Ngày soạn: 5/7/2011
Ngày day: 7/2011
PHẦN I
TẬP LÀM VĂN
A. VĂN BẢN
THƠ HỒ CHÍ MINH VÀ NHẬT KÝ TRONG TÙ
I. Hoàn cảnh và lý do sáng tác Nhật ký trong tù
1. Hoàn cảnh
- Tháng 2/1941, Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, lúc
này tình hình trong nước và thế giới đã có những biến động dữ dội, hết sức khẩn trương,
Nhật đã đi vào Đông Dương, phát xít Đức và Nhật đang làm mưa làm gió, trên thế giới,
Liên Xô và các nước đồng minh đang có nhiều khó khăn
- Trong chuỗi ngày tù đầy gian khổ đó, HCM đã viết tập thơ « Nhật kí trong tù » bằng chữ
Hán bao gồm 133 bài, đa số theo thể thơ tứ tuyệt.
2. Lý do :
Trang mở đầu của tập thơ, Người đã nói rõ lý do sáng tác tập thơ :
« Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do »
- Suốt thời gian bị cầm tù, Bác bị cách biệt với thế giới bên ngoài, không thể làm chính trị
được trong khi công việc cách mạng đang khẩn trương bề bộn. Bác đành phải làm thơ để
tiêu thì giờ và vơi nỗi buồn, nỗi đau khổ của người tù cách mạng đang mong đợi tự do
cháy ruột.
- Tuy nhiên cần phải hiểu Bác là người rất yêu thơ và văn chương nghệ thuật nói chung.
Bác là người có tâm hồn nghệ sĩ và năng khiếu thơ ca bẩm sinh. Nếu không yêu thích thơ
thì vì sao để giải trí « cho khuây » trong những ngày tù đày, Bác lại làm thơ ?
- Song nhờ có năng khiếu làm thơ và tâm hồn thơ, Bác đã sáng tác rất nhiều và có nhiều
bài hay, có ý nghĩa sâu sắc.
============================
3. Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua những bài thơ trong « NKTT » đã học
* Lòng yêu nước cháy bỏng, đêm ngày khắc khoải, trằn trọc băn khoăn lo cho vận mệnh
đất nước (Không ngủ được), Ốm nặng)
* Chất thép phi thường của người chiến sĩ vĩ đại HCM, phong thái ung dung, tự chủ, luôn
làm chủ hoàn cảnh với tinh thần lạc quan chiến thắng (Ngắm trăng, đi đường, đáp thuyền
đi Ung Ninh)
* Tâm hồn nghệ sĩ luôn nhạy cảm với vẻ đẹp bình dị mà thi vị củ thiên nhiên (ngẳm trăng,
đáp thuyền )
Việt đoạn văn dùng phép nối và phép thế
: « Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh ». Một lần, vị cha già dân tộc lâm bệnh nặng
trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, phần vì thời tiết Trung hoa nóng lạnh thất thường, phần
chính vẫn là nỗi đau đất nước « nội thương đất việt cảnh lầm than ». Người lãnh tụ vĩ đại
của dân tộc ta còn là một tấm gương về nghị lực và bản lĩnh cách mạng phi thường. Chẳng
những người tù cách mạng ấy đã dũng cảm chịu đựng hoàn cảnh sống khác loài người
« vô vàn cực khổ » trong nhà tù tàn bạo mà còn vượt hẳn lên hoàn cảnh ấy với một thái độ
ung dung tàn bạo mà còn vượt hẳn lên hoàn cảnh ấy với một thái độ ung dung tự chủ, thể
hiện một tinh thần lạc quan chiến thắng. Chẳng thế mà trong cuộc giải lao trên đường núi
đầy gian lao, nhọc nhằn trắc trở : « núi cao rồi lại núi cao trập trùng », Bác hiện lên như
một chiến sĩ cách mạng trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông, với nét tiên
1
cốt xuất thần của một con người đã ung dung chiếm lĩnh được những « đỉnh cao của cuộc
sống ». Đó là cái « được » tuyệt vời của người chiến sĩ trên con đường CM gian nan mà
không phải ai cũng có được. « Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non » là tầm vóc, ý chí,
bản lĩnh, trí tuệ lớn của người anh hùng CM trong chốn tù đầy gian khổ. Một lần, bị giải đi
bằng thuyền hồn thi sĩ luôn nhạy cảm, tinh tế, luôn biết yêu và rung động với mọi cái đẹp
trong thiên nhiên và trong cuộc đời. Chẳng thế mà ngay trong chốn ngục tù, người tù thi sĩ
vẫn ung dung ngắm trăng qua song sắt nhà tù, giao cảm mênh mông với vầng trăng bè bạn
len lỏi tìm đến thăm Người.
- Phép thế : HCM- Bác Hồ- Bác- Người chiến sĩ cách mạng ấy- Vị cha già dân tộc-
=============================
BÀI 1 : NGẮM TRĂNG
Phân tích tác phẩm
Bác Hồ là người rất mực yêu thiên nhiên, khát khao hoà hợp với thiên nhiên, trong đó
trăng chiếm một địa vị xứng đáng trong tâm hồn Bác và thơ Bác. Có cả một chuỗi ngọc thơ
trăng Hồ Chí Minh mà bài nào cũng long lanh sáng đẹp : Cảnh khuya, Rằm tháng giêng,
Tin thắng trận, Đ trăng Trong lòng thi nhân luôn toả sáng một vầng trăng rực rỡ, một
nàng thơ trăng tri âm tri kỉ :
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
(Tin thắng trận)
- Gió khuya ngon giấc, bên song trăng nhòm
(Đối trăng)
- Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Rằm tháng giêng)
Chính vì thế, không chỉ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, khi Bác là người tự do đang
chèo lái con thuyền ả khi bị giam cầm đầy đoạ cực khổ trong nhà tù, trăng vẫn lấp lánh toả
sáng trong những vần thơ của Bác, như ánh sáng chiếu rọi từ tâm hồn lớn của người tù
cách mạng. Trong nhiều bài thơ như thế, « Ngắm trăng » được xem như là một bài thơ hay
nói về cuộc ngắm trăng thật đặc biệt của Bác- ngắm trăng trong nhà tù.
Vọng nguyệt
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia
1. Về đề tài ngắm trăng và phân tích hai câu đầu
- Vọng nguyệt (nhân xưa gặp cảnh trăng đẹp thường đem rượu ra uống trước hoa để
thưởng trăng ; như thế cuộc thưởng trăng mới mười phần mĩ mãn, thú vị.
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên
( Nguyễn Du – TK)
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
(Nguyễn Trãi)
Nói chung, người ta chỉ ngắm trăng trong hoàn cảnh thảnh thơi, tâm hồn thoải mái, thư
thái. Ở đây, Hồ Chí Minh ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biệt : trong nhà tù ! Người
ngắm trăng ở đây đang trong cảnh ngục tù. Bậc tao nhân mặc khách thưởng trăng đó đang
là một tù nhân bị đầy đoạ vô cùng cực khổ. Điều kiện sinh hoạt của nhà tù tàn bạo dã man
mà tù nhân phải sống cuộc sống « khác loài người ». Cuộc sống đó làm sao phù hợp với
2
việc « thưởng nguyêt", lấy đâu ra rượu và hoa để thưởng trăng. Nhưng câu thơ không
mang ý nghĩa phê phán chế độ nhà tù mà chủ yếu để nói về tâm trạng của Bác. Trước cảnh
đêm trăng đẹp, Người khao khát được thưởng trăng một cách trọn vẹn và lấy làm tiếc
không có rượu và hoa. Việc nhớ đến rượu và hoa trong cảnh ngục tù khắc nghiệt đã cho
thấy người tù ấy cảnh trăng đẹp.
