
Chính sách ưu đãi đầu tư bảo đảm tính hệ thống, gắn ưu đãi theo ngành, lĩnh
vực ưu tiên với theo vùng lãnh thổ để thúc đẩy sự phân công lao động giữa các địa
phương; thực hiện ưu đãi đầu tư có chọn lọc phù hợp với định hướng thu hút FDI
vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, có giá trị gia tăng cao, sử dụng nhiều nguyên liệu,
vật tư trong nước và cam kết chuyển giao công nghệ tiên tiến, đầu tư vào lĩnh vực
kết cấu hạ tầng và trong khu công nghiệp; giảm bớt các hạn chế không cần thiết và
cho phép tham gia nhiều hơn vào các thị trường vốn, thị trường tài chính trên
nguyên tắc hiệu quả, nhưng chặt chẽ, kiểm soát môi trường.
Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp và phối hợp trong công tác
quản lý nhà nước về FDI nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, chịu trách nhiệm
của địa phương, đồng thời bảo đảm quản lý thống nhất của trung ương. Đổi mới và
nâng cao hiệu quả hoạt động hoạt động xúc tiến đầu tư, cung cấp thông tin và hỗ
trợ đầu tư gắn với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội quốc gia; đề cao sự
điều phối chung thống nhất của Trung ương trong cả nước về nội dung, thời gian,
địa điểm theo kế hoạch và theo định hướng chung.

Tăng cường kiểm tra, giám sát các dự án FDI trên địa bàn để kịp thời phát
hiện khó khăn, vướng mắc, tìm giải pháp hỗ trợ và tháo gỡ, đôn đốc các dự án
chậm tiến độ, chậm triển khai hoặc chưa tuân thủ các cam kết; đồng thời, xử lý các
trường hợp vi phạm pháp luật. Xây dựng hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư
nước ngoài để giúp cho công tác giám sát được liên tục, chặt chẽ; thường xuyên
cập nhật và phân loại tình hình thu hút, hoạt động đầu tư nước ngoài để phục vụ
cho công tác quản lý, điều hành và hoạch định chính sách của các cơ quan nhà
nước các cấp. Đẩy mạnh rà soát, chấn chỉnh công tác giải quyết tranh chấp liên
quan đến FDI.
II.Tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước.
1. Kênh di chuyển lao động:
Có thể thấy chỉ tiêu này rất cao ở khu vực doanh nghiệp FDI (43,4%) và
caoo nhất ở nhóm ngành may mặc và da giày. Trong số chuyển đi, khoảng 42% là l
ao động cókỹ năng, tỷ lệ thấp nhất trong nhóm ngành dệt may ,da giày (37%) và
cao nhất là nhóm ngành chế biến thực phẩm (50,3%). Nếu so sánh chỉ tiêu này thì k
hả năng có thể sinh ra tác động tràn ở ngành chế biến thực
phẩm cao hơn là dệt may
Tuy nhiên 32% số doanh nghiệp FDI được hỏi cho rằng lao động đã chuyển
đi khỏi chủ yếu chuyển tới các doanh nghiệp FDI khác, 23% cho rằng số lao động
này tự mở công ty và 18% trả lời lao động chuyên đi làm cho các doanh nghiệp
trong nước( số còn lại trả lời không biết). Như vậy, tuy tính linh hoạt về di chuyển
lao động khá cao của khu vực doanh nghiệp FDI trong 3 nhóm ngành trên, nhưng
1/3 số lao động chỉ di chuyển trong nội bộ khu vực doanh nghiệp FDI và rất có thể
trong phần lớn họ là lao động có kỹ năng. Kết quả này có phần ủng hộ cho nhận
định về hiện tượng co cụm của lao động trong khu vực FDI hay thấy ở các nước
đang phát triển.
