Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

chính sách tiền tệ của nhnn việt nam giai đoạn 2011-2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.52 KB, 16 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
Bộ môn: Ngân hàng trung ương
Giảng viên hướng dẫn: Phan Đại Thích
THẢO LUẬN NHÓM 8 :
Lớp ca 3 thứ 6
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2011-2012
Danh sách thành viên:
STT HỌ TÊN MÃ SV
1 Thạch Thị Tâm – nhóm trưởng 13A4010588
2 Nông Thị Hoa 13A4010946
3 Nguyễn Thị Thúy Hồng 13A4010412
4 Lưu Thanh Hồng
5 Lê Thị Thu Hằng 13A4000753
6 Nguyễn Toàn Thắng
7 Billy
8 Hà Minh Đắc 12A4011077
9 Nguyễn Văn Lực 13A4010491
1
MỤC LỤC:
NỘI DUNG Trang
I. Bối cảnh kinh tế 3
II. Hệ thống mục tiêu CSTT 3
1. Mục tiêu cuối cùng
3
2. Mục tiêu trung gian
4
3. Mục tiêu hoạt động
5
III. Điều hành các công cụ CSTT 2011- 2012
5


1. Công cụ lãi suất
5
2. Dự trữ bắt buộc
8
3. Tái cấp vốn
9
4. Nghiệp vụ thị trường mở
9
5. Hạn mức tín dụng
10
IV. Đánh giá CSTT 2011-2012
11
1. Những kết quả tích cực
11
2. Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu xử lý và hoàn thiện
12
V. PHỤ LỤC
14
2
I. Bối cảnh kinh tế
Việt Nam bước vào giai đoạn 2011-2012 trong bối cảnh nền kinh tế trong nước
đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Lạm phát của thế giới có xu hướng tăng lên,
trong đó giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ bản (đầu vào của sản xuất), giá lương
thực, và thực phẩm trên thế giới tăng cao.Trong khi đó, vào năm 2011, giá cả trong
nước tăng cao, áp lực lạm phát ngày càng tăng lên do nhiều nguyên nhân nội tại của
nền kinh tế tích lũy từ trước đến nay và chính sách nới lỏng tiền tệ để ngăn chặn suy
giảm, duy trì tăng trưởng trong thời gian 2008-2010, làm tăng nguy cơ mất ổn định
kinh tế vĩ mô của nước ta.
Nghị quyết Hội nghị T.Ư 3 (khóa XI) tháng 10-2011 đã xác định giai đoạn
2011-2015, ưu tiên hàng đầu của kinh tế Việt Nam là kiềm chế lạm phát, ổn định

kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đi đôi với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế.
II. Hệ thống mục tiêu CSTT
1. Mục tiêu cuối cùng:
- Thời kỳ 2011-2012, Luật NHNN 2010
1
, có hiệu lực từ 1/1/2011, chỉ quy
định một mục tiêu cao nhất của CSTT, đó là:ổn định giá trị đồng tiền. Đây là sự đổi
mới, hoàn thiện đúng hướng của CSTT ở VN, theo hướng CSTT đơn mục tiêu, phù
hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Bảng 1.Lạm phát: Mục tiêu và kết quả thực hiện giai đoạn 2004-2012
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Mục
tiêu <5 <6.5 <8 <8 <10 15 7-8 <7 <10
Thực
hiện 9.5 8.4 6.6 12.6 19.9 6.5 11.8 18.1 7*
Có thể thấy vòng xoáy lạm phát từ 2004-2012, theo chu kỳ 3 năm 1 lần: 2 năm tăng
vọt lên và 1 năm giảm xuống sâu đột ngột. Điều này cho thấy, kết quả kiểm soát lạm
1
Điều 3, Luật NHNN số 46/2010/QH12
3
phát chỉ mang tính thời điểm, không ổn định và chưa vững chắc, các yếu tố gây nên
lạm phát cao chưa giải quyết được tận gốc rễ.
Những nguyên nhân chủ quan làm bùng phát lạm phát cao từ trước đến nay do
bất cập trong điều hành CSTT đã bộc lộ rõ và đã khắc phục ngày càng tốt hơn trong
giai đoạn 2011-2012.
Đối với các nguyên nhân khách quan của nền kinh tế, gây áp lực tạo nên lạm
phát cao ở nước ta vẫn còn nguyên. Đó là những yếu tố gây nên áp lực lạm phát chi
phí đẩy của nền kinh tế (chứ không phải nguy cơ từ các yếu tố cầu kéo và các nguyên
nhân khác) như: xu thế giá cả hàng hóa thế giới ngày càng tăng cao với một nền kinh

tế có tỷ lệ nhập khẩu/GDP cao hơn 80%; sự tăng lên của chi phí sản xuất do cơ cấu
kinh tế, chất lượng tăng trưởng, quản lý kém hiệu quả và yêu cầu phải điều chỉnh tăng
tiền lương, sự tăng giá các mặt hàng chủ chốt và dịch vụ thiết yếu do quá trình điều
chỉnh giá bao cấp sang giá thị trường của các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quản lý
2. Mục tiêu trung gian
Thực tế điều hành CSTT trong thời gian qua, NHNNVN đã lựa chọn biến số
“Tổng phương tiện thanh toán” và “Mức tăng trưởng Tín dụng” làm mục tiêu trung
gian của CSTT VN.
Bảng số 1.2. Diễn biến cung tiền và tăng trưởng tín dụng 2004-2012
Chỉ tiêu
200
4 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012*
M2

