Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay từ thực tiễn tại ngân hàng tmcp công thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.56 KB, 80 trang )

VIệN KHOA HọC Xã HộI VIệT NAM

HọC VIệN KHOA HọC Xã HộI

NGUYễN THANH VÂN
Pháp luật về xử lý Tài sản bảo đảm
tiền vay từ thực tiễn tại Ngân hàng
TMCP Công thơng Việt Nam
chuyên ngành: LUậT KINH Tế
Mã Số: 60.38.01.07
Ngời hớng dẫn khoa học:
Pgs.Ts NGUYễN Đức minh
Hà nội, năm 2014
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 4
DANH MỤC BIỂU ĐỒ 5
LỜI MỞ ĐẦU 6
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 9
1.1. Một số khái niệm liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 9
1.1.1. Khái niệm về Giao dịch bảo đảm 9
1.1.2. Khái niệm về bảo đảm tiền vay 10
1.1.3. Khái niệm về tài sản bảo đảm 13
1.1.4. Các hình thức bảo đảm tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại 18
1.2. Khái niệm và bản chất pháp lý của xử lý tài sản bảo
đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương
mại 20
1.3. Các căn cứ pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm trong


hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại 22
1.4. Các trường hợp xử lý TSBĐ trong hoạt động cho vay
của các NHTM 23
1.5. Nguyên tắc xử lý TSBĐ 25
1.6. Các phương thức xử lý TSBĐ 26
1.7. Hậu quả pháp lý của xử lý TSBĐ trong hoạt động cho
vay của các NHTM 28
1.8. Mối quan hệ giữa Bộ luật dân sự và các văn bản pháp
luật chuyên ngành về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt
động cho vay của các NHTM 30
1
Chương 2 XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 34
2.1. Tổng quan tình hình hoạt động tín dụng tại
Vietinbank 34
2.2. Thực tiễn các quy định của pháp luật về xử lý TSBĐ
trong hoạt động cho vay của NHTM 36
2.3. Những quy định nội bộ của Vietinbank đối với hoạt
động xử lý Tài sản bảo đảm 41
2.4. Tình hình xử lý TSBĐ trong hoạt động cho vay tại
Vietinbank 46
2.5. Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý
TSBĐ tại Vietinbank 49
2.5.1. Những bất cập của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên
quan đến việc xử lý TSBĐ 49
2.5.2. Những bất cập trong quá trình xử lý TSBĐ từ phía các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền 59
2.5.3. Những vướng mắc trong khâu xử lý TSBĐ 60
2.5.4. Những khó khăn, vướng mắc phát sinh từ chính tài sản đảm bảo 61
Chương 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ

TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY TỪ THỰC TIỄN TẠI NGÂN HÀNG TMCP
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 66
3.1 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản
QPPL trong việc xử lý TSBĐ 66
3.2. Kiến nghị về việc hoàn công tác xử lý TSBĐ tại
VietinBank 71
3.2.1. Hoàn thiện các quy định nội bộ của VietinBank trong quá trình xử lý
TSBĐ 71
3.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác tín dụng và xử lý TSBĐ
72
2
KẾT LUẬN 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
3
KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BĐTV Bảo đảm tiền vay
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
GDBĐ Giao dịch bảo đảm
QPPL Quy phạm pháp luật
NHTM Ngân hàng thương mại
TCTD Tổ chức tín dụng
TSBĐ Tài sản bảo đảm
SXKD Sản xuất kinh doanh
Vietinbank
Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam
4
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 : Tốc độ tăng trưởng tín dụng 3 năm (2010, 2011, 2012) 35
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu dư nợ năm 2012 theo kỳ hạn 35

Biểu đồ 2.3 : Cơ cấu dư nợ theo ngành kinh tế 35
Biểu đồ 2.4: Tổng dư nợ phân theo cho vay có bảo đảm bằng tài sản 47
Biểu đồ 2.5: Phân loại hình thức bảo đảm 48
Biểu đồ 2.6: Danh mục tài sản bảo đảm tiền vay 48
Biểu đồ 2.7: Phân loại tài sản bảo đảm 48
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên c
ứu
Là một trong những ngân hàng lớn mạnh hàng đầu trong hệ thống các Ngân
hàng thương mại tại Việt Nam, VietinBank không những mang trọng trách thúc đẩy
nền kinh tế, mà còn đóng vai trò định hướng phát triển cho các NHTM khác. Tỷ lệ
nợ xấu, nợ quá hạn của VietinBank trong các năm gần đây có xu hướng giảm rõ rệt
nhờ vào những tiến bộ vượt bậc trong hoạt động cấp tín dụng nói chung và hoạt
động xử lý TSBĐ nói riêng, tuy nhiên không vì thế mà VietinBank không phải đối
mặt với những khó khăn, bất cập trong quá trình xử lý TSBĐ để thu hồi nợ.
Pháp luật về bảo đảm tiền vay ở Việt Nam đang từng bước được cải thiện
đáng kể, sự ra đời của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch
bảo đảm, Nghị định 83/2010/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm, Nghị định
11/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 163/2006/NĐ-CP
đã thay đổi cơ bản quá trình xử lý TSBĐ. Trong đó việc Nhà nước ưu tiên tôn trọng
sự thỏa thuận của các chủ thể tham gia hợp đồng bảo đảm tiền vay đã tạo một môi
trường mở cho việc xử lý TSBĐ tiền vay của các NHTM. Tuy nhiên khô
ng thể phủ
nhận rằng ngoài những thay đổi mang tính tích cực, vẫn còn những hạn chế và khó
khăn trong việc xử lý TSBĐ tại các TCTD.
Việc đi sâu phân tích, tìm hiểu thực tiễn xử lý TSBĐ của VietinBank sẽ cho
chúng ta có thể đánh giá tổng quát và sâu sắc hơn mức độ áp dụng pháp luật trong
hoạt động cấp tín dụng của NHTM, Chính vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài
“Pháp luật về xử lý TSBĐ tiền vay từ thực tiễn tại Ngân hàng TMCP Công