Chỉ có 4,6% doanh nghiệp trong nước thuộc nhóm ngành chế biến thực
phẩm trả lời đã tiếp nhận lao động từ doanh nghiệp FDI, trong khi không doanh
nghiệp nào trong hai nhóm còn lại tuyển được lao động từ các doanh nghiệp FDI
chuyển sang. Tổng hợp kết quả các cuộc điều tra gần đây cho thấy các doanh

nghiệp FDI tích cực chuyển giao công nghệ cho lao động ở nhà máy và
chuyển giao tri thức điều hành, quản lý cho kỹ sư, nhân viên quản lý các cấp người
Việt Nam. Khi nguời Việt Nam không hoặc chưa thoả mãn các điều kiện về chuyên
môn, doanh nghiệp nước ngoài mới đưa người ở các nước khác đến. Người nước khác
ở đây không nhất thiết là người nước gốc của MNCs mà kể cả người ở các
nước thứ ba. Đặc biệt nhiều công ty FDI gốc Đài Loan hoặc Hong Kong thường
thuê kỹ sư người ở Trung Quốc, công ty FDI Nhật thường thuê người Đài Loanv.v.
Sau 3/4 năm hoạt động, các doanh nghiệp FDI dần dần tìm người Việt Nam
thay thế để giảm phí tổn sản xuất. Tiền lưong của một kỹ sư người Việt Nam
bằng nửa người Trung Quốc và bằng 1/4 người cùng trình độ từ Đài Loan sang.
Để tăng hiệu quả việc di chuyển lao động, điều tiên quyết của Việt Nam là cần
tăng cường giáo dục, đào tạo để cung cấp nguồn nhân lực cần thiết. Chính sách
gần đây của Việt Nam (hạn chế doanh nghiệp FDI chỉ được dùng người nước
ngoài trong giới hạn 3% tổng lao động trong công ty) là không có cơ sở khoa học và
chỉ làm môi trường FDI ở Việt Nam xấu hơn.
Về việc di chuyển lao động, chưa có số liệu đầy đủ để phân tích có hệ
thống nhưng những thông tin liên quan thu thập được trong mấy năm qua cho
thấy là hiệu quả chuyển giao rất yếu vỡ các lý do sau: Thứ nhất, phần lớn đối tác phía
Việt Nam trong các liên doanh FDI là doanh nghiệp quốc doanh (SOEs)
Người quản lý, lãnh đạo kinh doanh được gửi tới các liên doanh thường là cán bộ ở
SOEs hoặc ở các bộ chủ quản của SOEs liên quan. Trong số nầy cũng có
nhiều người vốn có tinh thần doanh nghiệp, tinh thần trách nhiệm và ham học hỏi đó
làm việc hiệu quả trong các liên doanh, tích cực hấp thu tri thức và kinh nghiệm
từ đồng nghiệp nước ngoài. Nhưng một phần khá lớn họ là những người
hành động như các quan chức và dồn hết quan tâm về những vấn đề khác, thay
vì làm cho liên doanh phát triển. Thứ hai, nguyên tắc nhất trí 100% thành
viên hội đồng quản trị áp dụng vào việc quyết định các vấn đề kinh doanh trong
liên doanh kéo dài quá lâu, cải thiện quá chậm gây ảnh hưởng hoạt động của
doanh nghiệp FDI. Vì lý do này, MNCs đầu tư ở Việt Nam có khuynh hướng lập
doanh nhgiệp 100% vốn nước ngoài thay vì liên doanh. Các liên doanh trong quá

khứ cũng có khuynh hướng xin chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài.
Tóm lại, phân tích kết quả từ hai góc độ: (1) lao động chuyển đi khỏi
doanh nghiệp FDI và (2) nguồn lao động mới tuyển dụng của doanh nghiệp trong
nước đều cho thấy có hiện tượng di chuyển lao động giữa doanh nghiệp
FDI và trong nước, nhưng ở mức rất thấp. Ngay cả khi chưa tính đến kỹ năng của
số lao động di chuyển này, điều đó cũng có nghĩa là khả năng xuất hiện tác
động tràn cũng rất thấp theo kênh này.