Mục tiêu 22 22
23-
25
20-
23 32 18-20 25
15-
16 14-16
Thực
hiện 30.4 29.6 33.6 46.1 20.3 29 33.3 12.4 17
Tín
dụng
Mục tiêu 25 25
18-
20
17-
21 30 21-23 25 20 15-17

Thực
hiện 41.6 31.1 25.4 53.9 25.4 37.5 31.2 14.4 5.5
Kết quả điều hành M2 giai đoạn 2011-2012 theo xu hướng thực hiện sát với
mục tiêu đề ra hơn nhiều giai đoạn trước đó
Xu hướng chênh lêch lớn giữa chỉ tiêu thực hiện với mục tiêu đề ra diễn ra liên
tục trong suốt cả thời kỳ dài từ 2004-2010, với mức tăng M2 bình quân mục tiêu đề ra
24.14%/năm, thực hiện bình quân 31.17%, chênh lệch + 7.03 %.
4
Mức chênh lệch của năm 2011 là +3.63% (mục tiêu 15-16%, thực hiện
12.37%) và mức thực hiện của 2012 khoảng 17%, vượt mục tiêu (14-16%) không
đáng kể, giảm 50% mức cung tiền thực hiện bình quân của 2004-2010.
Mức tăng trưởng tín dụng thực hiện năm 2011 là 14.41%, thấp hơn 5% so với
mục tiêu 20% và giảm gần 60% so với chỉ tiêu thực hiện bình quân 2004-
2010(35.17%)
Mức tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế 2012 ước đạt 5, 5%, giảm 68%
so với mục tiêu(15-17%), giảm 84.4% so với mức tăng trưởng Tín dụng thực hiện
bình quân 2004-2010 (35.17%); giảm 62%% so với thực hiện 2011.
Như vậy, kết quả thực hiện 2 năm liên tục thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề
ra, làm suy kiệt tín dụng, tác động bất lợi cho nền kinh tế và ảnh hưởng đến mục tiêu
tăng trưởng cho các năm sau.
3. Mục tiêu hoạt động
- Lãi suất liên ngân hàng
- Dự trữ của hệ thống NHTM
III. ĐIỀU HÀNH CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 2011- 2012
1. Công cụ lãi suất
Theo cơ chế điều hành lãi suất hiện nay, NHNN trực tiếp quyết định các mức
lãi suất như: Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất OMO,
trần lãi suất huy động ngắn hạn và trần lãi suất cho vay ngắn hạn thuộc 4 đối tượng ưu
tiên đối với nền kinh tế của các TCTD. Các TCTD được quy định lãi suất thỏa thuận
đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên; lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các

đối tượng khác ngoài 4 đối tượng ưu tiên;lãi suất cho vay trung dài hạn cho tất cả các
đối tượng khách hàng.
Cơ chế điều hành các loại lãi suất năm 2012 được điều chỉnh linh hoạt, hợp lý
và đồng bộ hơn so với 2011, phát huy được vai trò NHTW là người cho vay cuối cùng .

- Từ tháng 6/2011 đến nay, các lãi suất chủ chốt của NHNN được điều hành
theo cơ chế: “trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất chiết khấu, biên độ giao
động +/- 2% để điều tiết thị trường, lãi suất cơ bản và lãi suất OMO được ấn định
biến động trong biên độ giữa lãi suất TCV(trần) và lãi suất TCK(sàn).
Các lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất huy động vốn của NHTM được điều
chỉnh giảm theo xu hướng giảm thấp của CPI (3/2012-10/2012),nguồn vốn huy động
10 tháng đầu năm 2012 tăng +14.2%, thanh khoản của hệ thống Ngân hàng được cải
thiện bằng nguồn vốn hút vào từ nền kinh tế chứ không phải từ nguồn tái cấp vốn như
năm 2011
5
=> Sự đổi mới cơ chế lãi suất nói trên đã khuyến khích các TCTD huy động
vốn từ nền kinh tế, hạn chế vay vốn từ NHNN, không còn cơ hội cho các TCTD lợi
dụng vay tái cấp vốn của NHNN để cho vay lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi
suất cao để hưởng chênh lệch lãi suất lớn
- Lãi suất huy động và cho vay của TCTD 2012 giảm hơn nhiều so với 2011
So với cuối năm 2011, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng giảm được
6%/năm(14%/năm xuống 8%/năm), lãi suất cho vay đối với 4 lĩnh vực ưu tiên: nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ giảm
được 4%-5%/năm (16-17%/năm xuống 12%/năm). Lãi suất cho vay lĩnh vực sản
xuất kinh doanh khác ở mức 14-17%/năm. Đặc biệt, lãi suất liên ngân hàng giảm
mạnh 8-9%/năm so với đầu năm 2012, thị trường tiền tệ đã có sự cải thiện tích cực
hơn nhiều so với năm 2011
=> Đây là quyết định đúng đắn, kịp thời;tác động tích cực đến giảm chi phí
vay vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng.
- Cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với lãi suất huy động vốn trên 12 tháng và lãi