Nhưng vì sao câu thơ thứ hai lại có một chút bối rối đọng lại trong ba chữ « nại
nhược hà » của nguyên tác ? « Nại nhược hà » là biết làm thế nào ?Cả câu thơ « đối thử
lương tiêu nại nhược hà là một tâm hồn nghệ sĩ đích thực nên mới bối rối vì « trong tù
không rượu cũng không hoa » để đón trăng bởi Người rất yêu trăng, và hơn thế nữa, còn
coi trăng như người bạn tri âm tri kỉ ? Đón một người bạn như thế mà không có rưọu và
hoa theo phong cách tao nhã của thi nhân muôn đời Phương Đông thì coi sao tiện ? Trong
tù, thiếu thốn mọi bề, làm sao có rưọu, có hoa được ? Người thừa biết điều ấy nhưng vẫn
nhắc đến trong câu thơ với hai lần nhấn mạnh chữ « không » như một lời tạ lỗi với trăng,
với người bạn tâm tình mà Người rất yêu quý và trân trọng. Đó là cái bối rối, băn khoăn
rất nghệ sĩ của nhà thơ Hồ Chí Minh mà không phải ai cũng có được như Bác- nhất là
trong hoàn cảnh thưởng trăng đặc biệt ở chốn ngục tù. Bởi chỉ có tâm hồn nghệ sĩ, biết yêu
thương, biết xúc cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên thì trước « cảnh đẹp đêm trăng trong tù
mới có niềm xúc động ấy, mới có nỗi băn khoăn ấy. Và ta hiểu, người nghệ sĩ ấy, sau này
trong hoàn cảnh tự do, lại thả hồn trong ánh « trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa » hay đắm
mình vào cảnh « khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền » Ở bài thơ này, bên cạnh cái
hiện thực trơ trụi của nhà tù thì niềm băn khoăn nghệ sĩ ấy càng bộc lộ một bản lĩnh vững
vàng của con người, bất chấp cái gian khổ của đời sống ngục tù để giữ nguyên vẹn một
tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, luôn biết yêu và rung động với mọi cái đẹp trong thiên nhiên và
trong cuộc đời.
2. Sau cái phút băn khoăn bối rối ban đầu là một mối giao hoà tuyệt đẹp giữa người với
trăng, giữa thi nhân với bạn tâm tình :
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
Đây là một mối giao hoà thầm lặng mà thiết tha sâu lắng biết bao giữa Người và trăng.
Rượu, hoa không có, chỉ có tấm lòng của đôi bạn tâm giao thu vào một chữ « ngắm » : họ
nhìn nhau đăm đắm chấn chính tấm lòng của họ đã chiến thắng cái song sắt nhà tù thô bạo
và ghê tởm kia. Tấm lòng ấy, sự chiến thắng ấy được thể hiện tài tình trong nghệ thuật đối
rất sáng tạo của câu thơ chữ Hán :
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia
Ở đây có đối giữa hai câu trên, dưới theo luật thơ Đường (nhân hướng>< nguyệt tòng ;
minh nguyệt>< thi gia) ; lại đối ở chữ đầu và cuối của mỗi câu thơ ( nhân- nguyệt , nguyệt
- thi gia) khiến thuật riêng. Hai câu thơ dịch làm mất đi cấu trúc đó, giảm đi phần nào sức
truyền cảm. Ngoài ra 2 từ « nhân », « ngắm » chưa cô đúc và nhất là chữ « nhòm » e chưa
được nhã.
Hình thức và cấu trúc câu thơ chữ Hán đã thể hiện mối giao hoà đặc biệt giữa người và
trăng. Hình thức và cấu trúc câu thơ đã hiện rõ cảnh ngắm trăng trong tù ; hai đầu là
Người và Trăng, giữa động tìm đến, giao hoà cùng nhau, ngắm nhau say đắm. Cấu trúc
đối của hai câu thơ chữ Hán làm nổi bật tình cảm song phương giữa người và trăng. Nghệ
thuật nhân hoá đã khiến trăng trở nên như con người, có gương mặt, có linh hồn, có ánh
mắt. Trăng trở thành người bạn tri âm tri kỉ của người tù khiến cho phút giao hoà thầm
lặng ấy thêm thấm thía. Hai câu thơ của Bác cho thấy trăng yêu người cũng ngang với
người yêu trăng. Không chỉ Người hướng tới cái đẹp của trăng mà mà trăng cũng phát
hiện ra cái đẹp ở cõi Người, thấy ở người tù một nhà thơ. Phút giao cảm ấy khiến mọi đau
3
thương, gian khổ, tăm tối của cuộc sống ngục tù, cả cái song sắt nhà tù kia như biến mất,
tâm hồn con người trở nên thanh thản, nhẹ nhõm, thăng hoa :tù nhân thoắt biến thi nhân.
Không còn tù sức sống của con người là vô hạn. Bởi thế, « ngắm trăng » không chỉ là bài
thơ nói lên lòng yêu thiên nhiên, yêu trăng của Bác, mà còn cho thấy một cuộc vượt ngục
về tinh thần của người tù cách mạng HCM. Và trong chốn ngục tù, Người hướng đến ánh
trăng sáng phải chăng cũng là hướng tới tự do như nỗi khát khao cháy bỏng của Người :
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu
Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên đặc biệt sâu sắc mạnh mẽ, một biểu hiện nổi bật
của tâm hồn nghệ sĩ ở Bác Hồ, vừa cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ
vĩ đại đó. Đằng sau về những cùm xích, đói rét, muỗi rệp, ghẻ lở của chế độ nhà tù
khủng khiếp, bất chấp song sắt thô bạo của nhà tù để tâm hồn bay bổng, để tìm đến đối
diện đàm tâm với vầng trăng tri kỉ, hướng tới cái đẹp, khát khao tự do. Bài thơ là sự minh
hoạ sinh động cho hình tượng HCM- người khách tiên trong ngục, là một minh chứng sinh
động cho câu thơ Bác viết ở ngoài bìa tập NNKTTT:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao.
*Tóm lại : chỉ là một bài thơ tứ tuyệt giản dị nhưng « Ngắm trăng » đã cho thấy vẻ đẹp của
một tâm hồn, một nhân cách lớn vừa rất nghệ sĩ, vừa có đủ bản lĩnh phi thường của người
chiến sĩ vĩ đại. « vọng nguyệt », ở thi liệu « rượu, hoa, trăng », cấu trúc đăng đối trong hai
câu thơ sau ; đặc biệt nhất là hình ảnh của chủ thể trữ tình ung dung giao cảm đặc biệt với
thiên nhiên) vừa mang hồn của thời đại (một hồn thơ lạc quan, luôn hướng về phía cuộc
sống, vừa mang tinh thần thép vừa giản dị, hồn nhiên, vừa hàm súc.