2.Kênh phổ biến & chuyển giao công nghệ:
Kết quả điều tra cho thấy, năm 2012 các doanh nghiệp trong nước có tỷ
lệ lao động có kỹ năng thấp hơn rất nhiều so với tỷ trọng lao động kỹ
năng của doanh nghiệp FDI. Đáng quan tâm hơn tỷ trọng này còn có xu hướng
giảm đi theo các năm.
Các doanh nghiệp FDI chỉ tiêu cho hoạt động R&D cao gấp gần 3 lần so
với các doanh nghiệp trong nước, trong đó mức chênh lệch cao nhất ở nhóm ngành
cơ khí,điện tử. Nếu tính cả chỉ tiêu mức độ tập trung vốn thì có thể thấy sản phẩm c
ơ khí điện tử của khu vực doanh nghiệp FDI có hàm lượng công nghệ cao hơn
nhiều và vì vậy khả năng năng xảy ra tác động tràn là thấp.
Chi cho R&D ở nhóm ngành dệt may cao hơn hẳn so với ngành chế
biến thựcphẩm và mức chênh lệch giữa doanh nghiệp trong và nước ngoài là thấp.
Đáng lưu ý là xu hướng giảm tỷ trọng chi tiêu bình quân cho R&D so với doanh
thu trong khu vực doanh nghiệp FDI, đặc biệt trong nhóm ngành cơ khí, điện tử.
Điều này có thể có nhiều nguyên nhân, chẳng hạn các doanh nghiệp không có đối
thủ cạnh tranh trong nước. kết quả điều tra cho thấy tới 70% doanh nghiệp FDI rất
ít
khi tiếp cận với công nghệ từ Công ty mẹ chuyển giao và 36% cho rằng ý tưởn
gđổi mới công nghệ bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn cũa. Như vậy, thực tế là các
doanh nghiệp FDIở Việt Nam hoạt động khá độc lập với Công ty mẹ ở nước ngoài
đặc biệt là trong đầu tư đổi mới công nghệ. Có 2 cách lý giải cho điều này. Một là bả
n thân các Công ty mẹ cũng là Công ty nhỏ, do đó năng lực cho hoạt động
R&D không cao và không thể hỗ trợ nhiều cho các Công ty con. Lý giải này phù h

ợp với nhận định khá phổ biến hiện nay là các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam chủ yếu là các công ty vừa và nhỏ. Cách lý giải thứ hai là Việt Nam chưa phải
là thị trường đầu tư trọng tâm hoặc trình độ công nghệ trong nước yếu dẫn đến
không cần thiết phải đầu tư với công nghệ cao hơn. Chúng tôi cho rằng trong thực
tiễn cả hai cách lý giải này đều đúng và bổ sung cho nhau.
Như vậy, dù phân tích dưới góc độ nào, kết quả đầu tra các doanh nghiệp
phần nào phản ánh thực tế ở Việt Nam là ít thấy biểu hiện về tác động tràn tích cực
thông qua kênh chuyển giao công nghệ và nếu xuất hiện thì các tác động này dễ xảy
ra hơn đối với nhóm nghành dệt may và chế biến thực phẩm.
3. Kênh liên kết sản xuất:
Kết quả điều tra cho thấy, chỉ 31% nguyên liệu sản xuất mà các doanh
nghiệp FDI sử dụng được mua từ các doanh nghiệp trong nước, số còn lại mua từ
doanh nghiệp FDI, nhập khẩu hoặc mua trực tiếp từ hộ gia đình. Quan trọng hơn,
chỉ số này hầu như không thay đổi qua 3 năm từ 2011 – 2013. Về lý do nhập khẩu
nguyên liệu, có tới 42,6% doanh nghiệp FDI cho rằng nguyên liệu đó không có ở
Việt Nam, 15% cho rằng có những giá trị cao hơn nhập ngoại, 25% cho rằng chất
lượng không tốt bằng nguyên liệu ngoại nhập.