suất cho vay trung dài hạn là bước đi phù hợp, tạo điều kiện cho các NHTM hoạt
động kinh doanh theo nguyên tắc thương mại và thị trường.
Thông tư 19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012: “Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 12
tháng trở lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung cầu vốn thị trường”.Lãi suất cho vay
thỏa thuận được thực hiện từ 14/4/2010 theo Thông tư số 12/2010/TT-NHNN và
thông tư 14/2012/TT-NHNN từ ngày 4/5/2012. Đối với các khoản cho vay ngoài 4
lĩnh vực ưu tiên, TCTD cho vay theo lãi suất thỏa thuận.
- Trong suốt thời kỳ 2011-2012, NHNN quyết định trực tiếp các mức lãi suất
huy động cho vay của TCTD đối với khách hàng đối với từng kỳ hạn và đối tượng
khách hàng(trừ lãi suất huy động trên 12 tháng theo Thông tư 19/2012/TT-NHNN
ngày 8/6/2012 và lãi suất cho vay thỏa thuận theo Thông tư số 12/2010/TT-NHNN và
Thông tư 14/2012/TT-NHNN ngày 4/5/2012);Cơ chế này đã làm vô hiệu hóa các mức
lãi suất điều hành chủ chốt của NHNN( lãi suất TCV, lãi suất TCK)
Duy trì quá lâu cơ chế này làm cho các mức lãi suất kinh doanh của TCTD
không phù hợp với cung cầu vốn tín dụng trên thị trường. Cụ thể, khi muốn điều
chỉnh lãi suất kinh doanh của các TCTD đối với nền kinh tế, NHNN sẽ thực hiện
thông qua việc điều chỉnh các mức lãi suất TCV, lãi suất TCK đối với TCTD.Từ đó
tác động đến lãi suất thị trường liên ngân hàng.Cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh
doanh của các TCTD đối với khách hàng.Nếu NHNN trực tiếp quyết định cả mức lãi
suất cho vay và huy động vốn của các TCTD thì công cụ lãi suất điều hành của
NHNN sẽ không phát huy hết tác dụng.
- Lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam theo quy định pháp luật hiện hành là lãi
suất thực hiện vai trò định hướng thị trường tiền tệ, nhưng hiện nay chỉ mang tính
hình thức, không có cơ sở kinh tế và không liên quan đến bất kỳ quan hệ cung cầu vốn
6
trên các thị trường.Vì vậy nó chưa trở thành lãi suất cơ sở, chuẩn mực để định hướng
cho các loại lãi suất khác trên thị trường =>làm tăng rủi ro pháp lý trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ tín dụng và các quan hệ dân sự khi có phát sinh tố tụng.
- Vai trò đinh hướng và tác động của các loại lãi suất điều hành của NHNN
(lãi suất TCV,TCK,OMO) đến lãi suất thị trường rất hạn chế.Một trong những nguyên