thương Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn
Qua đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý TSBĐ tại Vietinbank, tác giả
mong muốn luận văn sẽ làm rõ thực trạng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tại các
NHTM theo các tiêu chí đánh giá chất lượng hệ thống pháp luật, cũng như những
thuận lợi, hạn chế cùng nguyên nhân của nó trong thực hiện pháp luật về xử lý TSBĐ
6
tại các NHTM. Từ đó, cung cấp những luận cứ khoa học và làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về xử lý TSBĐ tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của Pháp luật có liên quan
đến việc xử lý tài sản BĐTV trong hoạt động cho vay của NHTM, từ đó đưa ra các
kết luận, đánh giá mang tính khoa học về những khía cạnh pháp lý liên quan đến
chủ đề nghiên cứu của luận văn.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định bao gồm ba nội dung chính: (i)
Cơ sở lý luận của xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại; (ii) Xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ
phần công thương Việt Nam (iii) Từ việc nghiên cứu hai nội dung này, luận văn có
nhiệm vụ đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay từ thực tiễn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, phương pháp luận của luận văn là dựa
trên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn: tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát
thực tiễn và làm rõ các phương pháp nghiên cứu đó được sử dụng để nghiên cứu
những vấn đề nào của luận văn và được sử dụng như thế nào trong việc giải quyết
các vấn đề của luận văn.
5. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn bước đầu hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
vấn đề xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nói chung, nghiên cứu các quy định nội bộ và

thực tiễn của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Vietinbank nói riêng.
Kết quả nghiên cứu luận văn phần nào góp phần vào việc tăng cường nâng
cao chất lượng xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các
ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
7
Kết quả nghiên cứu luận văn còn có thể làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy
về nâng cao chất lượng xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của
các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Danh mục ký hiệu các chữ viết tắt, Kết luận, Danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay
của ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
Chương 2: Xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam .
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay từ thực tiễn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA XỬ LÝ TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Một số khái niệm liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về Giao dịch bảo đảm
Giao dịch bảo đảm là khái niệm đã tồn tại từ rất sớm trong pháp luật của hầu
hết các nước trên thế giới và được coi là một phần không thể thiếu của các Bộ luật
Dân sự. Đăng ký GDBĐ là một trong những cách thức để bảo vệ quyền, lợi hợp
pháp của bên nhận bảo đảm tại Việt Nam. Pháp luật về GDBĐ thừa nhận GDBĐ
được đăng ký mang ý nghĩa công bố quyền lợi của bên nhận bảo đảm với người thứ

ba và tất cả những ai xác lập giao dịch liên quan đến TSBĐ đều buộc phải biết về sự
hiện hữu của các quyền liên quan đến TSBĐ đã được đăng ký. Khoản 1 Điều 323
Bộ luật Dân sự 2005, đã khái niệm “GDBĐ” như sau: “GDBĐ là giao dịch dân sự
do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo
đảm quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này”.
Điều 323, Điều 325 Bộ luật Dân sự 2005 quy định các GDBĐ được đăng ký
theo quy định của pháp luật về đăng ký GDBĐ, và xác định thứ tự ưu tiên thanh
toán khi xử lý TSBĐ theo thứ tự đăng ký GDBĐ. Theo đó, GDBĐ vừa mang những
đặc điểm chung của một giao dịch dân sự vừa mang đặc điểm của riêng mình.
GDBĐ với tư cách là một giao dịch dân sự, phải hướng đến mục đích vì lợi ích hợp
pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó, đồng thời thoả mãn
những điều kiện cơ bản để bảo đảm hiệu lực pháp lý của chính mình.
Nếu trước đây, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 chỉ quy định
về BĐTV trong việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của các TCTD đối với
khách hàng theo quy định của Luật Các TCTD, thì Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
9
đã quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự về việc xác lập, thực
hiện GDBĐ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý TSBĐ. Đồng thời, thay
vì chỉ có biện pháp cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay, bảo lãnh
bằng tài sản của bên thứ ba và bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay như quy
định của Nghị định 178/1999/NĐ-CP thì các biện pháp bảo đảm được quy định
trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã được nâng lên ngang bằng với các biện
pháp bảo đảm được quy định trong Bộ luật Dân sự, bao gồm: cầm cố, thế chấp, đặt
cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp. Bởi vậy nếu so sánh với quy định của
Nghị định số 178/1999/NĐ-CP thì phạm vi điều chỉnh và các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP là
rộng và khái quát hơn. Việc Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định bổ sung 3 biện
pháp bảo đảm: đặt cọc, ký cược, ký quỹ không chỉ làm phong phú và đa dạng các
biện pháp BĐTV mà còn tạo cơ sở pháp lý cho các TCTD, khách hàng vay có nhiều
sự lựa chọn hơn trong quá trình áp dụng những quy định liên quan của pháp luật để

