HỆ TIÊU HÓA
I. ĐẠI CƯƠNG
Ống tiêu hóa gồm 3 phần có nguồn gốc khác nhau: phần trước ( khoang miệng,
thực quản, dạ dày ) có nguồn gốc nội bì chức năng lấy, nghiền, chuyển thức ăn. Phần giữa
là ruột non( gồm các đoạn tá tràng, hồi tràng, gan , tụy) bắt nguồn từ nội bì, có chức năng
biến đổi hóa học và hấp thụ thức ăn. Phần cuối ( manh tràng, ruột già, trực tràng) có nguồn
gốc ngoại bì, chức năng thải các chất cặn bả.
Thành ống tiêu hóa có cấu tạo như sau :
1. Lớp niêm mạc ( tunica mucosa ) lót ở mặt trong của ống tiêu hóa
Ở mỗi phần của ống , thượng mô có hình dạng khác nhau . Ở miệng , thượng mô có
nhiều tầng . Ở dạ dày và ruột là thượng mô có một tầng . Hình thái của các tế bào thượng
mô cũng khác nhau . Ở ổ miệng là thượng mô dẹt , ở ruột non là thượng mô trụ để thích
ứng với các chức năng tương ứng .
2. Tấm dưới niêm mạc ( tele submucosa ) là tổ chức liên kết xơ , trong đó có các mạch
máu , các sợi thần kinh và các mạch bạch huyết .
Giữa lớp niêm mạc và tấm dưới niêm mạc là một lớp mỏng các sợi cơ trơn tạo thành
mảnh cơ niêm mạc ( lamina muscularis mucosae ) . Khi co rút , cơ niêm mạc có thể làm
cho lớp niêm mạc gấp lại thành các nếp .
Trong các tế bào thượng mô của niêm mạc còn có thượng mô biệt hóa thành các
tuyến tiết ra dịch tiêu hóa đổ vào lòng ruột qua các ống tiết . Có các tuyến đơn giản là
tuyến một tế bào , có các tuyến phức tạp hơn gồm có nhiều tế bào hoặc có phân nhánh
thành nhiều ống tuyến .
Các đám tổ chức lympho nằm trong lớp niêm mạc gồm một tổ chức lưới mà trong
các mắt lưới có tế bào lympho sinh sản tại chỗ . Ở một số nơi , tổ chức này hợp thành các
hạch gọi là nang thường nằm trong tấm dưới niêm mạc , hoặc các nang tụ lại thành đám
gọi là mảng tổ chức lympho ( có nhiều ở hồi tràng )
3. Lớp cơ trơn ( tunica muscularis ) chia thành hai tầng , tầng ngoài gồm các sợi cơ dọc và
tầng trong là các sợi cơ vòng . Trong phần trên của thực quản có các sợi cơ vân phù hợp
với chức năng co thắt thật nhanh ở phần trên của thực quản khi nuốt . Từ dạ dày đến ruột
non , tầng cơ vòng và cơ trơn là một lớp liên tục . Ở ruột già , các sợi cơ dọc tập trung
thành ba dải có thể nhìn thấy khi quan sát đại thể . Ngoài ra , trong dạ dày còn có lớp cơ
trơn thứ ba là lớp cơ chéo .
4. Tấm dưới thanh mạc (tela subserosa):
Là tổ chức liên kết thưa nằm giữa lớp cơ bên trong và lớp thanh mạc bên ngoài.
Nhờ lớp này mà có thể bóc thanh mạc dễ dàng ra khỏi các cấu trúc bên dưới.
5. Lớp thanh mạc (tunica serosa):
Tạo bởi thượng mô dẹt của phúc mạc. Mặt tự do của thanh mạc có chất thanh dịch
làm cho các tạng trượt lên nhau dễ dàng. Thanh mạc có hai phần: lá phủ thành ổ bụng gọi
là phúc mạc thành, lá phủ các tạng gọi là phúc mạc tạng.
II. CÁC THÀNH PHẦN CẤU TẠO
1. Khoang miệng ( cavum oris )
- Phía trước là tiền đình khoang có nhiều tuyến nước bọt , lớn nhất là tuyến mang tai.
- Tiếp theo là khoang miệng chính thức
- Giữa bờ tự do có tiểu thiệt . Hai bên tiểu thiệt là những nếp màn hầu với khối tuyến
hạnh nhân khẩu cái .
- Tiết nước bọt vào khoang miệng ngoài 3 đôi tuyến lớn là tuyến mang tai , tuyến dưới
hàm , tuyến dưới lưỡi , còn có các tuyến nhỏ rải rác ở vùng môi , phần mềm khẩu cái .
- Trong khoang miệng có răng và lưỡi.
1.1.Răng ( dentes ) :
- Có nguồn gốc ngoại bì và trung mô .