nhân chủ yều là phương pháp xác định các loại lãi suất trên còn bất cập, không dựa
trên cơ sở lãi suất cơ bản là lãi suất chuẩn; cơ chế điều hành cụ thể các loại lãi suất
chưa được ban hành rõ ràng.
Khi quyết định các loại lãi suất trên chủ yếu dựa vào diễn biến số liệu báo cáo
thực hiện chỉ số CPI, thiếu các thông tin, phân tích dự báo thị trường về cung cầu, số
lượng giao dịch, lãi suất, Sự điều chỉnh các mức lãi suất chưa theo sát kịp với diễn
biến hàng tháng của chỉ số CPI cả về biên độ và xu hướng. Do đó các lãi suất được
điều hành không sát với cung cầu tiền tệ và lãi suất thực trên thị trường, hạn chế tác
dụng điều tiết của các công cụ lãi suất
Từ tháng 1/2011-4/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định
theo xu hướng giảm dần (14%/năm, 13%/năm, 12%/năm, 11%/năm) và lãi suất cho
vay thỏa thuận ở tất cả các đối tượng và kỳ hạn vay vốn của khách hàng.
Tháng 5/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động (11%/năm) và “trần”
lãi suất cho vay ngắn hạn theo biên độ (lãi suất cho vay = lãi suất huy động +
3%/năm) với 4 đối tượng cho vay ưu tiên, còn các đối tượng cho vay khác và cho vay
trung dài hạn đều lãi suất thỏa thuận.
Từ tháng 6/2012- nay, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định
(9%/năm) và “trần” lãi suất cho vay cố định(13%/năm) với 4 đối tượng ưu tiên còn
các đối tượng khác đều cho vay theo lãi suất thỏa thuận
Trong điều kiện kinh tế khó khăn, lợi nhuận của hầu hết các doanh nghiệp rất
khí có thể cao hơn lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD. Với cơ chế lãi suất cho
vay thỏa thuận các khách hàng tốt không dám vay vốn, còn các khách hàng chấp nhận
được lãi suất cao là những khách hàng đang thực sự khó khăn về tài chính, hoặc có
nhu cầu tài trợ cho những dự án có rủi ro rất cao.Vì vậy cơ chế lãi suất thỏa thuận chỉ
mang lại lợi ích trước mắt cho TCTD, nhưng lại tăng thêm các rủi ro do lựa chọn
khách hàng, rủi ro tín dụng, tăng nguy cơ tiềm ẩn nợ xấu, tạo ra một danh mục tài sản
có rủi ro cao.
=> Cố định mức lãi suất trần huy động vốn trong thời gian quá dài(trong suốt
12 tháng từ 3/2011-2/2012)trong khi CPI đã giảm mạnh và liên tục từ tháng 6/2011-
12/2011, làm tăng áp lực thanh khoản của hệ thống, tăng thêm các rủi ro kỳ hạn, rủi

ro thanh khoản, rủi ro đạo đức trong hệ thống Tài chính - Ngân hàng.
Phân tích diễn biến CPI và các mức lãi suất thời kỳ 2011-2012 có thể thấy:
đường biến thiên của các loại lãi suất và chỉ số CPI chỉ có 4 tháng là cùng xu
hướng(2/2012-6/2012)còn lại là lệch pha với biên độ chênh lệch quá lớn
7
Đồ thị 1: CPI và các loại lãi suất
Duy trì quá lâu cơ chế cố định “trần” lãi suất huy động và “thả nổi” lãi suất
cho vay thỏa thuận, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các TCTD đẩy lãi suất cho vay
lên tối đa, làm tăng rủi ro tài sản có và nợ xấu của cả hệ thống NHTM và các TCTD
khác.
2. Dự trữ bắt buộc
Cơ chế điều hành tỷ lệ DTBB theo Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng từ
ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng từ 01/2/2010
(đối với ngoại tệ), thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010. Theo cơ chế nói trên,
chính sách DTBB được căn cứ vào tính chất kỳ hạn tiền gửi (ngắn, trung, dài hạn),
loại tiền gửi (VND và ngoại tệ) và ưu tiên đối tượng cho vay nông nghiệp, nông thôn.
Từ năm 2009 -2012, tỷ lệ DTBB của các TCTD đối với tiền gửi VND cố định
3% và không thay đổi trong suốt quá trình lạm phát cao năm 2011 và xu hướng thiểu
phát 6 tháng đầu năm 2012. Công cụ tỷ lệ DTBB đã không phát huy tác dụng điều
chỉnh nguồn vốn thanh toán và cho vay của TCTD.Vì vậy làm hạn chế vai trò, tác
dụng của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay, lượng tiền cung
ứng và hệ số tạo tiền của hệ thống TCTD
3. Tái cấp vốn
- Công cụ TCV của NHNN đã phát huy được vai trò chủ đạo trong việc giải
quyết vấn đề rủi ro thanh khoản cho các NHTM trong thời gian qua. Tuy nhiên vẫn có
những hạn chế như công cụ TCV chưa đủ tiềm lực vốn và điều kiện để phát huy hiệu
quả, do nguồn vốn cho vay hạn hẹp, NHNN chỉ được cho vay tái cấp vốn trong một
giới hạn nhất định, nằm trong hạn mức tăng tổng phương tiện thanh toán M2 đã được
Chính phủ duyệt hàng năm; nhiều TCTD cần vay nhưng không đủ điều kiện được vay
TCV; một số TCTD đủ điều kiện vay vốn nhưng không có nhu cầu vay. Do đó, doanh