===================
Viết đoạn : Nhận xét về ánh trăng trong thơ Bác Hồ
Trong thơ Bác, ánh trăng luôn luôn tràn đầy. Trăng đã đi vào thơ Bác ở nhiều bài thơ
thuộc những giai đoạn khác nhau, từ những bài thơ viết trong nhà tù của chế độ Tưởng
Giới Thạch, trăng đã luôn là bạn, người bạn tri âm tri kỉ của Bác : « Người ngắm trăng soi
ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ »
Ở những bài thơ viết trong nước, ánh trăng càng thân thiết, gắn bó với Bác. Trăng thân
mật với Người « trăng vào cửa sổ đòi thơ. Việc quân đang bận xin chờ hôm sau » (Tin
thắng trận). Trăng ôm trùm cảnh vật khiến cảnh rừng trở nên lung linh, huyền ảo, ấm áp,
hoà hợp, quấn quýt :
« Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa » (Cảnh khuya).
Thuyền đi, trăng cũng như đi cùng : « Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo ».
Trăng đầy ắp khoang thuyền theo Bác trở về sau khi đã bàn bạc việc quân :
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
trăng ngân đầy thuyền
(Rằm tháng giêng)
Trăng đã là cuộc sống, là thanh bình, là hạnh phúc, là ước mơ, là niềm an ủi, là người bạn
tâm tình của thêm thâm trầm, trong sáng. Có thể nói trong thơ Bác, ánh trăng luôn được
trìu mến và trăng cũng góp phần làm nên vẻ đẹp của thơ Người.
Bài 2 : TỨC CẢNH PÁC BÓ
1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ được viết ra trong một hoàn cảnh đặc biệt : tháng 2/1941, sau 30 năm bôn ba hoạt
động cách mạng ở nước ngoài tìm đường giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về
nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Người sống và làm việc trong
những điều kiện hết sức gian khổ ở hang Pắc Bó Cao Bằng sát biên giới Việt Trung.
4
Nhưng với một tinh thần lạc quan cách mạng, một nụ cười hóm hỉnh, tươi vui, Bác đã làm
thơ về những ngày gian khổ đó.
2. Cảm nhận chung về bài thơ
Bài thơ với bốn câu, có giọng đùa vui hóm hỉnh, đã toát lên một cảm giác vui thích, thoải
mái. Đằng sau niềm vui đó là vẻ đẹp của một tâm hồn bình dị mà thanh cao hồn nhiên mà
đầy bản lĩnh của Bác Hồ
3. Phân tích bài thơ
Theo cấu trúc, có thể thấy bài tứ tuyệt này gồm hai phần :
- Ba câu đầu là phần tả cảnh và kể sự việc ở Pắc Bó
- Câu cuối nói lên cảm nghĩ về cuộc sống ở Pắc Bó đồng thời cũng là quan niệm
sống của người chiến sĩ cách mạng trong những ngày đầu hết sức gian khổ ?
-Thực ra, ở ba câu đầu, qua phần kể và tả cũng đã phần nào bộc lộ quan niệm
sông của tác giả, để nhà thơ có thể tổng kết lại như một lời khẳng định đầy tự hào : Cuộc
đời cách mạng thật là sang. Tình thần của bài thơ, khí chất của người viết, dấu ấn của tác
giả được cô đúc và toả sáng trong câu thơ này.
a. Thú lâm tuyền :
- Câu mở đầu bài thơ có giọng điệu phơi phới, thoải mái, đọc lên ta có cảm tưởng
như Bác Hồ sống thật ung dung, hoà hợp nhịp nhàng với điệu sống của núi rừng :
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Câu thơ ngắt nhịp ở giữa tạo thành hai vế sóng đôi, toát lên cảm giác nhip nhàng,
nề nếp : sáng ra, tối vào
- Câu thứ hai là một nét cười đùa, cho biết thức ăn của con người sống ở suối, ở
hang ấy thật đầy đủ, đầy đủ đến dư thừa :
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Có người hiểu là : dù chỉ có cháo bẹ rau măng nhưng tinh thần cách mạng vẫn sẵn
sàng. Cách của cả bài thơ. Có lẽ nên hiểu là : Thức ăn ( cháo bẹ, rau măng) thì lúc nào
cũng có sẵn.
- Câu thơ thứ nhất nói về ở,câu thơ thứ hai nói về ăn, câu thơ thứ ba nói về làm
việc, cả 3 câu đều là thuật tả sinh hoạt vật chất, chỉ đến câu kết mới phát biểu cảm xúc, ý
nghĩ.
Hiểu như vậy, sx phù hợp với mạch thơ, với kết cấu chặt chẽ của bài thơ hơn. Hai
câu thơ này còn làm tới sảng khoái trong cảnh sống của Người ở núi rừng :
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ dạo
Rượu ngọt chè tươi mặc sức say
Với Bác Hồ, ở Việt Bắc, « non xanh nước biết » , « rượu ngọt chè tươi » cũng « vẫn
sẵn sàng » muồn gì có nấy, cứ « tha hồ », « mặc sức » hưởng thụ, giống như « cháo bẹ rau
măng » ở Pắc Bó vậy.
- Nhưng sự thực, những câu thơ trên đây kể về cảnh sống của Bác Hồ ở PBó là
hoàn toàn nói đúng sự thật, cái sự thật đầy gian khổ, song lại trở thành cái thực giàu có,
sang trọng. Như vậy, câu thơ như một nụ cười hồn nhiên vượt lên trên gian khổ khó khăn.
Mà không phải ai kín : được hoà mình với thiên nhiên phóng khoáng trong một phong thái
ung dung, nhàn nhã, hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh
nước biếc, để câu cá, trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu
không dính líu gì với vòng danh lợi », như Bác đã tự bộc lộ và khẳng định trong nhiều bài
thơ khác của Người.
5
Sự hoà hợp gần gũi với thiên nhiên trong một cuộc sống giản dị, thanh đạm là một
nét đặc thù làm nên từ xa xưa. Những bậc hiền nhân quân tử, khi gặp cuộc đời nhiễu
nhương lầm bụi đã từ bỏ công danh, tìm về cuộc sống ẩn dật chốn núi rừng, bạn với cây cỏ
chim muông, với quạt gió đèn trăng :
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen
Vui thú lâm tuyền cũng là vui với cái nghèo. Cảm hứng vui với cái nghèo cũng để
lại cả một mạch sáng tác trong văn thơ truyền thống :
Nguyễn Bỉnh Khiêm viết : Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Cuộc sống của Bác chẳng khác gì với cuộc sống đạm bạc mà thanh cao giữa thiên
nhiên cùa người xưa đó.
Nguyễn Trãi viết trong « Côn Sơn ca » :
Nửa đời vùi mãi trong lâm đục
Muôn chung chín vạc để làm gì ?
Nước lã cơm rau hãy tri túc
Nghèo mà lại cảm thấy là « hào », là « phong lưu rất mực », là « tri túc ». Vì chính
cái vị đạm bạc của cảnh nghèo ấy lại là biểu hiện cúa giàu sang về đạo lý, về tinh thần, là
một thái độ sống thanh cao. Do đó mà có cảm giác rất thoả mãn, tự hào với cái nghèo,
cảm thấy « nghèo mà sang ».