Kết quả cũng tương tự khi xem cơ cấu nguồn cung cấp nguyên liệu của các
doanh nghiệp trong nước. Trung bình cho cả 3 nghành chỉ 8% - 13% tổng giá trị
nguyên liệu mà doanh nghiệp sử dụng mua từ các doanh nghiệp FDI trong nước.
Xét kênh phân phối sản phẩm cho thấy tỷ lệ sản phẩm mà doanh nghiệp FDI
phân phối thông qua các doanh nghiệp trong nước tương đối thấp, nhất là nhóm
nghành dệt may. Một nguyên nhân khách quan quan trọng là chính sách áp đặt tỷ
lệ xuất khẩu bắt buộc với doanh nghiệp FDI.
Hiệu quả lan tỏa từ FDI đến các thành phần khác trong nền kinh tế càng cao
thì nội lực càng được tăng cường. Qua sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI với các
doanh nghiệp trong nước(SOEs, doanh nghiệp tư nhân, các đơn vị cá thể,…), công
nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp FDI đến các thành
phần khác của nền kinh tế. Để kiểm chứng hiệu quả này, xét nghành cụ thể là
nghành may mặc.

Dệt vải và may mặc là những nghành công nghiệp quan trọng của Việt Nam.
Từ đầu thập niên 1990, may mặc trở thành nghành xuất khẩu hàng đầu của Việt
Nam. Vào giữa thập niên 1990, ngành này chiếm 15% tổng kim nghạch xuất khẩu
và độ 50% kim nghạch xuất khẩu hàng công nghiệp. Với sự lớn mạnh của nghành
da giày và một số nghành xuất khẩu khác, vị trí của nghành may mặc có giảm
nhưng vẫn chiếm 10% tổng kim nghạch xuất khẩu vào năm 2011.
Trước giai đoạn may mặc là các giai đoạn kéo sợi, dệt và dệt kim, số doanh
nghiệp có FDI hiện diện khá đông đảo trong tất cả các giai đoạn may mặc .Trong
hai nghành may mặc và dệt này ,các nước ,các nền kinh tế đầu tư tích cực nhất là
Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và Hong kong. Nhiều công ty Nhật Bản cũng tích
cực. Trừ Singapore, các dự án của các nước này có tỉ lệ xuất khẩu rất cao và tỉ lệ
K/L thấp .Điều này cho thấy các nước công nghiệp mới ở Á châu và Nhật Bản đẫ
tận dụng lao động Việt Nam để xuất khẩu mặt hàng điển hình có hàm lượng lao
động cao.
Nhưng hoạt động của FDI trong ngành may mặc có tạo ra một sự liên kết với
các doanh nghiệp trong nước thuộc các giai đoạn kéo sợi và dệt sợi không. Theo
điều tra của viện kinh tế trung ương, vào năm 2010 vẫn còn tới hơn 2/3 số doanh
nghiệp FDI dùng nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng may mặc. Chẳng hạn,
trường hợp của công ty 100% vốn Nhật Bản sản xuất quần áo ở khu chế xuất Tân
Thuận, vào năm 2010 mặc dù đã sau 15 năm hoạt động ở Việt Nam, vẫn còn có tới
97 % nguyên liệu và bán thành phẩm nhập khẩu từ nước ngoài .