số cho vay và dư nợ tái cấp vốn đối với các TCTD không lớn; nên mức độ tác động
tới cung cầu vốn và các loại lãi suất trên thị trường hạn chế.
- NHNN đã ban hành được hệ thống các văn bản pháp lý đầy đủ và đồng bộ về
chính sách, cơ chế nghiệp vụ tái cấp vốn phù hợp với các quy định của pháp luật hiện
hành, làm cơ sở để điều hành của NHNN và thực hiện đối với các TCTD
2
.
- Trong điều kiện lạm phát đang bùng phát cao từ 1/2011- 2/2012, việc lựa
chọn sử dụng công cụ TCV tuy giải quyết được khó khăn thanh khoản cho một số
2
8
TCTD, nhưng làm tăng thêm tiền cung ứng trong lưu thông, nếu sử dụng công cụ này
để bơm vốn một cách thường xuyên sẽ gây áp lực thêm cho mục tiêu kiểm soát lạm
phát.
Công cụ TCV chỉ phát huy hiệu quả cao trong điều kiện lạm phát bình thường
và mục đích cho vay nhằm giải quyết khó khăn chi trả có tính chất tạm thời. Đối với
các trường hợp mất thanh khoản có nguyên nhân từ rủi ro cơ cấu kỳ hạn nguồn vốn và
chất lượng sử dụng tài sản thấp, nợ xấu cao như các TCTD nông thôn mới chuyển đổi
thành NHTM không phải là sự mất thanh khoản có tính tạm thời mà phải giải quyết
bằng biện pháp tái cơ cấu tài chính, tái cơ cấu tài sản nợ, tài sản có mới đúng bản chất
- Giai đoạn từ tháng 1/2011-3/2012, các lãi suất TCV dao động từ 7-15%/năm,
có những thời điểm
3
lãi suất cho vay thỏa thuận các ngân hàng vay nhau trên thị
trường liên ngân hàng 25-30%/năm, NHTM cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất
thỏa thuận 22-25% năm.Chênh lệch 2 loại lãi suất quá lớn sẽ tạo cơ hội cho một số
TCTD tìm mọi cách để vay tái chiết khấu NHNN có lợi hơn là huy động vốn từ nền
kinh tế để cho vay lại trên thị trường với lãi suất cao để hưởng chênh lệch lãi suất
hoặc là phát triển các hoạt động kinh doanh chênh lệch lãi suất khác dưới nhiều hình
thức đầu tư tiền gửi khác nhau làm bất ổn thêm thị trường tiền tệ.

4. Nghiệp vụ thị trường mở (OMO)
- Trong thời gian qua, nghiệp vụ OMO phát triển nhanh, quy mô ngày càng
được mở rộng, góp phần giải quyết khó khăn về nguồn vốn thanh toán và kinh doanh
cho các TCTD. Thông qua hoạt động mua bán GTCG, NHNN tác động trực tiếp đến
nguồn vốn khả dụng của các TCTD,từ đó điều tiết lượng tiền tệ cung ứng và tác động
gián tiếp đến lãi suất thị trường theo mục tiêu giảm lãi suất huy động và cho vay của
TCTD, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp.
Đánh giá một cách khách quan, trong năm 2012, NHNN điều hành nghiệp vụ
thị trường mở OMO chủ động, linh hoạt và hiệu quả hơn thời gian trước đó.
- Quy chế nghiệp vụ thị trường mở chậm được điều chỉnh, sửa đổi theo sự đổi
mới của môi trường pháp lý, tạo ra những rủi ro về pháp lý và kinh tế cho các TCTD.
- Cơ chế mua bán GTCG trên thị trường mở hiện hành chủ yếu là đấu thầu
khối lượng GTCG NHNN cần mua hoặc bán và lãi suất do NHNN thông báo. Các
mức lãi suất giao dịch thực tế phản ánh chưa chính xác quan hệ cung cầu vốn, không
khuyến khích cạnh tranh thực sự giữa các TCTD với mục tiêu hạ lãi suất thị trường.
Trong giai đoạn lạm phát rất thấp (từ tháng 3/2012-8/2012), lãi suất cho vay
đối với nền kinh tế còn quá cao so với CPI, các thành viên đủ điều kiện tham gia thị
trường mở là các NHTM lớn, thanh khoản đảm bảo, dư vốn khả dụng không cho vay
được, phương thức xét thầu khối lượng chưa phù hợp. Phương thức xét thầu khối
3
9
lượng nhằm mục đích hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho các thành viên tham gia
dự thầu đều trúng thầu, chỉ phù hợp với các TCTD nhỏ, khó khăn về thanh khoản. Tuy
nhiên đối với các NHTM nhỏ, yếu kém, thanh khoản khó khăn, không sở hữu nhiều
các GTCG, không đủ điều kiện thành viên để tham gia thị trường mở.
- Khối lượng giao dịch bị hạn chế trong mức cung tiền mục tiêu hàng năm và
khả năng, điều kiện tham gia thị trường mở của các TCTD, làm giảm hiệu quả điều
tiết, tác dụng của công cụ thị trường mở.
Trong năm 2011, lạm phát cao và NHNN thực hiện, chính sách tiền tệ thắt chặt,
do đó, các công cụ thị trường mở phải nhằm mục đích hút tiền về. Tuy nhiên, các

