Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Năng lượng hạt nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.29 KB, 9 trang )

Năng lượng hạt nhân & Lý thuyết “phân tích
rủi ro”

Vietsciences-Phạm Việt Hưng 25/05/2010


Những bài cùng tác giả


S
au vụ nổ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl năm 1986, ngành năng lượng hạt nhân
đã mất uy tín nghiêm trọng. Nhưng trong bối cảnh “đói” năng lượng hiện nay, ngành
công nghệ này đang có dấu hiệu hồi sinh, nhờ được trấn an bởi một niềm tin cơ bản cho
rằng công nghệ ngày nay đã tiến bộ hơn, đảm bảo an toàn hơn, và khoa học đã cho ra đời
một lý thuyết mới được gọi là “Phân tích rủi ro theo xác suất” (Probabilistic Risk
Analysis) cho phép “lường trước” mọi rủi ro liên quan tới những hệ thống công nghệ
phức tạp như hệ thống đường hàng không hay nhà máy điện hạt nhân, v.v.

Nhưng khái niệm tối thiểu về xác suất dạy chúng ta rằng xác suất chỉ là một khả
năng dự đoán, thay vì một thực tế đã hoặc sẽ xẩy ra. Thực tế chỉ biểu lộ một kết quả ăn
khớp với xác suất dự đoán khi số phép thử tăng lên vô hạn – sự kiện diễn ra trong mỗi
phép thử là hoàn toàn ngẫu nhiên, không thể đoán trước được. Điều đó có nghĩa là xét
cho cùng, một dự đoán về một sự cố thực tế vẫn là một trò chơi may rủi. Đó chính là lý
do làm nên cái hấp dẫn của cờ bạc, nhưng lại chẳng hấp dẫn chút nào đối với những
quyết định có thể ảnh hưởng tới vận mạng của hàng chục ngàn hoặc hàng triệu người,
thậm chí của toàn nhân loại. Vậy hãy lắng nghe ý kiến của các chuyên gia về vấn đề này.
1* Về lý thuyết “phân tích rủi ro”:
Dường như nhận thấy có nhiều nhà khoa học đang lạc quan tếu với thành
tựu của lý thuyết phân tích rủi ro nên tiến sĩ vật lý lý thuyết David Peat
đã viết trong một cuốn sách của ông những dòng sau đây:
“Các nhà toán học và kỹ sư đã sáng tạo nên một ngành mới của khoa học được


gọi là “phân tích rủi ro”, cho phép tính được xác suất chẳng hạn của một tai nạn hạt nhân
xẩy ra trong một giai đoạn cụ thể nào đó, v.v. Giả sử các kỹ sư đã thiết kế được một cái
bơm cho phép chuyển nước làm lạnh tới một lò phản ứng nguyên tử. Từ rất nhiều thử
nghiệm được thực hiện trên những mẫu chế thử, họ đã có một đánh giá ước lượng rất tốt
về cuộc sống hiệu quả của cái bơm và xác suất để nó hỏng trong vòng chẳng hạn 12
tháng sắp tới. Để tăng cường an toàn, họ lắp đặt thêm một chiếc bơm thứ hai hoạt động
hoàn toàn độc lập với chiếc bơm thứ nhất. Mức độ rủi ro để một chiếc bơm bị hỏng vào
một ngày nào đó là khá nhỏ, nhưng mức độ rủi ro để cả hai chiếc bơm cùng hỏng một lúc
lại càng nhỏ hơn, đến mức gần như không thể xẩy ra. Tuy nhiên các kỹ sư vẫn có thể tính
được xác suất –mức độ rủi ro – vô cùng nhỏ đó. Nếu một chiếc bơm bị hỏng, một tín hiệu
báo động sẽ cảnh báo hệ điều hành, hoặc tác động vào một hệ thống computer để lập tức
thực hiện các biện pháp điều chỉnh khẩn cấp. Nhưng có nguy cơ hệ thống báo động cũng
bị hỏng nốt, do đó các kỹ sư lại phải tính xác suất để cả hai bơm hỏng cùng một lúc với
hệ thống báo động, bất chấp các kiểm tra an toàn hoạt động bình thường. Bằng cách này,
họ có thể tính được độ rủi ro của mọi trường hợp hỏng hóc trong một hệ thống xẩy ra
cùng một lúc, đồng thời yên chí rằng các hệ thống phục hồi sẵn sàng hoạt động. Họ cũng
nghiên cứu một loạt kịch bản “tồi tệ nhất có thể xẩy ra”, chẳng hạn như điều gì sẽ xẩy ra
nếu chẳng may một chiếc máy bay đâm sầm vào một nhà máy điện nguyên tử, để rồi thiết
kế những hệ thống đảm bảo không hỏng hóc sẽ tự động hoạt động khi những thảm hoạ
tiềm tàng xẩy ra. Kết quả cuối cùng của những tính toán này nói với chúng ta rằng nguy
cơ hỏng hóc tại một nhà máy điện hạt nhân là có, mặc dù nhỏ. Phân tích rủi ro được áp
dụng cho vô số tình huống, chẳng hạn trường hợp mất kiểm soát trong một máy bay phản
lực chở hành khách, khả năng hai tầu hoả đâm sầm vào nhau trong một hệ thống đường
ngầm, những virus chết người lọt khỏi phòng thí nghiệm, chất liệu biến đối gien ngẫu
nhiên được thải ra môi trường, v.v. Vì lý thuyết phân tích rủi ro chứa đựng nhiều phân
tích tính toán và kết quả cuối cùng của nó là một dãy số thông báo mức độ rủi ro, nên
trông nó có vẻ rất “khoa học”, và do đó nó dễ ru ngủ chúng ta, làm chúng ta yên chí rằng
mọi việc đều có thể lường trước được. Dường như khoa học đã dùng cái xác định để tạo
nên một hàng rào vây quanh cái ngẫu nhiên và may rủi. Nhưng đừng bao giờ nên quên
rằng luôn luôn tồn tại hai lĩnh vực quan trọng của cái bất định. Một là những nghiên cứu