Và cái bàn đá thiên tạo của Bác gợi nhớ đến phiến đá Côn Sơn của Nguyễn Trãi :
Côn Sơn có đá rêu phong
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Nhưng giống mà lại khác các bậc tiền nhân xưa thì đó mới là Bác Hồ. Giống ở
phong thái ung dung, ở tư cacsh tiên phong đạo cốt, ở niềm vui thú sống hòa hợp giữa
thiên nhiên, ở sự vượt lên coi thường gian khổ. Khác ở chỗ người xưa lui về chốn lâm
tuyền là để xa lánh cõi mạng, cho đất nước, cho nhân dân. Cho nên giữa chốn non xanh
nước biếc ấy, người lại dịch sử Đảng, dịch cuốn «Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô » làm tài
liệu huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam. Đây là câu thơ nói rõ sự khác nhau cơ bản
giữa nhà cách mạng HCM với người xưa : « Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng »
Cứ ngỡ cái bàn đá thiên tạo bên bờ suối ấy phải là nơi các tao nhân mặc khách ngồi đánh
cờ, uống rượu làm tho nhưng ở đây nhà thơ hiền triết HCM lại ngồi dịch sử Đảng, bởi nhà
hiền triết ấy là một chiến sĩ cách mạng đang lo toan, nhen nhóm cho phong trào cách
mạng bùng lên từ cái hang trứng nước thì cụm từ « dịch sử Đảng » rắn đúc lại đã làm cho
cái bàn đá kia không còn chông chênh nữa. Con người đã vượt lên hoàn cảnh, thể hiện bản
lĩnh tự chủ, tin tưởng vào mình. Đó không phải là một ẩn sĩ. Và ba chữ « dịch sử Đảng »
đã ngời sáng một hồn thơ chiến sĩ của người cộng sản HCM gợi nhớ đến 3 chữ « đàm
quân sự » trong câu « yên ba thâm sứ đàm quân sự » Người viết 7 năm sau trong một đêm
« nguyên tiêu » trăng sáng đầy trời giữa nơi khói súng.
b. Cuộc đời cách mạng thật là sang
Câu kết như một lời tổng kết hóm hỉnh, đồng thời lại là một lời khẳng định đầy tự
hào về cuộc sống cách mạng của mình. Thật là kì diệu bởi nó đem đến một quan niệm sống
thật mới mẻ và cao đẹp của người cộng sản HM. Người ta có thể nói cuộc đời cách mạng
thật là vẻ vang, khổ thiếu thốn vô ngần, nhưng khi con người đã sống vì một lý tưởng cao
đẹp thì cuộc đời ấy vẫn mang một phong vị đặc biệt, một cái thú riêng, một giá trị mà
những cuộc đời khác không thể có được : Thật là Sang ! Từ Sang vừa có nghĩa là sang
trọng, giàu có, lại diễn tả một phong thái vượt lên trên vật chất tầm thường vươn tới một
đời sống tinh thần cao cả, đậm phong vị truyền thống. Tự nhận như vậy là phải yêu cuộc
sống ấy lắm, phải đánh giá rất cao cuộc sống ấy, phải tự hào mãnh liệt về cuộc sống ấy.
6
Điều này không phải ai cũng cảm nhận và ý thức được như Bác. Viết ra được một câu thơ
như vậy phải là của một cách nhìn mới mẻ, một tầm tư tưởng cao, một nhân cách đáng
trọng. Nhưng cái sâu sắc, lớn lao của câu thơ lại được viết ra một cách vui tươi, hóm hỉnh
thì đó mới là BHồ của chúng ta. Câu thơ như một tiếng cười vui hồn nhiên của người chiến
sĩ trước cuộc sống gian truân, vất vả mà không cần phải suy nghĩ gì cả. Bởi đó chính là
bản chất con người Bác, máu thịt và tâm hồn Bác mà hoá thành thơ. Câu thơ đã nâng bài
thơ dậy, từng câu trên đã đẹp, đến câu cuối này thì bài thơ toả sáng. VÀ chữ SANG kết
thúc bài thơ như của Bác.
Bởi lẽ, Bác là người hơn ai hết hiểu gian khổ, thiếu thốn, nghèo nàn là hiện tại, còn
sang giầu là tương lai ; hay nói đúng hơn, nghèo là điều kiện vật chất hôm nay, còn sang
chính là xu thế tất thắng của cách mạng ngày mai.
* Thơ Bác Hồ vừa rất mực giản dị, song lại rất hàm súc, gợi lên bao ý nghĩa sâu
xa ; vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài « tức cảnh
Pắc Bó » là điển hình của hồn thơ, phong cách thơ đó.
==========================
Bài 3
TẬP VIẾT LỜI BÌNH CHO CÂU THƠ CUỐI CỦA BÀI THƠ : « KHÔNG NGỦ
ĐƯỢC »
Nhớ nước mà không ngủ được cũng là điều thường thấy ở các bậc vĩ nhân trong
lịch sử. Trần Hưng Đạo cũng đã từng « tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối, ruột đau như
cắt, nước mắt đầm đìa » ( Hịch tướng sĩ), còn Lê Lợi và Nguyễn Trãi thì :
Những trằn trọc trong cơn mộng mị
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
(Bình Ngô đại cáo)
Tiếp nối truyền thống yêu nước của cha ông, Bác Hồ cũng có nhiều đêm không ngủ
như thế. Nhưng có phải những đêm không ngủ của nhà cách mạng HM vẫn có những nét
mới, những điểm toả mơ » để có một hình ảnh lung linh rực rỡ khép lại bài thơ trong một
giấc mơ kì diệu của người tù- thi sĩ - chiến sĩ
« Cánh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh »
Giấc mơ là mộng nhưng cũng là thực của nỗi lòng Bác lúc bấy giờ. Bởi theo tâm lý
những hình ảnh hiện lên trong giấc mơ của con người bao giờ cũng là những điều mà họ
quan tâm, chú ý nhất, những điều ám ảnh nhất đối với họ trong lúc tỉnh. Cái gì đã hiện lên
trong giấc mơ ở chốn ngục tù của Bác ? Đó là « sao vàng năm cánh », biểu tượng cho lá
cớ tổ quốc và cách cuộc đời cách mạng gian truân, vất vả của Người, dù là ở bão tuyết
Luân Đôn hay tù ngục phương Đông. Có phải vì thế mà Chế Lan Viên đã thấu hiểu nỗi
niềm thiết tha, đau đớn nhớ Nước của Bác trong những ngày « Người đi tìm hình của
nước » :
Đêm mơ nước ngày thấy hình của Nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
An một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ Quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa
Và ta hiểu ý thơ này của ông đã được khơi nguồn từ hình ảnh « sao vàng năm cánh
mộng hồn quanh » trong bài « không ngủ được » của Bác, cũng như Hoàng Trung Thông
khi đọc thơ Bác đã cảm nhận lòng yêu nước cao đẹp, tuyệt vời của lãnh tụ :
Thân ở trong tù hồn ở nước
7
Bay quanh hồn mộng ánh vàng sao
Bởi đấy không chỉ là nỗi nhớ nước da diết và thường trực của người con yêu nước
số một của dân tộc mà còn là « nối nhớ nước trong một niềm tin phơi phới » của người
chiến sĩ cách mạng lão thành đã nhìn thấy tương lai tươi sáng của nước nhà ngay trong
bóng tối của chốn ngục tù. Cho nên hình ảnh Tổ Quốc hiện lên trong giấc mơ mới thật
lung linh, rực rỡ : « Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh ». Niềm tin ấy phải mạnh mẽ đến
thế nào thì mới có một giấc mộng về Tổ quốc đẹp đến thế, mới sáng tạo ra một hình ảnh
đầy chất thơ như vậy. Đó là một cuộc đối thoại nội tâm sâu lắng vận động qua các cung
bậc cảm xúc, từ dồn nén, tích tục, nặng nề ở trạng thái thao thức trong hai câu đầu, đến sự
chuyển đổi có gì như đột ngột ở trang thái « vừa chợp mắt » trong câu thứ ba, để rồi bột
phát và toả sáng mạnh mẽ ở trạng thái mộng trong câu cuối. Câu thơ nâng cả bài thơ dậy
trong một vầng sáng rực rỡ như một niềm tin mãnh liệt, một chí khí lạc quan bay bổng khi
hồn thi nhân vượt khỏi nhà tù bay về quê hương, lượn quanh ánh sao vàng, biểu tượng cho
lá cờ Tổ Quốc và cách mạng. Nỗi nhớ nước canh cánh trong một niềm tin phơi phới ở chốn
ngục tù đã bộc lộ nét vĩ đại của một tâm hồn lớn.