thực hiện biện pháp BĐTV. Tùy từng trường hợp cụ thể mà TCTD và khách hàng
có thể thỏa thuận áp dụng một hoặc đồng thời một số biện pháp bảo đảm nêu trên
cho phù hợp. Vì vậy, các TCTD có nhiều cơ hội hơn để cho vay có bảo đảm bằng
tài sản và khách hàng cũng thuận lợi hơn trong quá trình vay vốn của các NHTM
trên cơ sở có bảo đảm bằng tài sản.
Với các phân tích ở trên, GDBĐ là sự thỏa thuận giữa Bên bảo đảm và Bên nhận
bảo đảm, theo đó Bên bảo đảm cam kết dùng tài sản của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ tài sản của chính mình hoặc của Bên thứ ba đối với Bên nhận bảo đảm.
1.1.2. Khái niệm về bảo đảm tiền vay
Bảo đảm tiền vay hay còn gọi là bảo đảm tín dụng theo ngôn ngữ khoa học tại
“Từ điển thuật ngữ - tài chính tín dụng” của Viện khoa học Tài chính được giải thích
như sau: “bảo đảm tín dụng là cơ sở mà dựa vào đó người cho vay có thể thu hồi số
tiền đã cho vay, trong trường hợp người cho vay không có khả năng trả nợ. Đó có
thể là vật tư, tài sản mà số tiền vay đầu tư vào, hoặc tài sản mà người vay tiền thế
chấp, hoặc cầm cố hoặc bảo lãnh tín dung hay uy tín của người vay” [26, tr163].
10
Pháp luật của các quốc gia trên thế giới không có sự phân biệt giữa các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Dân sự với các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp
đồng tín dụng, vì vậy việc tìm hiểu khái niệm bảo đảm tiền vay cần được thực hiện
trên cơ sở khái niệm bảo đảm nghĩa vụ Dân sự. Điều 819 Bộ luật Dân sự Liên bang
Nga 1995 quy định “các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” là những
quy định của pháp luật đặt ra và cho pháp các chủ thể áp dụng, để bảo đảm cho
nghĩa vụ được bảo đảm thực hiện, đồng thời xác định quyền và nghĩa vụ của các
Bên trong các biện pháp bảo đảm đó”. Như vậy, theo định nghĩa trên đây thì bảo
đảm tiền vay là biện pháp được pháp luật quy định để các bên có quyền và nghĩa vụ
áp dụng nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay.
Theo giáo trình Luật Dân sự của trường đại học Luật Hà Nội, bảo đảm nghĩa
vụ dân sự trong đó có bảo đảm tiền vay được phân chia theo hai phương diện:
khách quan và chủ quan. Về khách quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là sự
quy dịnh của pháp luật cho pháp các chủ thể trong giao dịch dân sự đặt ra các biện

pháp để bảo đảm cho nghĩa vụ chính được thực hiện, đồng thời xác định bảo đảm
quyền và nghĩa vụ của các bên trong các biện pháp đó. Về chủ quan, bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên đặt ra các biện pháp tác động
mang tính chất dự phòng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, đồng thời ngăn
ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc không thưc hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ gây ra [19, tr.298-299]. Định nghĩa bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ theo cách tiếp cận của Bộ luật Dân sự Liên bang Nga 1995 là cách tiếp cận theo
phương diện khách quan, trong khi đó định nghĩa bảo đảm tiền vay trong Thuật ngữ
từ điển Tài chính – tín dụng của Viện khoa học Tài chính như đã nêu ở trên là định
nghĩa theo phương diện chủ quan. Định nghĩa theo phương diện chủ quan có ưu
điểm hơn là đã chỉ ra được tính chất, nội dung và mục đích của các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và bảo đảm tiền vay nói riêng.
Theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP quy định: “bảo
đảm tiền vay là việc tổ chứng tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa
rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách
11
hàng vay”, cũng theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP Bảo đảm tiền vay được thực
hiện dưới hai hình thức:
Thứ nhất, Bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản:
Khoản 2 Điều 3 Nghị định 178/1999/NĐ-CP đã quy định những biện pháp
bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản như sau:
“Ngân hàng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản”.
Để thực hiện hình thức này, Ngân hàng cần phải xem xét tình hình tài chính,
kinh doanh, khả năng thanh toán của khách hàng. Hình thức cho vay này dựa trên
cơ sở tín nhiệm trong quan hệ tín dụng đối với khách hàng.
Ngân hàng được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ.
Ngân hàng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của
tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.

Thông thường biện pháp bảo đảm tiền vay không có TSBĐ được áp dụng đối
với khu vực kinh tế quốc doanh. Hình thức này có nhiều ưu điểm: thúc đẩy mối quan
hệ làm ăn lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng, giảm bớt quy trình tín dụng khi thực
hiện một món vay nhưng đương nhiên rủi ro đối với Ngân hàng trong việc không
đảm bảo thu hồi được các khoản nợ từ các khoản vay không có TSBĐ là rất lớn.
Thứ hai, Bảo đảm tiền vay bằng tài sản: Đối với vấn đề BĐTV bằng tài sản,
theo khoản 1 Điều 3 Nghị định 178/1999/NĐ-CP, khi vay vốn tại Ngân hàng, khách
hàng có thể dùng TSBĐ cho khoản vay của mình theo các phương thức:
- Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay
- Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
- Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản chính là các biện pháp cầm cố,
thế chấp tài sản của khách hàng vay hoặc của bên thứ ba có tài sản bảo đảm, bảo
lãnh của bên thứ ba, theo đó bên bảo đảm dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của
12
mình để đảm bảo cho nghĩa vụ được xác lập thực hiện. Các biện pháp bảo đảm tiền
vay bằng tài sản nói trên là những quy định cho phép các chủ thể áp dụng biện pháp
bảo đảm để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng, đồng thời xác định được
quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện biện pháp bảo đảm đó.
Việc đảm bảo tiền vay bằng tài sản không chỉ mang lại cho NHTM sự đảm
bảo rằng NHTM không bị mất hoàn toàn khoản vay trong trường hợp khách hàng
không trả được nợ, mà còn cho NHTM đặc quyền được ưu tiên thanh toán khi
người có vật đảm bảo thực hiện thanh lý tài sản đó. Nếu giá trị vật bảo đảm vượt
quá giá trị khoản vay, sau khi thanh lý khoản chênh lệch sẽ được trả lại cho người
vay sau khi khoản vay được thanh toán đầy đủ cả nợ gốc và lãi phát sinh tại NHTM.
Trong trường hợp đã xử lý vật bảo đảm tuy nhiên không đủ trả nợ, Ngân hàng có
thể được quyền xử lý các tài sản khác để thu hồi nợ vay nếu khách hàng vay đồng ý
giao tài sản khác để bù trừ vào nghĩa vụ trả nợ hoặc theo sự phán quyết của toà án.
Như vậy, bảo đảm tiền vay là một hình thức của GDBĐ, theo đó bên cầm cố,
thế chấp, bảo lãnh cam kết với TCTD về việc dùng tài sản hoặc uy tín của tổ chức