làm cơ sở cho lý thuyết rủi ro, đó là việc lường trước những hỏng hóc và tai nạn có thể
xẩy ra. Trên thực tế, điều này có nghĩa là mọi thứ mà một kỹ sư có thể tưởng tượng ra sẽ
có một lúc nào đó hỏng hóc. Và sẽ có những yếu tố không được xem xét, đó là những yếu
tố bị bỏ lỡ hoặc những sự vật bị bỏ qua (Thật mỉa mai và bi kịch rằng những dòng này
được viết ra trước khi xẩy ra cuộc tấn công khủng bố ngày 11-09-2001, phá huỷ toà tháp
đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới tại New York. Lý thuyết phân tích rủi ro có thể rất
hay ho khi đưa ra được một ước tính định lượng đối với xác suất của một sự kiện có thể
thấy trước (dù xác suất đó rất nhỏ), nhưng sẽ không bao giờ có thể “dự đoán được cái
không thể dự đoán được”. Chắc chắn là các kiến trúc sư thiết kế toà nhà đã xem xét khả
năng cháy trong toà tháp và thậm chí đã tính tới khả năng bị huỷ hoại bởi sự va đập của
một chiếc máy bay hạng nhẹ. Khung thép đã được bảo vệ bằng một loại sơn phủ đặc biệt
cho phép chịu đựng được nhiệt độ cao qua một khoảng thời gian nhất định mà thép vẫn
không bị mất độ cứng. Cái không được tính đến trong trường hợp này là hậu quả của một
va chạm bởi một chiếc máy bay khổng lồ chứa đầy xăng dầu). Lĩnh vực bất định thứ hai,
nghiêm trọng hơn, là ở chỗ những hệ có độ rủi ro thấp chỉ hoạt động chính xác trong điều
kiện hạ tầng cơ sở hoạt động tốt và được đầu tư tốt. Giả sử một công ty hàng không hoặc
những nhà lãnh đạo của một nhà máy điện hạt nhân có uy tín rất cao và không hề có
những khiếm khuyết nghiêm trọng, mọi chuyện đều tiến triển êm ả. Nhưng điều gì sẽ xẩy
ra nếu các nhà điều hành phải làm việc quá sức hoặc được trả lương không thích đáng?
Đây là những điều kiện có thể dẫn tới những sai lầm lớn. Trong mọi tình huống, bất kể đã
lắp đặt bao nhiêu hệ thống tự động đảm bảo không hỏng hóc, yếu tố con người không bao
giờ có thể bị bỏ quên, và đó vẫn là một yếu tố không thể dự đoán được. Chẳng hạn hãy
xét trường hợp những người kiểm tra không lưu, đó là những “giây an toàn vô hình” mà
tất cả chúng ta đều phụ thuộc vào đó khi chúng ta đi máy bay. Kiểm tra không lưu an
toàn là môt vấn đề có tầm quan trọng sống còn, đặc biệt nhằm tránh va đụng khi máy bay
bay tiến gần tới sân bay hoặc vừa cất cánh khỏi sân bay. Những người kiểm tra không lưu
ở London đã phàn nàn về việc họ phải làm việc quá tải và chịu áp lực stress rất cao. Họ
cho rằng những va chạm máy bay nghiêm trọng có thể sẽ xẩy ra trừ khi điều kiện làm
việc của họ được cải thiện. Trong trường hợp này, lý thuyết phân tích rủi ro đã được áp
dụng, rất nhiều thành phần kỹ thuật đã được trù bị sẵn sàng và chúng làm việc tốt, nhưng