========================
THƠ TỐ HỮU
BÀI 1 : TỪ ẤY
I- Giới thiệu
Đời CM và đời thơ của Tố Hữu được đánh dấu bằng bài thơ « Từ ấy » viết vào tháng 7
năm 1938,Tố Hữu đã trở thành một chiến sĩ cách mạng và bước vào đời thơ cách mạng.
Đó là cái thời điểm nhà thơ tiếp nhận một lý tưởng sống, một quan niệm sống, cái lí tưởng
đã thay đổi toàn bộ cuộc đời của nhà thơ, để có lời tâm nguyện chân thành sống theo lí
tưởng mới- lí tưởng cách mạng.
- Bài thơ là niềm vui sướng tràn ngập tâm hồn tác giả khi bắt gặp lí tưởng cộng sản và lời
tâm niệm chân thành của người thanh niên mới giác ngộ lí tưởng cộng sản nguyện gắn bó
với quần chúng lao khổ.
- Bài thơ tiêu biểu cho bút pháp thơ giầu chất lãng mạn thuở ban đầu của Tố Hữu.
II- Phân tích
1. Khổ 1 : Niềm vui sướng tràn ngập tâm hồn nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cộng sản
- Trong đời mỗi người đều có thể có những phút giây bừng sáng, những sự đổi thay kì diệu
để lại dấu ấn suốt đời. Đó là phút giây tình yêu chợt đến, là lúc chân lí khoa học loé sáng,
là thời điểm giác ngộ một lí tưởng nhân sinh, một lẽ sống. Đó là lúc người ta đổi thay toàn
bộ cách cảm nhận về cuộc đời. Với Tố Hữu, đó là lúc ông tiếp nhận lí tưởng cộng sản và lí
tưởng ấy đã bừng sáng trong ông, rọi sáng cho ông suốt đời :
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Đọc bốn câu thơ mà tưởng như tâm hồn Tố Hữu đang bừng sáng lên mạnh mẽ trong cái
giây phút của chân lí cách mạng đối với một con người, một đời người. Sự bừng sáng ấy
vừa đột ngột vừa chói chang, lại tươi vui, đằm thắm và dạt dào sức sống. Nó được biểu thị
bằng hai hình ảnh « mặt trời chân lí », « vườn hoa lá » hài hoà thống nhất với nhau và kết
tụ lại trong bốn từ làm bừng sáng cả khổ thơ : « bừng », « chói », « đậm », « rộn ». Có
« mặt trời chân lí » chói chang nhưng lại có « vườn hoa lá » xanh mát ; có « bừng »,
« chói » của ánh sáng lí tưởng thì lại có « đậm » mùi hương và « rộn » tiếng chim của cuộc
sống cách mạng. Lí tưởng đã hoà vào cuộc sống, đã thành cuộc sống cách mạng trong tâm
hồn thi sĩ.
8
Câu thơ hay nhất, bừng sáng nhất là : Mặt trời chân lí chói qua tim
Nhà thơ đã dùng cách nói mới du nhập từ phương tây : «Mặt trời chân lí » là một ẩn dụ có
cấu tạo mới khiến cho lí tưởng cách mạng giống như mặt trời toả sáng rực rỡ. Dùng hình
ảnh mặt trời để biểu trưng cho cách mạng thật không gì đúng và đẹp bằng. Chính Bác Hồ
đã nói : « những sai xuyên qua tim làm tâm hồn nhà thơ bừng sáng.
Nếu hai câu thơ trên chói chang rực rỡ ánh sáng của lí tưởng thì hai câu dưới lại xanh mát
tươi vui hương sắc của cuộc sống. Hoa lá, hương thơm, tiếng chim là trạng thái đầy sinh
khí của thiên nhiên trong một khu vườn, nó thể hiện tâm trạng say sưa, náo nức, rộn ràng
của một tâm hồn đang vui sướng tràn ngập khi bắt gặp lí tưởng cách mạng : Hồn tôi là
một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Nhà thơ đã cảm nhận lí tưởng với trái tim ngây ngất của tình yêu, đây cũng là một đặc
điểm của hồn thơ Tố Hữu, đặc biệt trong thuở ban đầu với bút pháp thơ giàu chất lãng
mạn.
2. Hai khổ cuối : Lời tâm nguyện chân thành của người thanh niên mới giác ngộ lí
tưởng.
Lí tưởng như ngọn lửa thắp sáng tâm hồn nhà thơ, khiến tâm hồn ông thêm rộng mở. Tố
Hữu tự nguyện đến với cuộc sống cách mạng, với quần chúng lao khổ như một lẽ tự nhiên :
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Nhà thơ đến với « mọi người », với « trăm nơi », « với bao hồn khổ », tạo thành một khối
đời liên kết với nhau mạnh mẽ. Ông không còn cảm thấy cô đơn, riêng lẻ, yếu đuối nữa. Đó
là điểm khác biệt với các quần chúng cách mạng, hồn nhà thơ đã nằm trong hồn những
người lao khổ để « gần gũi nhau thêm mạnh khối đời ». Câu thơ giống như lời nói thường
ngày, mộc mạc biết bao, mà cũng đằm thắm tính giai cấp biết mấy.
Khi đã « buộc lòng tôi với mọi người » thì cũng là lúc nhà thơ đã thực sự gắn bó với quần
chúng lao khổ. Và ông đã tự hào nói lên điều đó với tình cảm thiết tha của mình : Tôi đã là
con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.
Vẫn là gắn bó với gia đình nhân loại rộng lớn : « vạn nhà », « vạn kiếp », « vạn đầu em
nhỏ » nhưng nhà thơ nghiêng về những kiếp người bất hạnh : những « kiếp phôi pha »,
những trẻ em « không áo cơm cù bất cù bơ ». Ông mở lòng đón nhận những kiếp người
đau khổ vào trong gia đình bao la của mình. « Tôi đã là » nghĩa là dứt khoát rồi, đã thực
sự hoà mình vào quần chúng rồi, đã trở thành ruoot thịt của họ rồi. Nhưng nếu để ý thì sẽ
thấy trong khổ thơ 4 câu này, nhà thơ đã dành hai câu cho các em nhỏ ( các đối tượng
khác chỉ 1 câu). Phải thơ cuối gợi nhiều liên tưởng về những em bé bất hạnh đó, khi nhà
thơ đã mở rộng cánh tay thương yêu đón các em vào lòng mình.