để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ và lãi suất. Về bản chất pháp lý, bảo đảm tiền
vay là giao dịch dân sự theo đó xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc
bản đảm khả năng thu hồi nợ cho bên cho vay bằng các biện pháp bảo đảm theo quy
định của Pháp luật.
1.1.3. Khái niệm về tài sản bảo đảm
Là một khái niệm gắn được đưa ra ở tất cả các hệ thống pháp luật khác nhau
trên thế giới, tùy thuộc vào quan niệm của pháp luật mỗi quốc gia về tài sản mà từ
đó khái niệm “tài sản bảo đảm” được hình thành. Theo quan niệm của một số quốc
gia trên thế giới, như tại Bộ luật Dân sự Pháp và Bộ luật Dân sự Ba Lan phạm vi
TSBĐ được quy định tương đối rộng, theo đó TSBĐ chủ yếu được chia thành động
sản và bất động sản, tuỳ theo tính chất của tài sản mà áp dụng theo quy định pháp
luật khác nhau đối với việc thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản đó. Tại Việt Nam, Bô
luật dân sự 2005 đưa ra khái niệm “vật bảo đảm”, theo đó vật bảo đảm thực hiện
13
nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của người bảo đảm và được phép giao
dịch. Cụ thể hoá quy định này, Khoản 7 điều 3 và khoản 1 điều 4 Nghị định số
163/2006/NĐ-CP đã đưa ra khái niệm khá trọn vẹn về TSBĐ:
“Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm”;
“Tài sản bảo đảm do các bên thoả thuận và thuộc sở hữu của
bên có nghĩa vụ hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này
cam kết dùng tài sản đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ đối với bên có quyền. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản
hiện có, tài sản hình thành trong tương lai và được phép giao dịch”.
Việc quy định TSBĐ phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm là một điều
kiện cơ bản để xác lập GDBĐ. Tuy nhiên vô hình chung nó đã thu hẹp phạm vi tài
sản có thể đem bảo đảm như tài sản hình thành trong tương lai, hoa lợi thu được từ
cây trồng, hoặc các khoản có thể thu khác… bởi lẽ, tại thời điểm GDBĐ được xác
lập, những tài sản này chưa hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Bên bảo đảm. Mặc
dù vậy, việc quy định bắt buộc TSBĐ phải thuộc sở hữu của Bên bảo đảm đã hạn

chế phần lớn rủi ro cho Bên nhận bảo đảm khi thực hiện các quyền lợi của mình
trên chính tài sản đó. Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã có quy
định mở theo đó cho phép các bên được thỏa thuận việc bảo đảm bằng tài sản hình
thành trong tương lai, thêm vào đó, Điều 2. Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi
khoản 1 và khoản 2 Điều 4 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã quy định mở như
sau: “1. Tài sản bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai
mà pháp luật không cấm giao dịch.2. Tài sản hình thành trong tương lai gồm:a)
Tài sản được hình thành từ vốn vay; b) Tài sản đang trong giai đoạn hình thành
hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm; c) Tài
sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng sau thời
điểm giao kết giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của
pháp luật. Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất.”
So với Nghị định 178/1999/NĐ-CP, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP không
14
quy định việc mua bảo hiểm đối với TSBĐ và tài sản không có tranh chấp là điều
kiện bắt buộc của TSBĐ. Trên thực tế, hai điều kiện này rất khó áp dụng vì không
có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục xác nhận tài sản không có tranh
chấp cũng như điều kiện bảo hiểm đối với tài sản. Các quy định này phân tán, riêng
lẻ trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau, nên các TCTD và khách
hàng rất khó xác định điều kiện của TSBĐ.
Hiện nay, các TCTD không còn phải mất thời gian đi tìm hiểu thực trạng tài
sản có tranh chấp hay không và tra cứu văn bản pháp luật về điều kiện bảo hiểm đối
với TSBĐ. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể, các bên vẫn có thể thỏa
thuận áp dụng một hoặc cả hai điều kiện trên trong GDBĐ, miễn sao điều kiện đó
có tính khả thi, thực hiện được trên thực tế và bảo đảm an toàn vốn vay cho TCTD,
đồng thời không làm ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của khách hàng.
Dựa vào đặc điểm của TSBĐ ta có thể phân loại TSBĐ như sau:
Thứ nhất, Tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai: Tài sản hiện
có là tài sản BĐTV đang thuộc sở hữu của Bên bảo đảm tại thời điểm xác lập
GDBĐ. Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm

sau thời điểm phát sinh nghĩa vụ được bảo đảm hoặc sau thời điểm GDBĐ được
giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành
tại thời điểm giao kết GDBĐ, nhưng sau thời điểm giao kết GDBĐ mới thuộc sở
hữu của bên bảo đảm. Loại tài sản hình thành trong tương lai có đặc điểm:
(i) Thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc
GDBĐ được giao kết;
(ii) Phải có tài liệu, giấy tờ chứng minh nó sẽ thuộc quyền sở hữu của Bên bảo
đảm trong tương lai (giấy phép xây dựng, hợp đồng mua bán );
(iii) Chỉ có thể là đối tượng của quan hệ thế chấp.
Thứ hai, Tài sản hữu hình và tài sản vô hình: Tài sản hữu hình là tài sản hiện
hữu, có thể là vật, động sản, hàng hoá… Tài sản vô hình là những tài sản phi vật
chất của bên bảo đảm, có thể là quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả, quyền sử
15
dụng đất, hoặc các quyền tài sản khác
Trong hoạt động cho vay của các TCTD, thế chấp bất động sản là biện pháp
bảo đảm chủ yếu và có giá trị thực tiễn cao nhất. Theo quy định tại Điều 110 và
Điều 113 Luật Đất đai 2003, tổ chức kinh tế được thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử
dụng đất tại TCTD để vay vốn; hộ gia đình và cá nhân được thế chấp, bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất tại TCTD, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân chỉ “để vay vốn sản xuất,
kinh doanh”; Điều 111 Luật đất đai cũng cho phép thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản
thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê “tại các TCTD được phép hoạt động tại
Việt Nam để vay vốn sản xuất, kinh doanh” .
Mọi loại tài sản đều có thể trở thành tài sản bảo đảm khi thoả mãn các điều
kiện nêu tại Điều 4 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP. Cụ thể là:
Thứ nhất, tài sản phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.
Việc xem xét quyền sở hữu tài sản có thể dựa trên các bằng chứng chứng minh
quyền sở hữu tài sản bao gồm: Giấy chứng nhận quyền sở hữu (đối với tài sản bắt
buộc phải đăng ký quyền sở hữu): bất động sản; tàu bay, tàu, phương tiện giao
thông cơ giới Các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu (đối với trường hợp không
phải đăng ký quyền sở hữu): tài liệu giao dịch, hoá đơn hoặc sự chiếm hữu thực tế

đối với tài sản đó. Một người không thể có quyền đối với những tài sản nằm ngoài
phạm vi tài sản mà người đó sở hữu. Do đó, người bảo đảm chỉ có thể sử dụng
những tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình hoặc những tài sản trong tương lai sẽ
thuộc sở hữu hợp pháp để bảo đảm cho nghĩa vụ của mình.
Bên cạnh đó, cũng có một số trường hợp đặc biệt liên quan đến điều kiện bảo
đảm bằng tài sản trong giao dịch bảo đảm, đó là:
(i) Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đã nhận được quyết định mở thủ tục
phá sản mà không được sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán thụ lý cho phép cầm
cố, thế chấp (Điều 31 Luật phá sản 2004);
(ii) Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, chỉ được phép dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nếu được sự chấp thuận của cả vợ và chồng hoặc
16
phân chia để trở thành tài sản riêng (Luật hôn nhân gia đình)
Ngoài ra, một số tài sản không thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm nhưng
vẫn có thể được coi là tài sản bảo đảm như:
(i)Tài sản thuộc sở hữu Nhà nước nhưng được giao cho doanh nghiệp nhà
nước trực tiếp quản lý, sử dụng;
(ii) Tài sản của người được giám hộ, khi đó người giám hộ có thể dùng tài sản
của người được giám hộ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Việc này phải được người
giám sát giám hộ đồng ý và phải vì lợi ích của người được giám hộ.
Một số loại tài sản bảo đảm dưới đây mặc dù thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng hợp pháp của chủ tài sản nhưng không được đem bảo đảm nghĩa vụ tài sản như:
(i) Quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm;
(ii) Nhà ở, công trình xây dựng trên đất được xây dựng trên đất thuê đã hết
thời hạn thuê đất mà không được gia hạn thuê tiếp hoặc không được chuyển sang
hình thức giao đất để sử dụng ổn định lâu dài;
(iii) Tài sản đã có quyết định kê biên để đảm bảo thi hành án;
(iv) Di sản thờ cúng;
(v) Quyền đòi nợ, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mà trong giao dịch phát
sinh quyền quy định rõ không được sử dụng để bảo đảm thực hiện cho nghĩa vụ khác;