sự điều hành của con người đã trở thành khâu yếu nhất trong toàn bộ dây xích … Bất
chấp khả năng phát minh sáng chế và tổng số tri thức khoa học của chúng ta, việc kiểm
soát đối với thế giới xung quanh, khả năng lập kế hoạch và đoán trước các sự kiện thực ra
không vững chắc gì hơn những điều chúng ta nghi ngờ. Những công nghệ mới nẩy sinh,
những đột phá khoa học xẩy ra. Nhưng bên cạnh những ích lợi mà chúng ta gặt hái được,
vẫn luôn luôn tồn tại những rủi ro không thể thấy trước hoặc những hậu quả phụ không ai
có thể dự đoán … Phải chăng đây chỉ là chuyện thiếu suy nghĩ và sử dụng bừa bãi các
sản phẩm công nghệ? Phải chăng công nghệ là kẻ thù của chúng ta hay kẻ thù chính là
những suy nghĩ không được kiểm soát của con người? Nếu chúng ta không thể dự đoán
được tương lai thì ít nhất chúng ta cũng có thể nắm được một số khuynh hướng nhất định
và tự cảnh báo mình về những khó khăn đang nằm ở phía trước. Khi phải đối mặt với
những khó khăn đó, chúng ta sẽ không tự phụ về sức mạnh của chúng ta nữa. Có lẽ đây là
một bước tiến tích cực trong tư duy. Chúng ta phải chú ý tới những cảnh báo rằng tri thức
của chúng ta không phải là tối thượng. Không thể giải quyết mọi sự cố bằng những công
nghệ mới. Quả thật công nghệ đóng vai trò thiết yếu trong thế giới hiện đại, nhưng nó
phải được đặt đúng chỗ. Phải áp dụng công nghệ một cách thận trọng dựa trên những
hiểu biết sáng suốt khôn ngoan. Phải thừa nhận những giới hạn của chúng ta và cảnh giác
khi tiến lên phía trước. Chúng ta giống như những kẻ bị lạc vào một khu rừng tối và phải
dò dẫm tiến về phía trước, canh chừng các hầm bẫy, thăm dò khu vực xung quanh, và
đảm bảo sao cho những bước chân của chúng ta luôn luôn an toàn”
[1]
.

Điều đó có nghĩa là dù cho lý thuyết phân tích rủi ro khẳng định rằng xác suất nổ
nhà máy điện hạt nhân là cực kỳ nhỏ, điều đó vẫn có thể xẩy ra. Giáo sư Nguyễn Khắc
Nhẫn, một chuyên gia hàng đầu trong ngành năng lượng của Pháp, nói rất rõ điều này:
“Người ta thường nói xác suất rủi ro tai nạn của một lò Điện Hạt
Nhân rất thấp – trên 1 phần triệu (10
-6
). Đừng quên rằng Chernobyl và

Three Mile Island xảy ra lúc bấy giờ thế giới có dưới 300 lò. Mỗi tuần ở
Pháp xác xuất để trúng số độc đắc “loto” là trên một phần 14 triệu. Tuy
rất khó nhưng trung bình mỗi tuần vẫn có người trúng (lẽ cố nhiên số
người mua loto trên hàng triệu) … Công nghiệp ĐHN hết sức đồ sộ, đã
huy động hàng trăm tỷ US dollars, nhưng lại rất mỏng manh (fragile), dễ
đổ vỡ! Công nghiệp này sẽ gặp bế tắc, nếu rủi ro, một tai biến ĐHN xảy
ra bất cứ ở đâu trên thế giới. Làn mây phóng xạ sẽ làm dư luận hoang
mang”
[2]
.
Cái mỏng manh dễ vỡ ấy không phải do khoa học và công nghệ,
mà do chính sự tự phụ và bất cẩn của con người, cái mà David Peat coi là
một yếu tố bất định khó lường, và điều này cũng được nhà khoa học Đỗ
Quý Sơn thuộc Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam đề cập đến khi ông
nhắc lại thảm hoạ Chernobyl, nhân kỷ niệm 20 năm sự kiện đau thương
này
[3]
:
“Trước năm 1986 ít người bình thường nghĩ rằng có thể xảy ra sự
cố điện hạt nhân. Người ta tin vào khoa học, tin vào sự lắm chữ nghĩa và
tinh thần trách nhiệm hoàn hảo của các chuyên gia ngành khoa học cao
siêu này”. Những ai đã sống qua giai đoạn 1950 – 1970 sẽ thấy nhận định
này hoàn toàn chính xác. Thời ấy, khoa học đồng nghĩa với chân lý. Muốn
bác bỏ một chủ thuyết, người ta gán cho nó cái tính từ “phi-khoa-học”.
Nhưng thực chất thì sao? Đỗ Quý Sơn cho biết: “Nhưng Quy phạm An
toàn hạt nhân ở Liên Xô cũ không đảm bảo được rằng các lò phản ứng
được xây dựng buộc phải có yếu tố an toàn nội tại, phải ổn định ở các
vùng công suất khác nhau, phải tôn trọng nguyên tắc “phòng ngự chiều
sâu” để đề phòng tai nạn. Điều tệ hại nhất là ở Chernobyl không có hệ
thống nhà lò bảo vệ (containment), yếu tố quyết định của chiến lược