Những doanh nghiệp FDI có dùng nguyên liệu và bán thành phẩm sản xuất
trong nước nằm trong hai trường hợp sau: Một là các xí nghiệp liên doanh với các
đối tác này thường là các công ty quốc doanh mà sản xuất chính của họ là các mặt
hàng trung gian đó. Một trong những động cơ hoặc điều kiên để lập liên doanh với
nước ngoài và tiêu thụ bán thành phẩm hay nguyên liệu họ có sản xuất .Hai là
các doanh nghiệp FDI nghành may mặc mua bán chế phẩm hay nguyên liệu từ
những liên doanh FDI khác. Từ giữa thập niên 1990, FDI vào Việt Nam để sản xuất
các sản phẩm này bắt đầu tăng và vào đầu năm 2003 đẫ có trên dưới 50 doanh
nghiệp vốn nước ngoài sản xuất sợi và vải tại Việt Nam.

Bảng 7: Số xí nghiệp thuộc nghành dệt và may mặc phân loại theo loại hình
sở hữu
Kết quả trên cho thấy sự liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp
thuần túy vốn trong nước là rất yếu. Doanh nghiệp FDI có khuynh hướng dùng
nguyên liệu và bán thành phẩm nhập khẩu hoặc do các công ty FDI khác sản xuất.
Nguyên nhân là vì doanh nghiệp nhà nước trong ngành không cung cấp các sản
phẩm chất lượng cao hoặc không đảm bảo các điều kiện về giao hàng.
4/Kênh cạnh tranh:
Thực tế cho thấy, trong khi khu vựa doanh nghiệp FDI chịu sức ép cạnh
tranh lớn nhất giữa các doanh nghiệp này với nhau, thì các doanh nghiệp trong
nước lại cho rằng họ đang chịu sức ép cạnh tranh mạnh ngang nhau từ doanh
nghiệp FDI và chiansh các doanh nghiệp trong nước. Trong khi doanh nghiệp FDI
chịu áp lực mạnh nhất về sảng phẩm (chủng loại,nẫu mã mới), các doanh nghiệp
trong nước lại đánh giá cao nhất sức ép về công nghệ có trình độ cao hơn từ phía
doanh nghiệp FDI.
Đánh giá về sức ép cạnh tranh
Doanh nghiệp FDI Doanh nghiệp trong nước
DN NN DN TN DN
FDI
Hộ

DN trong
nước
DN
FDI
Hộ GĐ
Về thị phần 4.18 4.88 7.00 2.81 6.02 6.62 2.85
Về sản phẩm 4.00 5.00 7.24 2.9 6.12 6.41 2.62
Về công nghệ 3.47 4.59 7.14 2.45 6.11 7.43 2.75
Về lđ có tay nghề 3.97 4.47 6.25 2.36 5.76 7.00 3.23

Nguồn: Điều tra doanh nghiệp của CIEM.
Điều tra này cũng phản ánh phần nào việc các doanh nghiệp FDI liên tục
tung các sản phẩm mới ra thị trường, trong khi các doanh nghiệp trong nước
dường như vẫn đang phải dung sức mạnh vào dây chuyền và công nghệ sản xuất.
Bột giặt Daszo đang phải đối mặt với Omo, Tide, Sữa Vinamilk, Nutifood
phải cạnh tranh với Nestle, Abott,Dumex……bia sài gòn, Laser đang “chống trả”
Heneken ,Tiger, Foster… Thị trường hàng điện tử Việt Nam dù nhỏ nhưng có sự
hiện diện đầy đủ của các “anh hào” điện tử toàn cầu: Sony, Panasonic, Toshiba,
Samsung, LG… Các DN Việt Nam rất vất vả trong cuộc cạnh trah này, thất bại là
khả năng khó tránh khỏi. Hiện các sản phẩm lắp ráp trong nước đang chiếm
khoảng 70% thị phần hàng điện tử Việt Nam, tuy nhiên phần lớn vẫn là những
thương hiệu của các tập đoàn điện tử hàng đầu thế giới.