(vi) Cổ phần ưu đãi biểu quyết, nếu chuyển thành cổ phần phổ thông vì hết
thời hạn 3 năm hoặc được chuyển đổi theo quyết định của đại hội đồng cổ đông thì
được phép chuyển nhượng và được phép cầm cố
Ngoài ra, cũng có những tài sản tuy không thuộc quyền sở hữu nhưng nếu đã
nhận bảo đảm thì bên nhận bảo đảm vẫn được phép bảo vệ: Máy móc, thiết bị hoặc
động sản khác không phải đăng ký quyền sở hữu mua trả chậm, trả dần, thuê có thời
hạn từ 1 năm trở lên của doanh nghiệp, cá nhân có ĐKKD mà hợp đồng trả chậm,
trả dần, thuê tài sản không đăng ký hoặc đăng ký sau 15 ngày kể từ ngày ký hợp
đồng và đăng ký sau giao dịch bảo đảm.
Thứ hai, Tài sản bảo đảm phải là tài sản được phép giao dịch.
Xuất phát từ bản chất của các giao dịch dân sự không được trái với đạo đức xã
17
hội, trái với điều cấm của pháp luật, một tài sản bảo đảm không thể là tài sản bị cấm
giao dịch bao gồm:
(i) Tài sản bị cấm giao dịch do đặc điểm của loại tài sản đó (ví dụ hàng hoá bị
cấm lưu thông);
(ii) Tài sản bị cấm giao dịch do tình trạng pháp lý của tài sản đó tại thời điểm xác
lập giao dịch bảo đảm (ví dụ quyền sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử
dụng hoặc chưa có các giấy tờ để đủ điều kiện chuyển nhượng…) và các tài sản bị hạn
chế giao dịch, lưu thông. Tài sản bị hạn chế giao dịch, lưu thông thì vẫn được coi là tài
sản được phép giao dịch, nhưng khi xử lý tài sản đó phải tuân thủ các điều kiện.
Tóm lại, Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm, theo đó pháp luật quy định tài sản
bảo đảm bao gồm tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai, tài sản hữu
hình, tài sản vô hình, Tài sản bảo đảm phải là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm
và phải được phép giao dịch.
1.1.4. Các hình thức bảo đảm tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
Với bản chất là một tổ chức kinh tế đặc thù có chức năng kinh doanh tiền tệ,
NHTM thực hiện hoạt động kinh doanh của mình thông qua các quan hệ tín dụng,

từ các quan hệ này mối quan hệ giữa ngân hàng với các tổ chức, cá nhân được thiết
lập và phát triển, gắn NHTM gần với các hoạt động SXKD trong xã hội. Nếu không
có những thiết chế cơ bản để bảo đảm các khoản tiền vay và cho vay hiệu quả,
NHTM sẽ tự đặt mình trước những rủi ro khó lường đối với một loại hàng hóa đặc
biệt vốn dĩ đã chứa đựng rất nhiều rủi ro. Những thiết chế cơ bản về các biện pháp
bảo đảm trong Bộ luật Dân sự 2005 sẽ được ngân hàng lựa chọn, tuy nhiên trong số
bảy biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp
tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp thì các biện pháp cầm cố, thế
chấp và bảo lãnh được các NHTM ưu tiên sử dụng nhiều hơn cả. Sở dĩ các biện
pháp cầm cố, thế chấp và bảo lãnh được các NHTM ưu tiên sử dụng nhiều hơn các
18
biện pháp còn lại bởi lẽ các biện pháp bảo đảm cầm cố, thế chấp và bảo lãnh có
chung đặc điểm là sử dụng tài sản cụ thể của chính khách hàng vay, của bên cầm
cố/thế chấp hoặc bên bảo lãnh để đảm bảo thi hành nghĩa vụ trả nợ, khi khách hàng
vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì tài sản bảo đảm cho khoản vay sẽ được xử lý để thu
hồi nợ cho NHTM. Như vậy, khi xảy ra rủi ro tín dụng liên quan đến các khoản vay,
thì phương thức xử lý tài sản của 03 biện pháp nêu trên đem lại được hiệu quả cao
hơn so với 04 biện pháp bảo đảm còn lại.
Bộ luật Dân sự 2005 và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về bảo
đảm tiền tiền vay của các TCTD cũng đã tập trung hướng dẫn cụ thể về các biện
pháp bảo đảm cầm cố, thế chấp và bảo lãnh để các NHTM có thể dễ dàng áp dụng
vào thực tế.
Cầm cố tài sản:
Điều 326 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Cầm cố tài sản là việc một bên (gọi là
bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (gọi là bên nhận
cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Việc cầm cố tài sản phải được
lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính”.
Tài sản cầm cố có thể bao gồm: đồng Việt Nam đồng, ngoại tệ, số dư trên tài
khoản tiền gửi, trái phiếu, tín phiếu, thương phiếu, kỳ phiếu, Sổ tiết kiệm, chứng chỉ
tiền gửi và các giấy tờ khác có giá trị như tiền; Máy móc, thiết bị, phương tiện vận

tải, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng, kim khí quý, đá quý và các vật có giá khác (là
tài sản không phải là bất động sản); tài sản hình thành trong tương lai… Trường hợp
tài sản cầm cố được bảo hiểm thì khoản bảo hiểm cũng phải thuộc tài sản cầm cố.
Thế chấp tài sản
Điều 342 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Thế chấp tài sản là việc một bên (gọi là
bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo
hợp đồng đối với bên kia (gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó
cho bên nhận thế chấp. Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập
thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy
19
định thì văn bản thay thế phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký”.
Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật
phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp có
thể bao gồm: tài sản là bất động sản; tài sản là động sản; tài sản là hoa lợi, lợi tức;
tài sản hình thành trong tương lai.
Bảo đảm bằng tài sản bảo lãnh:
Điều 361 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi
là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn
mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các
bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên
được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”. Việc bảo lãnh
phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp
đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải được
công chứng, chứng thực.
1.2. Khái niệm và bản chất pháp lý của xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động
cho vay của các ngân hàng thương mại
Nợ quá xấu, nợ quá hạn luôn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của các
NHTM, mặc dù các NHTM đã nỗ lực nhằm giảm thiểu tình trạng này nhưng trên
thực tế vẫn phải thường xuyên đối mặt với thực trạng là một khối lượng lớn nguồn