- Nghệ thuật : Hai khổ thơ có 8 câu thơ, nhưng chỉ có hai kiểu câu và tập trung nói thiết
tha một ý chính. Việc lặp đi lặp lại một kiểu câu, một loạt từ ngữ như vậy đã có một hiệu
quả nghệ thuật mạnh mẽ. Nó cho thấy đó là lời tâm niệm thiết tha, sự khẳng định dứt
khoát, là nhiệt tình hăm hở của người chiến sĩ trẻ nguyện tìm về chỗ đứng của mình ở phía
những người khốn khổ », tha thiết được trở thành thành viên ruột thịt của cái đại gia đình
to lớn ấy.
Chưa thể nói ở hai khổ thơ này, ngòi bút thơ của Tố Hữu đã đạt tới độ tinh luyện. Lời thơ
còn dàn trải, có những từ ngữ còn sách vở, khuôn sáo (hồn khổ, khối đời, kiếp phôi pha) ;
9
song với cảm xúc chân thành, giọng thơ sôi nổi, thiết tha, liền mạch, những câu thơ ấy vẫn
đầy sức truyền cảm.
« Từ ấy » có thể xem như một cột mốc trong đời thơ và đời cách mạng của Tố Hữu.
Bài thơ « không chỉ » là kỉ niệm về một thời điểm mở đầu, là tâm nguyện gắn bó với nhân
dân lao khổ, mà còn là khởi đầu của thế giới thơ Tố Hữu. Ở đây đã xuất hiện những hình
ảnh thơ quen thuộc những hình ảnh đầy sức sống này, cùng với ngọn lửa lí tưởng cháy
sáng tỏng tim, đã làm nên chất lãng mạn say người của bài thơ : đó là lãng mạn cách
mạng trong thơ Tố Hữu.
==============================
BÀI 2 : KHI CON TU HÚ
I- Giới thiệu
Bài thơ « khi con tu hú » được Tố Hữu sáng tác tháng 7/1939, sau bài thơ «Từ ấy » vừa
đúng một năm. Khoảng cách thời gian giữa hai bài thơ chưa dài, nhưng hoàn cảnh sáng
tác thì đã đổi khác. « Từ ấy » được viết khi Tố Hữu còn tự do, sống giữa cuộc sống cách
mạng, say mê với lí tưởng Đảng ; còn « khi con tu hú » lại được viết ra khi nhà thơ đã bị
giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế) giữa bốn bức tường ngột ngạt của nhà tù đế quốc.
Cảm hứng của thi nhân là niềm khao khát tự do cùng với khát vọng hành động, tháo cũi, sổ
lồng.
Nhưng tất cả đều được bắt đầu từ một tiếng chim tu hú vọng vào nhà lao như nhan
đề bài thơ đã ghi : « Khi con tu hú ». Người đọc hiểu đây là khi con tu hú kêu và tiếng
kêu ấy đã gọi dậy trong cánh, khi là tiếng guốc đi về dưới đường xa hay tiếng rao đêm lảnh
lót Những âm thanh đó chinh là cuộc sống bên ngoài đã ùa vào thơ Tố Hữu trong những
ngày bị xiềng xích. Tự nhiên, âm thanh bên ngoài trở thành biểu tượng của thế giới tự do.
Và ở bài thơ này là tiếng chim tu hú kêu báo hiệu mùa hè. Cả bài thơ được xây dựng trên
hình ảnh âm thanh đó. Tiếng chim tu hú là điểm khởi đầu, điểm kết thúc, nó chính là « cái
tứ » của bài thơ trong tù của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi.
II- Phân tích :
1. Cảnh thiên nhiên tươi vui, rộn ràng đầy quyến rũ đối với người chiến sĩ trong tù
Bài thơ mở đầu bằng tiếng kêu chim tu hú gọi hè :
Khi con tu hú gọi bầy
Câu thơ không nhằm mô tả tiếng chim kêu mà nhấn mạnh cái thời điểm tu hú gọi
bầy : khi tu hú gọi bầy thì sẽ ra sao, sẽ xuất hiện những điều gi ? Âm thanh không chỉ là
tiếng kêu. Trong âm thanh thường có cả một thế giới hoài niệm gắn liền với âm thanh ấy.
Một tiếng trống trường tâm trí Tố Hữu một thế giới đồng nội thân thuộc và quyến rũ đến
thế :
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không
Một bức tranh đồng nội tuyệt đẹp vào vụ tháng năm, tháng sáu :lúa chín, trái ngọt,
ngô vàng, ve ngân dậy vườn, nắng đào đầy sân, trời xanh cao rộng và sáo diều bay lượn
Có đủ âm thanh, sắc màu, cái gì cũng đẹp, cũng tươi vui, đầy sức sống, và tất cả đều hài
hoà với nhau trong một không gian cao rộng mà êm ả của làng quê. Nếu « thi trung hữu
hoạ » (trong thơ có vẽ) thì đây chính là một bức hoạ bằng thơ. Nhưng khó có thể hình dung
đây là cảnh tượng có thật được nhìn bằng mắt, bởi tác giả đang ở trong tù. Càng cảm thấy
10
ngột ngạt chết uất trong phòng giam chật chội, anh càng cảm thấy cảnh mùa hè ngoài kia
mới tưng bừng rộng rãi, mới quyến rũ biết bao ! Với niềm khao khát tự do, thèm khát sự
sống cháy ruột, người tù cách mạng đã huy động mọi giác quan căng ra đón nhận mọi tín
hiệu của thế giới sự sống bên ngoài. Vì vậy đây chỉ có thể là bức tranh của hoài niệm được
gọi dậy trong lòng ứng dây chuyền trong các câu thơ : tiếng chim gọi bầy gợi lúa đang
chín, trái cây chín dần- biết bao là hương vị của đồng quê. Trái cây ngọt dần lại gợi đến
những khu vườn râm mà ở đấy dậy lên tiếng ve ngân- khúc nhạc xao xuyến của mùa hè.
Cái tiếng ve ngân ấy báo hiệu mùa hè đã đến, ấy là lúc bắp rây vàng hạt đang phơi đầy
sân nắng đào- cái sắc mầu quê kiểng sao mà rực rỡ chói chang ! Nắng đào là nắng hồng
rực rỡ lại gợi nhớ đến bầu trời xanh trong cao rộng, và một bầu trời êm ả như thế ở làng
quê thì không thể vắng có nghĩa là ông đang khao khát nó bấy nhiêu- và ta hiểu đây là
niềm khao khát tự do của người ciến sĩ trẻ đang bị giam trong tù. Có phải vì thế mà đoạn
thơ đã chốt lại, nhưng chính là để mở ra một không gian cao rộng, tự do :
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.
Hình ảnh « đôi con diều sáo lộn nhào từng không » thật thoải mái, tự do và tâm
hồn nhà thơ như cùng đang bay lượn trong cái không gian cao rộng, tự do ấy.