“phòng ngự chiều sâu”, để khi lò phản ứng bị vỡ, chất phóng xạ bị giam
giữ trong đó mà không thoát ra ngoài”. Nếu thảm hoạ Chernobyl không
xẩy ra, ai dám tin vào những sự thật khó tin như thế? Đỗ Quý Sơn nói
tiếp: “… các sai lầm thiết kế cũng chỉ đóng vai trò nguy cơ tiềm ẩn mà
thôi. Chính thói quen coi thường pháp luật của con người mới biến được
các nguy cơ ấy thành hiện thực … nguyên nhân chủ yếu của thảm hoạ
năm 1986 dường như không phải là trình độ yếu kém của công nghệ hạt
nhân lúc bấy giờ mà ở luật lệ và con người”.
Những rủi ro đó sẽ chẳng có gì đáng quan ngại nếu đó là chuyện cá
độ bóng đá. Nhưng không, đây là vấn đề số phận con người, số phận
nhân loại, mà Đỗ Quý Sơn đã buộc chúng ta phải trầm mình xuống để suy
ngẫm:
“Nhưng chẳng có gì chữa chạy được nỗi đau ly hương của hàng
chục vạn người đã buộc phải rời bỏ xóm làng thân thuộc. Cũng chẳng ai
trấn an được hàng triệu người, đã sống trong vùng tai nạn hoặc đã tham
gia khắc phục hậu quả, luôn khắc khoải về một ngày bất hạnh nào đó
bệnh tật sẽ phát tác trên cơ thể họ hoặc con cháu họ. Có người tự sát vì
tuyệt vọng. Nhiều cặp vợ chồng không dám sinh con vì sợ đứa trẻ ra đời
dị dạng. Còn niềm tin của nhân loại vào năng lượng hạt nhân thì chắc còn
lâu mới khôi phục được”.
2* Năng lượng hạt nhân, một lời thất hứa
[4]
:
Nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford là người sáng lập ra lý thuyết
nguyên tử hiện đại. Những nghiên cứu thấu đáo của ông về bản chất phóng xạ hồi đầu thế
kỷ 20 đã cho phép các nhà khoa học phân chia nguyên tử thành những thành phần nhỏ
hơn.
Ngày 16 tháng 9 năm 1954, Lewis Strauss, chủ tịch Uỷ Ban Năng Lượng Nguyên
Tử Mỹ, đã dõng dạc tuyên bố một cách tự tin trước đám thính giả bao gồm toàn những
tác giả viết sách khoa học tại New York rằng con em của họ trong tương lai sẽ được

hưởng một nguồn năng lượng điện “vô cùng rẻ”. Lời hứa về một năng lượng hạt nhân vô
hạn – một ý tưởng phân huỷ bom nguyên tử trong thời bình – nghe như một điệu nhạc
sướng tai về một thế giới đang ló rạng từ nỗi khắc khổ của chiến tranh. Nhưng sau nửa
thế kỷ, lời hứa đó đã không đáp ứng được lòng mong muốn, và năng lượng hạt nhân đã
đánh mất vẻ đẹp mỹ miều của nó bởi nỗi lo lắng về giá thành, về độ an toàn, và về những
bài toán nan giải nẩy sinh từ việc thu dọn đống rác thải. Trong những năm 1970, giá
thành quá cao của năng lượng điện do các trạm công suất hạt nhân sản xuất ra đã buộc
ngành phục vụ công cộng Mỹ phải huỷ bỏ 121 lò phản ứng đã được dự trù xây dựng. Rồi
đến năm 1979, một thảm hoạ may mà kịp ngăn chặn tại lò phản ứng Three Mile Island ở
Pennsylvania đã ghi một vết ố lên ấn tượng về năng lượng hạt nhân trong suốt một thập

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×