- Mỗi răng gồm vành răng , chân và cổ răng.
- Phần chủ yếu của răng cấu tạo giống xương gọi là ngà răng .
- Phủ ngoài ngà là thứ men cứng và chất xi – măng.
- Hàm răng của người bao gồm 3 loại răng:
+ Răng nanh dùng để xé thức ăn
+ Răng cửa dùng để cắt thức ăn
+ Răng hàm dùng để nghiền nát thức ăn
- Sau đây là cấu tạo của răng:
- Men răng là một lớp tinh thể canxi photphat rất bền và là chất cứng nhất do sinh giới tạo
ra. Men răng không có khả năng tái tạo. Men răng có thể bị ăn mòn bởi axit trong khoang
miệng, do đó cần phải đánh răng thường xuyên.
- Ngà răng là cấu trúc tương tự như xương, hình thành nên phần chính của răng nằm ở bên
trong. Có khả năng tái tạo nhưng rất hạn chế. Ngà răng đóng vai trò bảo vệ răng trong
trường hợp men răng bị nứt hoặc vỡ.
- Tủy răng nằm ở chính giữa của răng, chứa các mạch máu và dây thần kinh.
- Xi măng bao quanh chân răng giữ cho răng nằm đúng vị trí
- Giữa lớp xi măng với xương hàm có 1 lớp màng ngoài răng gồm những sợi collagen
ngắn giúp răng có thể xê dịch 1 chút trong hố răng, giúp giảm đi những tác động làm nứt
vỡ răng.
1.2. Lưỡi ( lingua ) :
- Có chức năng nhào trộn thức ăn ,
- Đó là khối cơ phủ ngoài bởi màng niêm mạc , giàu mạch máu , thần kinh , có cấu tạo
bạch huyết .
- Mặt dưới có hàm lưỡi phủ niêm mạc , hai bên hàm có cục lưỡi , trên có lỗ
mởcủa tuyến dưới hàm và dưới lưỡi .
- Mặt lưng nhám , có 5-6 loại nhú gai vị giác : chỉ, nấm, đài , nón ,lá
- Chúng có vị trí , hình dạng khác nhau
- Ngoài ra còn có hạch bạch huyết , tuyến nhày .
- Sau lưỡi có sụn thanh nhiệt
- Lưỡi có chức năng:
+ Nhào trộn thức ăn với nước bọt
+ Chuyển động thức ăn qua lại giúp nhai kỹ hơn
+ Chức năng vị giác. Chức năng này rất quan trọng vì giúp lựa chọn thức ăn và kích
thích tiết nước bọt.
+ Tham gia vào việc phát âm
+ Tham gia phản xạ nuốt
2. Hầu :
Phần trên và rộng hơn của hầu được cho là cứng nhắc do các xương của sọ, trong
khi ở đầu dưới và hẹp các cơ của nó được nối với các sụn đàn hồi của thanh quản. Lớp mô
ngoài cùng của hầu, liên kết với lớp lót của miệng, chứa đựng nhiều tuyến dịch nhầy, các
tuyến này giúp giữ cho miệng và họng trơn tốt trong khi ăn và nói.
Về mặt giải phẫu học, hầu được chia thành ba phần theo vị trí và nhiệm vụ của
chúng, mỗi phần được thiết kế để thực hiện. Phần trên cùng, mũi hầu, đặt tên từ thực tế là
nó nằm ở trên mức của vòng mềm và tạo thành mặt sau của mũi. Phía dưới, mũi hầu tiếp
giáp với chính vòm mềm, sự chuyển động hướng lên của vòm miệng này đóng kín mũi hầu
khi bạn nuốt để ngăn ngừa thức ăn bị ép lên và ra ngoài mũi. Kết quả khó chịu về sự phối
hợp của cơ cấu này thỉnh thoảng cảm thấy khi bạn hắt hơi.
Trong vòm mũi hầu là hai khóm mô đặc biệt dễ thấy ở trẻ em, được gọi là hạch hạnh
nhân hầu. Mũi hầu còn bao gồm cả hai đầu, một lối vào đến vòi Eustache, đường đi giữa
tai và họng. Điều này có thể gây ra những vấn đề như các vi sinh vật gây bệnh của miệng,
mũi và họng có cơ hội dễ dàng tiếp cận tai và thường gây ra nhiễm trùng tai giữa.
Phần hầu ở phía sau miệng - miệng hầu, là phần đường khí giữa miệng và phổi. Cơ
động hơn mũi hầu rất nhiều, các hoạt động ép nén cơ của miệng hầu giúp uốn nắn các âm
thanh lời nói khi chúng đến từ thanh quản. Cùng với sự trợ giúp của lưỡi, các cơ này cũng
giúp đẩy các thức ăn xuống phía lối vào thực quản. Hai cơ quan quan trọng nhất tại miệng
hầu là amiđan nổi tiếng, hai gò má mô thường liên can đến bệnh đau họng phổ biến ở trẻ
em.