TCTD đang khó khăn thanh khoản và thiếu vốn để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tín
dụng, nên biện pháp hút tiền về qua OMO không thực hiện được.
Trong 2012, lạm phát giảm xuống nhanh dưới một con số, tăng trưởng tín
dụng quá thấp so với mục tiêu, công cụ thị trường mở phải nhằm mục tiêu bơm tiền ra
để hạ lãi suất, kích thích tăng trưởng tín dụng, nhưng lại mâu thuẫn với khả năng hấp
thụ vốn của doanh nghiệp rất thấp, các TCTD thừa tiền không cho vay được.
5. Kiểm soát hạn mức tín dụng
- Năm 2011, NHNN đưa ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng chung cho toàn hệ
thống các TCTD, không phân bổ hạn mức theo từng TCTD.
- Năm 2012 là lần đầu tiên NHNN quyết định phân bổ hạn mức tín dụng cho
từng NHTM theo các tiêu chí: chất lượng tài sản nợ, tài sản có, quy mô vốn, năng
lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro, chất lượng nhân lực và tuân thủ các quy
định.Theo đó, các nhóm được phân loại bởi NHNN được áp dụng các hạn mức như
sau: Nhóm thứ 1tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 17%; nhóm thứ 2 tăng trưởng tín
dụng ở mức tối đa 15%; nhóm 3 được tăng trưởng 8%; nhóm 4 thuộc diện phải cơ cấu
lại, không được tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên,trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay,
các tiêu chí và phương pháp đánh giá, xếp hạng tín nhiệm các TCTD còn rất nhiều
bất cập, chưa đảm bảo chính xác.
- Đến tháng 6/2012, tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng tăng 1, 51%
so với cuối năm 2011 (kế hoach năm 2012 là 12%), Tính đến thời điểm hiện tại,
NHNN đã cho phép tăng chỉ tiêu đối với 10 TCTD có tính hình tài chính lành mạnh,
đã có tăng trưởng tín dụng đạt trên 50% chỉ tiêu thông báo của NHNN từ đầu năm.
=> Công cụ hạn mức tín dụng mà NHNN đưa ra trong 2012 đã phát huy tác
động tích cực thúc đẩy các TCTD đổi mới và tái cơ cấu hoạt động,phấn đấu nâng cao
chất lượng, hiệu quả và các chỉ số an toàn hoạt động để được xếp hạng tín nhiệm cao
và có được hạn mức tín dụng cao.
- Tuy nhiên,thời điểm áp dụng công cụ hạn mức tín dụng chưa phù hợp với
giai đoạn suy kiệt tín dụng và giảm tổng cầu của nền kinh tế, nên công cụ hạn mức
tín dụng không phát huy được tác dụng với nhiều TCTD.
10

+ Trong cả năm 2011, dư nợ tín dụng tăng trưởng 14%, bằng 70% mục tiêu đề
ra( 20%) và giảm -56% so với mức tăng trưởng của 2010( 31.19%).
Từ tháng 3/2011-7/2012,CPI giảm liên tục xuống mức âm theo các
tháng(0.16;0.05;0.18;-0.26;-0.29 ), CPI cả năm 2012 tăng rất thấp, ước 7%.
+ Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế 2012 ước tăng +5.5%, đạt hơn 30% so với
mục tiêu(+15% -17%/năm) và chỉ bằng 39% mức tăng trưởng tín dụng 2011.
Trong 2012 tổng cầu của nền kinh tế đang trong suy giảm, nền kinh tế không
hấp thu được tín dụng, tổng phương tiện thanh toán đang giảm thấp, công cụ hạn mức
tín dụng trở nên vô tác dụng.
=> Công cụ này chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.
IV. ĐÁNH GIÁ CSTT 2011 - 2012
1. Những kết quả tích cực:
-
Những chủ trương định hướng và quan điểm chỉ đạo điều hành về CSTT thể
hiện trong các Nghị quyết 11/2011/NQ-CP, NQ 01/2012/NQ-CP và NQ 13/2012/NQ-
CP là sự điều chỉnh đúng hướng, phù hợp với yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng, sự diễn biến của kinh tế vĩ mô và thị trường.
- Giữ