Theo nghiên cứu của Công ty GFK trong năm 2011, các sản phẩm thương
hiệu Việt Nam chỉ chiếm 8% thị phần sản phẩm điện tử nghe nhìn, 48% là các sản
phẩm điện tử gia dụng, thương hiệu Việt Nam chỉ chiếm 3%, các thương hiệu Nhật
chiếm 53%, các thương hiệu Hàn Quốc là 35%
Một số DN sản xuất hàng tiêu dùng trong nước đó nỗ lực rất lớn và đạt được
những thành quả bước đầu trong cuộc cạnh tranh với các thương hiệu nước ngoài.
Có thể kể sản phẩm nước tăng lực Number One của Công ty Tân Hiêp Phát như một
điển hình. Bất ngờ xuất hiện một cách ấn tượng trên thị trường với phong cách
mới lạ và độc đáo, những chai nước tăng lực Number One đó kéo tụt doanh số của
những “đại gia” nước giải khát có ga, nhảy lên vị trí số một cả về thị phần lẫn
doanh số của ngành giải khát có ga, nhảy lên vị trí số một cả về thị phần lẫn doanh
số của ngành giải khát trong một thời gian dài. G7- sản phẩm cà phê hòa tan của
Công ty Cà phê Trung Nguyên ngay khi xuất hiện đó lập tức cho thấy khả năng đe
dọa các đại gia khác trong lĩnh vực này. Ngay lập tức, thị trường cà phê hòa tan sôi
động với những phản ứng của NESCAFE khi thương hiệu này cùng lúc tung ra đến
ba loại phục vụ những đối tượng thích gu cà phê từ nhạt đến đậm. Nescafe cũng
đưa ra thông điệp “100% cà phê Việt Nam “ nên “hương vị Việt Nam hơn” để đối
chọi với lời kêu gọi “Người Việt dùng hàng Việt” của Trung Nguyên…

Tuy nhiên, những cuộc “phản kích”như vậy của các thương hiệu trong nước
không nhiều. Chuyện được nhắc nhiều hơn là những thất bại của một số thương
hiệu trong nước trong cuộc chiến này mà sản phẩm bia L là một ví dụ. Đầu tư công
nghệ, tiếp thị rất lớn nhưng bia L vẫn phải chịu thất bại khi các kênh phân phối
quan trọng trên thị trường như hệ thống nhà hàng, khách sạn,quán ăn….điều đó bị
các thương hiệu nước ngoài khống chế.
Phần ba : Một số giải pháp về nâng cao tác động tràn.
Để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, đòi hỏi phải tiếp tục cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, làm cho Việt
Nam thực sự là một trong những địa bàn đầu tư hấp dẫn hàng đầu trong khu vực
Đông Nam Á.
Về môi trường pháp lý, cần khẩn trương soạn thảo các văn bản hướng dẫn
Luật Đầu Tư, Luật Doanh Nghiệp và ban hành sớm các văn bản này để các nhà đầu
tư cũng như các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương có thời
gian tìm hiểu và chuẩn bị áp dụng. Đồng thời, tiến hành rà soát các chính sách liên
quan để kịp thời chỉnh sửa, hoàn chỉnh, bảo đảm sự thống nhất của cả hệ thống
luật pháp chính sách về đầu tư, khẩn trương rà soát các cam kết quốc tế về mở cửa
thị trường dể thực hiện theo đúng lộ trình.
Về thủ tục hành chính, tập trung sức hoàn thiện cơ chế một cửa ở các cơ
quan cấp phép và quản lý đầu tư. Tăng cường phân cấp mạnh hơn nữa quản lý đầu
tư đi đôi với tăng cường cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra, giải quyết kịp thời
cá thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, hải quan…
Về kết cấu hạ tầng, tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước,
trong đó có việc ban hành quy chế khuyến khích tư nhân đầu tư năng cấp các công
trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu
không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để phát huy lợi thế về nguồn nhân lực, cần tăng cường mạnh mẽ công tác
đào tạo, nhất là đào tạo nghề với sự tham gia của các tổ chức trong nước và nước
ngoài, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động kỹ thuật cao của nhà đầu tư.