2. Tâm trạng bực bội, u uất của người chiến sĩ trẻ trong phong giam ngột ngạt.
Nếu 6 câu trên là cảnh tưởng tượng qua hoài niệm về cuộc sống tươi vui, rộn ràng
ngoài nhà tù, thì bốn tâm trạng thì vẫn là sự nối tiếp của một con người thống nhất. Và tất
cả đều hiện ra trên nền âm thanh củ tiếng tu hú kêu. Tu hú kêu báo hiệu mùa hè đã đến.
Nhưng mùa hè đến đã gọi dậy trong lòng người chiến sĩ những đièu gì khi ông đang đối
diện với cảnh sống ngột ngạt ấy ?
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !
Tố Hữu thì thầm với mùa hè, đây cũng là một hình ảnh mới trong thơ, bởi một
mình giữa bốn bức tường ngột ngạt, ông còn biết tâm sự với ai ? Thì thầm với mùa hè cũng
như thì thầm với chính mình, và đây là tiếng lòng của nhà thơ cách mạng trong nhà tù đế
quốc. Mùa hè, như nhà thơ đã hồi tưởng ở đoạn trên là mùa của tự do, của nồng nàn, của
đam mê, của sự sống. Nhưng trong nhà tù thì làm gì có được mùa hè ấy ? Câu thơ thể hiện
khát vọng hành động tháo cũi, xổ lồng của người chiến sĩ. « Mà chân muốn đạp tan phòng
hè ôi ! »
Cùng với ý nghĩ thật táo tợn, dữ dội là cách ngắt nhịp ở hai câu 8,9 (nhịp 6/2 và
nhịp 3/3, gợi cảm giác nhói lên bực bội đến điên người) và giọng điệu cảm thán, dường
như cảm xúc bực, tiếng chim cứ dóng dả, thiết tha như nhắn gửi, như giục giã người chiến
sĩ. Sự tương phản ấy bộc lộ niềm khao khát tự do đến cháy bỏng, đễn mãnh liệt, đến đỉnh
điểm. Con chim cứ kêu có nghĩa là tiếng gọi tự do không bao giờ thôi, ý chí vượt ngục luôn
thường trực.
Bài thơ đã kết thúc trong một tâm trạng nhức nhối, bồn chồn, không thể khoanh
tay, ngồi yên để nung nấu ý chí hành động. Và tháng 3/1942, Tố Hữu đã vượt ngục về với
cách mạng, với nhân dân. Con chim cách mạng ấy đã cất cánh tung bay trên bầu trời tự
do, nhưng thực ra nó đã được giục giã từ tiếng chim tu hú kêu gần ba năm về trước.
=======================
11
DÀN Ý PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LÃO HẠC
I - Mở bài
- Nam Cao là nhà văn nhân đạo. Ông đã để lại những trang viết tâm huyết về người
nông dân trước cách mạng tháng Tám.
- Cũng như bao cố nông cùng khổ khác, Lão Hạc là một lão nông nghèo khổ bất
hạnh nhưng lại một con người có trái tim nhân hậu, lương thiện và có một tâm hồn, nhân
cách cao cả.
II-Thân bài
1. Lão Hạc là một lão nông nghèo khổ, bất hạnh
- Vợ mất sớm, một thân một mình gà trống nuôi con
- Sống bằng nghề cầy thuê, cuốc mướn
- Đứa con trai duy nhất vì nghèo mà phẫn chí bỏ đi
- dữ dội, đau đớn, khổ sở, vật vã
=> Cuộc đời lão Hạc là số phận người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng không
lối thoát. Cái chết của lão Hạc là lời tố cáo, lên án xã hội thối nát => Giá trị hiện thực sâu
sắc.
2. Là người sống rất nhân hậu
- Đối với mọi người : Sống tốt, chân thành
- Đối với con chó
+ Quý nó quá mức
+ Chăm sóc nó tỉ mỉ
+ Đau xót khi phải bán nó
- Đối với con trai
+ Nỗi đau bất lực của người cha vì nghèo mà không lo được hạnh phúc cho con
+ thiện và giầu lòng tự trọng
- Thà nhịn đói chứ không tiêu vào tiền của con
- Kiên quyết từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác, kể cả sự giúp đỡ của ông giáo,
người rất thân tình với ông
- Không muốn hàng xóm nghèo phải phiền luỵ về cái xác già của mình ( gửi ông giáo
tiền lo ma chay cho mình)
- Chọn cái chết để giữ trọn phẩm giá
III- Kết luận
-
- Bên trong cái vẻ bề ngoài gần như lẩm cẩm, gàn dở là một nhân cách vô cùng cao
quý
- Người đọc xót xa trước cái chết của lão Hạc bao nhiêu thì càng trân trọng và vững
tin ở nhân cách bấy nhiêu.
======================
Bài 4 : CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG»
I. Tác giả : O Hen ri là nhà văn Mĩ (1862 -1910), tên thật của ông là Po-tơ. Cha ông
là thầy rồi một chuyện không đâu, anh bị cầm tù với mức án 5 năm. Nhưng mới chỉ thụ án
3 năm 3 tháng, anh đã được tự do. Ra tù, anh lấy bút danh là Ô.hen ri từ đó (Ohenri là tên
của một người cai ngục nhân hậu mà Po- tơ vô cùng cảm mến, được dùng làm bút danh để
nhớ mãi hình ảnh một ân nhân của mình)
12
- Mười năm cuối đời, ông sống ở New ước, tài năng phát triển một cách kì lạ, và trở
thành một nhà văn chuyên nghiệp về sở trường truyện ngắn. Ông sáng tác rất nhiều, lao
động sáng tạo miệt mài bèn bỉ. Hầu như tuần nào ông cũng có truyện in trên các báo và
tạp chí. Có dân Mĩ. Một số truyện mang ý nghĩa phê phán xã hội rõ rệt.
- Về nghệ thuật, truyện ngắn của ông có lối viết nhẹ nhàng, đầy tình huống hấp dẫn,
kết cấu chặt chẽ đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật trong những tác phẩm của
O.Hen ri và rất lôi cuốn sự hứng thú của bạn đọc.
- Năm 1910, Ô.Hen ri qua đời, để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ : khoảng 600
truyện ngắn. Nổi tiếng nhất là những truyện ngắn kiệt tác như : Căn gác xép, Cái cửa
xanh, Chiếc lá cuối cùng, Quà tặng của những nhà hiền triết, Tên cảnh sát và gã lang
thang, Sương mù ở Xen-tôn, Khi người ta yêu.
- Vinh dự lớn nhất của O.Henri là gần 10 năm sau khi ông qua đời, hội nghệ thuật và
khoa học Mĩ đã lấy tên ông làm giải thưởng cho 3 truyện ngắn hay nhất hàng năm.
II. Tóm tắt tác phẩm
- Tại một khu nhỏ phía tây công viên Oa-sinh tơn là cái làng Gri-nig cổ kính. Các
nghệ sĩ nghèo xi, một người tên là Xiu. Một cô từ bang Men tới, một cô từ Ca-li-pho-ni-a.
Họ kết nghĩa, gắn bó trong tình chị em thân thiết.