được hệ thống TCTD không bị đổ vỡ, kiềm chế lạm phát từ mức rất cao
18.13% năm 2011 xuống ở mức khoảng 7% cuối 2012
- Tỷ giá ổn định;dự trữ ngoại hối được tăng lên, cán cân thanh toán được cải
thiện;thị trường vàng được kiểm soát chặt chẽ hơn.
-Chính

sách tiền tệ và chính sách tài khóa ngày càng có sự kết hợp đồng bộ
hơn, hiệu quả hơn đối với những thời kỳ trước đây.
-Tỷ


trọng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế được điều chỉnh theo hướng hợp lý
và tích cực hơn:giảm tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với các lĩnh vực đầu cơ bất động sản,
chứng khoán và tăng tỷ trọng tín dụng cho 4 lĩnh vực ưu tiên: sản xuất nông nghiệp,
nông thôn, xuất khẩu, sản xuất phụ trợ và doanh nghiệp vừa và nhỏ;
- Hoạt

động trên thị trường liên ngân hàng và OMO có những bước phát triển
mới, tạo ra những chuyển biến tích cực hơn trên thị trường tiền tệ. NHNN đã chủ
động hơn trong việc thu thập các thông tin về lãi suất và khối lượng giao dịch trên thị
trường tiền tệ để sử dụng các công cụ phù hợp điều tiết cung cầu vốn trên thị trường.
2. Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu xử lý và hoàn thiện
- Luật NHNN 2010 đã quy định mục tiêu duy nhất của CSTT là ổn định giá trị
đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, nhưng trong các văn bản chỉ đạo, điều
11
hành CSTT thể hiện phải đồng thời thực hiện nhiều mục tiêu có mức ưu tiên như nhau
như: mức cung tiền M2, tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo
an toàn hệ thống các TCTD.Do đó các giải pháp và công cụ điều hành CSTT nhiều
khi phải ưu tiên giải quyết các mục tiêu trước mắt nhằm hỗ trợ tăng trưởng để ổn định
kinh tế vĩ mô, nên kết quả chưa đảm bảo được tính bền vững và mục tiêu trung dài
hạn.
- Mục tiêu kiểm soát lạm phát đã đạt được kết quả khi chỉ số lạm phát xuống
mức thấp dưới 1 con số nhưng kết quả chỉ mang tính thời điểm, chưa ổn định và bền
vững. Khả năng kiểm soát lạm phát theo mục tiêu còn nhiều thách thức và khó khăn
dài hạn.
- Những yếu tố và nguyên nhân cơ bản từ nội tại nền kinh tế làm cho lạm phát
bùng phát trở lại vẫn chưa được giải quyết; nguồn lực tài chính của Nhà nước chưa đủ
mạnh để can thiệp điều chỉnh có hiệu quả quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ.
- Công cụ lãi suất còn một số bất cập về phương pháp xác định các cơ chế điều
hành.Lãi suất huy động và cho vay của các TCTD mang nặng tính hành chính, nhiều
khi chưa sát với CPI và chưa điều chỉnh kịp thời với quan hệ cung cầu vốn trên thị

trường.
- Lãi suất tín dụng tuy đã giảm nhiều so với 2011 nhưng vẫn còn ở mức cao
vượt quá khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Hệ thống chính sách và cơ chế tín
dụng chưa thực hiện được chức năng phân bổ vốn tín dụng cho khu vực hiệu quả,
chưa giải quyết được tình trạng “suy kiệt tín dụng”, tác động tiêu cực đến phát triển
trung dài hạn của nền kinh tế.
- Năm 2011 lạm phát mục tiêu đề ra <7 %/năm, thấp hơn nhiều so với mức lạm
phát thực tế bình quân của 3 năm trước đó 2008-2010 (12.73%). Điều này cho thấy kỳ
vọng quá cao của chính phủ, muốn ổn định nhanh kinh tế vĩ mô. Do vậy, NHNN bắt
buộc phải cắt giảm cung tiền và giảm tăng trưởng tín dụng đột ngột, vượt quá khả
năng điều chỉnh thích ứng của nền kinh tế; làm phát sinh thêm những khó khăn chưa
từng có đối với SXKD, suy giảm tín dụng, đóng băng và sụt giá tài sản trên thị trường
bất động sản và chứng khoán, tăng bất ổn hệ thống tài chính tiền tệ vốn đã ốm yếu.
12
V. PHỤ LỤC:
Nguồn: Ngân hàng nhà nước và Tổng cục thống kê
Bảng 3: CPI và các loại lãi suất giai đoạn từ tháng 1/2011- 10/2012
Đơn vị: %/tháng
Thời
gian
CPI
Lãi suất
huy động
Lãi suất
Tái cấp
vốn
Lãi suất
tái chiết
khấu
Lãi suất