vốn kinh doanh của ngân hàng bị tồn đọng trong TSBĐ. Vì vậy, việc xử lý TSBĐ
có ý nghĩa rất quan trọng đối với cả ngân hàng và cả khách hàng sử dụng vốn vay.
“Xử lý tài sản bảo đảm” nói chung có thể hiểu là việc các bên có liên quan
đến GDBĐ tiến hành các hoạt động mà pháp luật cho phép nhằm thanh toán, bù
trừ các nghĩa vụ tài sản của bên có nghĩa vụ cho bên nhận bảo đảm.
Xét từ khía cạnh luật học, “xử lý TSBĐ” có thể xem là một chế định pháp luật
trong đó bao gồm các QPPL quy định về nguyên tắc; phương thức; điều kiện; quy
trình, thủ tục xử lý các TSBĐ nhằm mục tiêu thu hồi nợ cho bên bảo đảm, đồng thời
20
bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản.
Xử lý TSBĐ là một trong các biện pháp thu hồi nợ của NHTM, xử lý TSBĐ là
một quy trình đặc biệt ở chỗ quy trình này được áp dụng thông qua việc ngân hàng
bán/chuyển nhượng TSBĐ cho người thứ ba (bằng hình thức mua bán thông thường
hoặc thông qua đấu giá tài sản) để thu hồi, xử lý nợ vay khi khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ vay.
Đây là một quá trình phức tạp với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau,
bao gồm: ngân hàng, khách hàng, các bên có liên quan và kể cả các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, trong đó chủ thể đóng vai trò trọng tâm chính là ngân hàng –
với tư cách là chủ nợ có bảo đảm. Mục đích của việc xử lý TSBĐ là nhằm mục đích
thu hồi vốn, bảo vệ lợi ích cho ngân hàng trên cơ sở tôn trọng quyền sở hữu của chủ
tài sản. Nguyên nhân của vấn đề này chủ yếu là do hoạt động cho vay của NHTM
thường có độ rủi ro cao và có ảnh hướng lớn đến nền kinh tế nên pháp luật phải đặt
ra những quy định chặt chẽ về nguyên tắc, quy trình xử lý TSBĐ, thông qua đó
nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng của ngân hàng (bên nhận bảo đảm) và quyền
sở hữu của chủ tài sản (bên bảo đảm).
Xử lý TSBĐ không đơn thuần chỉ là biện pháp để thu hồi nợ vay cho ngân
hàng, mà còn giúp cho ngân hàng giảm được chi phí do việc phải bảo quản, bảo
dưỡng các TSBĐ trong khi các tài sản này đã ngừng hoạt động để đưa vào diện xử lý
thu hồi nợ. Đối với những NHTM có khối lượng TSBĐ phải đưa vào diện xử lý thu
hồi nợ lớn do có nhiều khách hàng không trả được nợ, việc bán các tài sản TSBĐ trên

sẽ giúp cho ngân hàng thu hồi được nợ và tránh rơi vào tình trạng rủi ro phá sản do
không có khả năng thanh toán các khoản tiền gửi của khách hàng khi đến hạn. Xử lý
TSBĐ là một biện pháp nhằm đẩy mạnh quá trình lành mạnh hoá hoạt động tài chính
của các ngân hàng. Đối với khách hàng, tâm lý khách hàng vay vốn đều muốn kinh
doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận và không ai muốn bị rủi ro dẫn đến phải bán
TSBĐ để trả nợ, tuy nhiên điều này vẫn thường xuyên xảy ra. Chính vì vậy, các ngân
hàng buộc phải xử lý TSBĐ của khách hàng để thu hồi nợ cho mình. Việc xử lý
TSBĐ nếu được thực hiện tốt sẽ giúp cho các khách hàng hoàn thành được nghĩa vụ
21
trả nợ, hoặc nếu chưa trả đủ thì cũng giúp khách hàng giảm bớt được nợ đối với ngân
hàng, quan trọng hơn là giúp khách hàng tránh phải ra hầu toà hoặc hơn nữa là bị
cưỡng chế Thi hành án do không trả được nợ cho ngân hàng.
1.3. Các căn cứ pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của
các ngân hàng thương mại
Các TSBĐ khác nhau có cách thức xử lý không giống nhau, những các phân
tích dưới đây sẽ cho thấy rõ các căn cứ pháp lý để xử lý TSBĐ trong hoạt động cho
vay của NHTM. Trên lý thuyết, việc xử lý TSBĐ phải dựa trên hai căn cứ pháp lý,
bao gồm:
Thứ nhất, các Bên thỏa thuận về biện pháp xử lý TSBĐ được quy định trong
hợp đồng bảo đảm.
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã thể hiện tinh thần tôn trọng sự thỏa thuận
của các chủ thể trong GDBĐ cao hơn so với Nghị định 178/1999/NĐ-CP, bởi lẽ
theo nghị định này các bên tham gia GDBĐ có quyền tự do thỏa thuận về biện pháp
xử lý TSBĐ và pháp luật đó tôn trọng, bảo hộ sự thỏa thuận đó. Việc các bên tham
gia GDBĐ thể hiện sự đồng thuận trong việc lựa chọn cách thức xử lý TSBĐ có thể
xem là trạng thái lý tưởng trong việc xử lý TSBĐ, bởi lẽ khi đó việc xử lý TSBĐ sẽ
dễ dàng và thuận lợi hơn mà không gặp phải những trở ngại do các bên không thống
nhất với nhau được về cách thức và kết quả xử lý TSBĐ.
Theo Điều 59 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, các phương thức xử lý tài sản
bảo đảm theo thoả thuận bao gồm: “Bán tài sản bảo đảm; Bên nhận bảo đảm nhận

chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm;
Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba trong
trường hợp thế chấp quyền đòi nợ; Phương thức khác do các bên thoả thuận”.
Hoạt động xử lý TSBĐ trên thực tế khó có thể đạt tới sự thỏa thuận giữa các
bên vì những lợi ích mà các Bên hướng tới thường là đối lập nhau. Tuy vậy, không
thể phủ nhận hiệu quả của hình thức này do sự rút ngắn quy trình, thời gian xử lý
TSBĐ, việc tránh phải xử lý TSBĐ qua các cơ quan tài phán có thể dẫn tới kết quả là
22
không làm ảnh hưởng đến uy tín, thời gian, tiền bạc của các bên trong giao dịch này.
Thứ hai, các quy định của pháp luật về GDBĐ và xử lý TSBĐ trong hoạt động
cho vay của NHTM.
Mục đích chủ yếu của xử lý TSBĐ nhằm đảm bảo cho NHTM thu hồi vốn cho
vay để tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình, từ đó tạo điều kiện cho NHTM
tránh khỏi những rủi ro thiệt hại do làm ngưng trệ quá trình kinh doanh, tiếp tục
thực hiện vai trò và chức năng của mình trong nền kinh tế. Mặc dù việc xử lý TSBĐ
không phải là một giải pháp tối ưu nhưng nó đáp ứng được yêu cầu cấp bách là thu
hồi được nợ cho ngân hàng và đảm bảo an toàn về quyền lợi cho người gửi tiền tại
ngân hàng.
Hiện nay, căn cứ pháp lý để xử lý TSBĐ không chỉ bao gồm các quy định
được thể hiện trong Bộ luật Dân sự 2005, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, Nghị
định 11/2012/NĐ-CP, Luật các TCTD 2010… mà việc xử lý TSBĐ còn được điều
chỉnh bởi các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan đến chính TSBĐ như:
Luật đất đai, Luật chứng khoán, Luật doanh nghiệp…
1.4. Các trường hợp xử lý TSBĐ trong hoạt động cho vay của các NHTM
Các NHTM được phép xử lý tài sản trong các trường hợp cụ thể như sau :
Thứ nhất, đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã được
ký kết giữa khách hàng và NHCTM mà bên được bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ
trả nợ hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đối với bên nhận bảo đảm.
Thứ hai, bên được bảo đảm vi phạm hợp đồng tín dụng và bị NHTM yêu cầu
thu hồi vốn trước hạn song bên được bảo đảm không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ

vay trước hạn thì sẽ bị xử lý TSBĐ để thu hồi nợ. Trong bất kỳ hợp đồng tín dụng và
hợp đồng bảo đảm nào cũng quy định rất cụ thể về nghĩa vụ của các bên khi tham gia
giao kết và thực hiện hợp đồng, đồng thời đều quy định trong trường hợp bên vay
(bên được bảo đảm) hoặc bên bảo đảm vi phạm quy định của Hợp đồng tín dụng,
Hợp đồng bảo đảm thì ngân hàng có quyền yêu cầu thu hồi nợ trước hạn. Điển hình
là trong trường hợp: nghĩa vụ của bên vay (bên được bảo đảm) là phải sử dụng vốn
23
vay đúng mục đích tuy nhiên họ sử dụng vốn vay vào mục đích khác thì ngân hàng sẽ
phải tiến hành thu hồi nợ trước hạn, trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện
nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng có quyền xử lý TSBĐ để thu hồi nợ.
Thứ ba, pháp luật quy định TSBĐ phải được xử lý để bên bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ khác khi đã đến hạn. Một tài sản có thể cùng một lúc bảo đảm cho nhiều
khoản nợ vay nhưng giá trị của TSBĐ phải lớn hơn giá trị của tổng giá trị của các
khoản vay, khi một trong số những khoản vay có cùng một TSBĐ đến hạn mà bên
bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ tiến hành
bán TSBĐ để thu hồi nợ .
Thứ tư, khách hàng vay là doanh nghiệp bị toà án tuyên bố bị phá sản, bị giải
thể theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, dù tại thời điểm đó nghĩa
vụ trả nợ chưa đến hạn nhưng cũng được coi là đến hạn, ngân hàng có quyền yêu cầu
thu hồi nợ vay trước thời hạn. Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ thì
ngân hàng sẽ buộc phải tiến hành xử lý TSBĐ để đảm bảo thu hồi nợ vay.
Ngoài ra những trường hợp trên đây, các trường hợp xử lý TSBĐ khác do các
bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định. Đối với trường hợp doanh nghiệp hợp
nhất, sáp nhập, chuyển đổi, cổ phần hoá; TSBĐ cho các khoản nợ của doanh nghiệp
trước khi hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, cổ phần hoá… được tiếp tục dùng làm
TSBĐ cho các khoản nợ đó của các doanh nghiệp mới sau khi doanh nghiệp cũ hợp
nhất, sáp nhập, chuyển đổi, cổ phần hoá. Nếu nhận thấy doanh nghiệp mới sau khi
chuyển đổi có khả năng không thực hiện biện pháp này, thì ngân hàng có quyền xử
lý TSBĐ để thu hồi nợ trước khi thực hiện nghĩa vụ chia, tách, hợp nhất, sáp nhập,
chuyển đổi, cổ phần hoá của doanh nghiệp đó.

Tuy nhiên trên thực tế, không phải lúc nào khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ là
ngân hàng đều tiến hành xử lý tài sản mà ngân hàng vẫn tiếp tục xem xét khả năng trả
nợ của khách hàng và xem xét gia hạn nợ nếu nhận thấy khách hàng vẫn có khả năng
thanh toán, thậm chí ngân hàng có thể cấp tín dụng bổ sung cho khách hàng để tiếp tục
duy trì sản xuất nếu khách hàng chứng minh được dự án đang thực hiện còn tính khả
thi và nguyên nhân là do khách hàng thiếu vốn để thưc hiện sản xuất, kinh doanh. Mục
tiêu của ngân hàng không phải là bắt nợ, xử lý TSBĐ của khách hàng mà luôn tại điều
24

×