Về xúc kiến đầu tư, cần triển khai xây dựng các đầu mối xuất tiến đầu tư ở

một số địa bàn trọng điểm, đổi mới phương thức xúc tiến đầu tư, nhất là chuyển
mạnh sang hình thức vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm.
Cần duy trì cơ chế đối ngoại thường xuyên giữa lãnh đạo chính phủ,các bộ
,ngành với các nhà đầu tư ,nhằm xử lí kịp thời và khó khăn, vướng mắc của các dự
án đang hoạt động bảo đảm các dự án hoạt động có hiệu quả, đúng tiến độ.
Mặc dù sẽ phải đối mặt với không ít thách thức, nhưng hoạt động ĐTNN tại
Việt Nam đang đứng trước những thừi cơ mới chưa từng có. Điều này đòi hỏi sự nỗ
lực và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trung ương và địa phương trong việc cải
thiện môi trường đầu tư năm bắt thời cơ mới để tạo nên một làn sống đầu tư nước
ngoài mới có hiệu quả, góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước ta. Bên cạnh việc chú trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài và tác động trực tiếp của nó đến tăng trưởng kinh tế cần chú ý tới tác động
tràn của nó tới các khu vực kinh tế trong nước.Sau đây là một số giải pháp:
Hoàn thiện thể chế phát hiện thị trường các yếu tố đặc biệt là thị trường lao động,
thị trường công nghệ, thị trường bất động sản, thị trường vốn, đẩy mạnh cải cách
DNNN, thúc đẩy quá trình mạnh mẽ hội nhập kinh tế quốc tế, nhanh chóng hệ
thống DN phụ trợ để cùng với các DN FDI tạo nên những nhóm ngành có khả năng
cạnh tranh quốc tế.
Một trong những lý do chính cản trở việc xuất hiện tác động tràn là sự chênh
lệch về trình độ công nghệ và thiếu sự liên kết giữa hai khu vực DN. Chênh lệch về
công nghệ thể hiện qua mức độ tập trung vốn trên đào tạo lao động thường gây trở
ngại cho chuyển giao công nghệ ở những ngành đòi hỏi vốn lớn như cơ khí điện tử.
Do vậy để nâng cao hiệu quả tác động tràn một mặt các DN trong nước cần phải
đổi mới công nghệ mặt khác phải nâng cao trình độ lao động để tăng khả năng tiếp
thu của người lao động trong việc sử dụng công nghệ có tính phức tạp.
Để nâng cao trình độ người lao động, cần tăng cường mạnh mẽ công tác đào
tạo, nhất là đào tạo nghề với sự tham gia của các tổ chức trong và ngoài nước,
nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động kĩ thuật cao của nhà đầu tư.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh, các DN cần phải thường xuyên đổi mới,
nâng cao chất lượng sản phẩm, và cung cấp các dịch vụ sau bán hàng, từ đó có thể

nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường để nâng cao tính liên kết.
Đối với kênh chuyển giao công nghệ thì phải có một sự liên kết chặt chẽ giữa
CT mẹ và CT con đối với các công ty xuyên quốc gia. Các CT mẹ thường chú trọng
đến việc cung cấp công nghệ, cung cấp các dây chuyền sản xuất cho các CT con, còn
các CT con là nơi vận hành các kết quả nghiên cứu, là nơi vận hành các kết quả sản
xuất mới nhất. Do đó các CT con này khi chuyển giao giây chuyền công nghệ cho
các công ty nhà nước thì không những phải hướng dẫn việc vận hành, sử dụng
công nghệ đó mà còn phải đào tạo công nhân lành nghề để sử dụng công nghệ đó
một cách có hiệu quả hơn.
Chú trọng thu hút vốn đầu tư nhưng đồng thời cần nhấn mạnh hơn nữa tác
động tràn. Thay vì khuyến khích thu hút FDI vào một số nghành như hiện nay, chỉ
nên quy định lĩnh vực cấm đầu tư và cho phép đầu tư vào mọi lĩnh vực ngoài lĩnh
vực cấm.
Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp mở cửa hơn nữa cho sự gia nhập thị
trường của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trong nước trong một số nghành mà hiện nay vẫn do doanh nghiệp nhà
nước nắm giữ. Đồng thời thực hiện cam kết về giảm thuế quan và hàng rào phi
thuế quan. Mục đích của các biện pháp trên là nhằm giảm mức độ tập trung của
FDI vào một số nghành sản xuất thay thế nhập khẩu, thu hút nguồn vốn này vào tất
cả các nghành, qua đó có tác động lan tỏa cho các doanh nghiệp trong nước và
kinh tế.
Kết luận
Trong khoảng thời gian gần 25 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được
ban hành Việt Nam đã thu được những kết quả khá ấn tượng về thu hút FDI. Cùng
với sự tăng trưởng nhanh về GDP chung của nền kinh tế, khu vực có FDI chiếm tỉ
trọng ngày càng tăng trong GDP. Thành quả trên là đánh giá của kết quả cuộc cải
cách chính sách kinh tế của Việt Nam thực hiện trong giai đoạn vừa qua, đồng thời
kết quả đó cũng gợi mở về quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Trong thời gian qua chính sách đầu tư nước ngoài ở Việt Nam không kém

hấp dẫn so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng hiệu lực và chính
sách thực thi chính sách thấp làm giảm dòng vốn FDI dăng ký và gây khó khăn cho
giải ngân nguồn vốn này. Dù xét dưới góc độ nào biến động thất thường về FDI
đăng ký sẽ bất lợi cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế
và cạnh tranh trong khu vực FDI ngày càng gay gắt hơn.
Ngoài ra, ít dự án nào có quy mô lớn cũng là một dấu hiệu không tốt nếu xét
về chuyển giao công nghệ và phổ biến kiến thức. Các công ty lớn thường có năng
lực về công nghệ, nên sự hiện diện của các công ty này ít ra cũng là biểu hiện cho
việc đầu tư sản xuất các hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao. Các công ty lớn còn
mang lại niềm hi vọng cho nước nhận đầu tư có được tác động tích cực từ kênh
chuyển giao công nghệ và kiến thức.
Mức thu nhập cao phản ánh NSLĐ cao của khu vực có vốn FDI là một biểu
hiện bình thường ở các nước đang phát triển. NSLĐ cao từ khu vực FDI thường
mong đợi sẽ lan tỏa ra các khu vực khác, và thực tế ở một số quốc gia điều đó đã
dược kiểm định là có xảy ra. Tuy nhiên, trong những trường hợp của Việt Nam
cũng cần phải xem xét. Khu vực có vốn FDI tập trung trong các nghàn sản xuất thay
thế nhập khẩu, tức được bảo hộ và trong chừng mực nào đó có sức mạnh thị
trường. Do vậy khả năng sinh ra tác động tràn tích cực hay tác động lan tỏa chắc
chắn bị hạn chế. FDI tập trung cao trong các ngành được bảo hộ, tập trung vốn có
thể ngăn cản quá trình di chuyển lao động giữa các doanh nghiệp FDI. Như vậy,
khả năng xuất hiện tác động tràn tích cực do di chuyển lao động là rất hạn chế.
Do vậy chính phủ cần tạo môi trường đầu tư thuận lợi tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư nước ngoài vào đầu tư ở Việt Nam đồng thời cần chú ý tới tác động tràn của
FDI tới khu vực kinh tế trong nước để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển hơn
nữa
DANH SÁCH NHÓM
1. Lê Thị Phương
2. Mạc Thị Hậu
3. Nguyễn Thị Bình Minh
4. Nguyễn Thị Thu Thủy

5. Phan Thị Như Trang

×