Phần thấp nhất hay phần thanh quản thuộc hầu, có liên quan toàn bộ đén sự nuốt.
Gọi là thanh hầu. Các chuyển động của hâu phải được phối hợp để đảm bảo các khí hô hấp
kết thúc trong phổi và thực phẩm chấm dứt trong thực quản.
3. Th ực qu ản :
Phần cao nhất của thực quản nằm ngay phía sau của khí quản. Ngay bên dưới khía
hình V ở phía trên ngực, ống hơi cong về bên trái và đi sau phía sau phế quản. Sau đó, nó
chiu qua cơ hoành và nối liền với đầu trên của bao tử.
Thực quản là một ống đàn hồi dài khoảng 25cm và đường kính khoảng 2,5cm.
Giống phần còn lại của đường tiêu hoá, thực quản được cấu tạo bằng bốn lớp - một lớp lót
màng nhầy làm cho thực phẩm có thể đi xuống dễ dàng, một lớp hạ niêm để giữ ống đúng
vị trí, một lớp cơ tương đối dày bao gồm các sợi cơ vòng lẫn sợi dọc và cuối cùng một lớp
bao phủ bảo vệ bên ngoài.
Không có cơ thắt rõ ràng phân chia thức quản với bao tử, các dịch vị thường được
giữ đúng chỗ do sự phối hợp của lớp lót cơ trong các thành thực quản và thực tế là thực
quản hình ống bị nó chặt khi nó chui qua cơ hoành trên đường từ ngực đến bụng. Khi cơ
cấu này không tương xứng, lúc đó sự hồi lưu sẽ xảy ra.
4. D ạ d ày :
4.1. Cấu tạo của dạ dày
Dạ dày là phần phình lớn nhất của ống tiêu hoá, nằm trong khoang bụng. Thành dạ
dày được cấu tạo bởi 3 lớp cơ trơn: lớp cơ dọc ở ngoài, cơ vòng ở giữa và cơ chéo ở trong.
Bên trong thành là lớp niêm mạc dạ dày có rất nhiều nếp nhăn. Giữa lớp cơ trơn với lớp
niêm mạc có đám rối thần kinh Meissner và Auerbach.
- Dạ dày được chia làm 3 phần: phần tâm vị thông với thực quản, phần môn vị nối với tá
tràng qua lỗ môn vị và phần thân. Phần thân dạ dày có khả năng đàn hồi lớn giúp tăng sức
chứa thức ăn của dạ dày. Lớp niêm mạc dạ dày là nơi tiết dịch vị.
- Ở dạ dày pH vào khoảng 2.
4.2. Các cử động cơ học ở dạ dày
a) Sự đóng mở môn vị và tâm vị
- Tâm vị không có cơ vòng thắt như môn vị mà chỉ được đóng mở nhờ sự dày lên
hay xẹp xuống của lớp niêm mạc và cơ hoành xung quanh, do đó không đóng chặt như
môn vị. Khi thức ăn chuyển đến cuối thực quản, tâm vị sẽ mở theo phản xạ, thức ăn được
dồn xuống dạ dày. Tại đó thức ăn sẽ làm trung hoà bớt độ axit của dạ dày, pH tăng, tâm vị
đóng lại. Khi pH trở về bình thường, tâm vị lại mở ra. Sự đóng tâm vị giúp thức ăn không
bị trào ngược trở lại.
- Ngược với tâm vị, môn vị đóng lại khi pH giảm. Mỗi nhịp co bóp của dạ dày sẽ
gây áp lực làm mở môn vị và 1 lượng thức ăn được đẩy xuống tá tràng. Thức ăn được đẩy
xuống có độ pH thấp hơn so với tá tràng, làm cho pH giảm và môn vị đóng lại cho đến khi
pH ở tá tràng trở về ổn định. Sự đóng môn vị giúp thức ăn được đi xuống ruột non theo
từng đợt một và do đó sự tiêu hoá khói thức ăn ở ruột non được diễn ra tốt hơn là toàn bộ
được đẩy xuống ruột non.
b) Sự co bóp ở phần thân
- Lúc dạ dày trống rỗng, các đợt co bóp yếu và thưa nhưng cảm giác đói tăng dần
gây tăng nhịp co bóp và cường độ co bóp dẫn đến co bóp đói.
- Cử đông nhu động theo chiều từ trên xuống dưới giúp thức ăn được chuyển đông
từ dưới lên trên sát theo thành dạ dày, do đó dễ thấm dịch vị. Độ axit của dịch vị càng tăng,
co bóp càng mạnh. Ở phần thân dưới của dạ dày co bóp diễn ra mạnh, thức ăn được nghiền