cho vay
qua đêm
Lãi
suất
OMO
Lãi suất
cơ bản
1/2011 1.74 1.13 0.75 0.58 0.75 0.92 0.75
2/2011 2.13 1.13 0.92 0.58 0.92 0.92 0.75
3/2011 2.25 1.17 1.00 1.00 1.00 0.92 0.75
4/2011 3.53 1.17 1.08 1.00 1.08 1.00 0.75
5/2011 2.43 1.17 1.17 1.08 1.17 1.17 0.75
6/2011 1.22 1.17 1.25 1.08 1.33 1.17 0.75
7/2011 1.32 1.17 1.25 1.08 1.33 1.17 0.75
8/2011 1.07 1.17 1.25 1.08 1.33 1.17 0.75
9/2011 0.95 1.17 1.25 1.08 1.33 1.17 0.75
10/2011 0.42 1.17 1.25 1.08 1.33 1.17 0.75
11/2011 0.45 1.17 1.25 1.08 1.33 1.17 0.75
12/2011 0.63 1.17 1.25 1.08 1.33 1.17 0.75
1/2012 1.00 1.17 1.25 1.08 1.33 1.17 0.75
2/2012 1.37 1.17 1.25 1.08 1.33 1.17 0.75
3/2012 0.16 1.08 1.17 1.00 1.25 1.08 0.75
4/2012 0.05 1.00 1.08 0.92 1.17 0.83 0.75
5/2012 0.18 0.92 1.00 0.83 1.08 0.83 0.75
6/2012 -0.26 0.75 0.92 0.75 1.00 0.67 0.75
7/2012 -0.29 0.75 0.83 0.67 0.92 0.67 0.75
8/2012 0.63 0.75 0.83 0.67 0.92 0.67 0.75
9/2012 2.20 0.75 0.83 0.67 0.92 0.67 0.75
10/2012 0.85 0.75 0.83 0.67 0.92 0.67 0.75
11/2012 0.47 0.75 0.83 0.67 0.92 0.67 0.75

13
Bảng 4: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc VND 2009-2012
Thời gian
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc VND ( không thay đổi từ 24/2/2009)
Kỳ hạn dưới 12 tháng
(%/năm) Kỳ hạn trên 12 tháng (%/năm)
Các NH
bình
thường
NH Nông
nghiệp và
PTNT
NH
chính
sách
Các NH
bình
thường
NH Nông
nghiệp và
PTNT
NH
chính
sách
1/2011 3 1 0 1 1 0
2/2011 3 1 0 1 1 0
3/2011 3 1 0 1 1 0
4/2011 3 1 0 1 1 0
5/2011 3 1 0 1 1 0
6/2011 3 1 0 1 1 0

7/2011 3 1 0 1 1 0
8/2011 3 1 0 1 1 0
9/2011 3 1 0 1 1 0
10/2011 3 1 0 1 1 0
11/2011 3 1 0 1 1 0
12/2011 3 1 0 1 1 0
1/2012 3 1 0 1 1 0
2/2012 3 1 0 1 1 0
3/2012 3 1 0 1 1 0
4/2012 3 1 0 1 1 0
5/2012 3 1 0 1 1 0
6/2012 3 1 0 1 1 0
7/2012 3 1 0 1 1 0
8/2012 3 1 0 1 1 0
9/2012 3 1 0 1 1 0
10/2012 3 1 0 1 1 0
11/2012 3 1 0 1 1 0
Đồ thị 2: CPI và lãi suất huy động
14
Nhìn vào đồ thị dễ thấy: đường lãi suất gần như đi ngang trong khi đường CPI
biến động lên xuống hình sin với biên độ rất lớn và chu kỳ dài.
Hậu quả của cơ chế điều hành này đã gây thiệt hại cho người gửi tiền(7 tháng
liên tục lãi suất tiền gửi ở mức thực âm); các NHTM phá rào trần lãi suất huy động
vốn bằng mọi cách (hoa hồng, chi tiền mặt ngoài sổ sách, nhận ủy thác đầu tư trá
hình, ) thanh khoản căng thẳng, thị trường tiền tệ, thị trường liên Ngân hàng đua
nhau cạnh tranh lãi suất “ngầm”.
Trong suốt 12 tháng liên tục từ tháng 3/2011-2/2012, mức lãi suất “trần” huy
động vốn của các TCTD vẫn cố định 1,17%/tháng (14%/năm).Trong khi CPI biến
động liên tục hàng tháng với biên độ lớn và xu thế giảm rõ rệt lần lượt
là:2.25%;3.53%;2.43%;1.22%;1.32%;1.07%;0.95%;0.42%;0.45%;0.63%;1.00%;

1.37%. Kết quả là rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản của các TCTD tăng lên do tiền gửi
huy động được của các NHTM chủ yếu là không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn 1-2
tháng, tiền gửi từ 3 -12 tháng chiểm tỷ lệ rất ít;tiền gửi trung dài hạn trên 12 tháng
không thể huy động được.
Đồ thị 3: CPI và lãi suất tái cấp vốn
Đồ thị 4: CPI và lãi suất tái chiết khấu
Đồ thị 5: CPI và lãi suất OMO
15
Đồ thị 6: CPI và lãi suất qua đêm
HẾT
16

×