- Mùa đông năm ấy, chứng viêm phổi hoành hành đã đánh ngã hàng chục nạn nhân
bên khu phía đông Thế rồi Giôn xi bị cảm lạnh nằm bất động trên chiếc giường sắt. Viên
bác sĩ cho Xiu biết, bệnh tình của Giôn-xi mười phần chỉ còn hi vọng được một thôi. Xiu
tranh thủ vẽ để kiếm thêm tiền mua rượu Boóc đô pha sữa, mua thuốc để săn sóc, chạy
chữa cho đứa em tội nghiệp. Ngày đêm trôi qua, Giôn xi nằm yên bất động và trắng bệch
như pho tượng đổ. Cô chỉ biết nhìn ra phía cửa sổ, nhẩm đếm từng chiếc lá còn lại trên
cây thường xuân, mệt mỏi buông xuôi nghĩ sẽ ra đi khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống.
- Cụ Bơ men lại lên gác 3 ngồi làm người mẫu cho Xiu vẽ. Xiu đã nói với cụ về nỗi
niềm tuyệt vọng của Giôn xi. Một đêm mưa tuyết lạnh lẽo nữa lại ào tới. Nhưng chiếc lá
dũng cảm màu vàng úa vẫn bám vào cành. Chiếc lá thường xuân, chiếc lá cuối cùng vẫn
còn đó. Giôn xi bình phục dần.
- Cụ Bơ men đã chết vì sưng phổi sau 2 ngày nằm viện. Giầy và quần áo cụ ướt sũng
và lạnh buốt mà chiếc lá cuối cùng đã rụng »
III. Bố cục : 3 phần
- Phần 1 : Giôn xi đợi cái chết (từ đầu đến « kiểu Hà lan »)
- Phần 2 : Giôn xi vượt qua cái chết ( tiếp đến « vịnh Na-plơ »)
- Phần 3 : Bí mật của chiếc lá cuối cùng (còn lại)
IV. Phương thức biểu đạt của văn bản này là : Tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm.
V. Phân tích :
« Chiếc lá cuối cùng » là một trong những truyện tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật
của O.Henri. Số lượng nhân vật không nhiều, chỉ có 3 nhân vật : Giôn xi- cô hoạ sĩ bị ốm
và xiu- cô bạn cùng chung phòng trọ, người bác sĩ đến chữa bệnh cho Giôn xi và cụ già
Bơ-men- hoạ sĩ già sống cùng ngôi nhà trọ đó.
Với « Chiếc lá cuối cùng », chúng ta bước vào thế giới của những nghệ sĩ nghèo. Họ
tìm đến quảng trường Gri-niz gần công viên Oa sinh tơn không phải vì cái vẻ cổ kính, kì
quặc, cũng được gọi là quảng trường thì nó vẫn bị chia nhỏ thành những quảng trường
« chằng chịt » khiến cho phạm vi không gian bị thu hẹp lại. Sự « chật hẹp » hiện ra như
« mọc rêu » khiến cho khu nhà càng thêm vẻ cô quạnh, hoang tàn. Cái không gian nghèo
nàn ngay từ vẻ bên ngoài ấy chỉ tiếp nhận những con người ngụ cư.
A. « CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG » LÀ BỨC THÔNG ĐIỆP MÀU XANH VỀ TÌNH
THƯƠNG VÀ SỰ SỐNG CON NGƯỜI
1.Tình bạn cảm động.
13
- Hai nữ hoạ sĩ trẻ ở hai miền quê khác nhau : một cô từ bang Men tới, cô kia quê ở
Ca-li-pho-ni-a và họ cùng thuê chung một phòng trọ nơi phố nghèo.
a.Điều gì đã gắn kết Xiu và Giôn xi lại với nhau ?
+ Cùng sở thích về món rau diếp xoăn trộn dầu dấm và kiểu ống tay rộng
+ Cùng lựa chọn nghề hội hoạ : « hàng ngày làm việc lát con đường dẫn tới nghệ
thuật bằng những bức tranh minh hoạ cho những truyện ngắn của các tạp chí, do các nhà
văn trẻ viết để lát con đường của họ dẫn tới văn học »
+ Cùng cảnh nghèo. Họ vẽ tranh để kiếm cái lèn chặt dạ dầy thường hay trống rỗng
của họ và cao hơn nữa là để duy trì sự sống của chính họ mỗi khi mùa đông băng giá đến.
b Sụ kiện nào cho ta thấy sự gắn bó giữa hai cô hoạ sĩ này không đơn thuần chỉ là
mối quan hệ của những người trọ cùng một nhà mà thân thiết như chị em ruột thịt ?
- Sự việc đạo, tạo ra thước đo phẩm chất nhân vật (chính trong hoàn cảnh bi đát ấy,
tình bạn được thử thách). Đây là một cách tạo dựng tình huống có vấn đề để dẫn dắt tới
cách giải quyết đột biến bất ngờ khi kết thúc truyện.
Theo dõi phần thứ nhất của văn bản cho biết : bệnh tật của Giôn Xi có gì đặc
biệt ?
- Giôn xi bị viêm phổi, nằm liệt giường. Bác sĩ nói : « Bệnh tình của cô ấy có thể nói
là mười phần chỉ còn hy vọng được một thôi ».
- Bản thân Giôn xi là một cô gái ốm yếu và thiếu máu
- Nghèo , không có tiền
- Chưa từng thành công trong sự nghiệp
=> Giôn xi không có một sợi dây ràng buộc nào đáng kể với cuộc sống.
- Cảnh ngộ ấy ảnh hưởng đến tâm trạng của Giôn xi như thế nào ?
Tại sao Giôn xi « mở to cặp mắt thẫn thờ nhìn tấm mành mành và thều thào ra
lệnh « kéo nó lên ».Hình dung như thế nào về nhân vật Giôn xi từ chi tiết miêu tả dáng
vẻ « thẫn thờ » và giọng nói « thều thào » của cô ?
- Cô muốn nhìn xem chiếc lá thường xuân cuối cùng bên cửa sổ đã rụng chưa.
- Một cô gái trong tình trạng sức khoẻ yếu ớt, gần như cạn kiệt sức sống.
Em hiểu gì bất hạnh, bất lực trước bệnh tật, không tha thiết với cuộc sống, đó là tâm
trạng chán nản của kẻ chờ đợi phút chia tay với cuộc đời.
Chi tiết Giôn xi đã không đáp lại những lời lẽ yêu thương của bạn, tâm hồn đang
chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình cho ta biết thêm điều gì về Giôn
xi ?
- Cô vô cùng yếu đuối và tuyệt vọng. Giôn xi có những dự cảm mình sẽ chết, đáng sợ
hơn là Giôn xi không cảm thấy luyến tiếc cuộc sống. Tâm hồn cô đã chuẩn bị sẵn sàng cho
một chuyến đi xa, chỉ chờ cho chiếc lá thường xuân bé nhỏ đang quằn quại trong gió lạnh
kia rụng xuống.
Con người yếu đuối và tuyệt vọng như Giôn xi gợi cho em những cảm xúc gì ?
- Sự sụp đổ về tinh thần của cô hoạ sĩ trẻ bất hạnh làm cho bệnh tình ngày thêm trầm
trọng. Cuộc sống của Giôn xi giờ đây được ví như chiếc lá nhỏ nhoi, yếu ớt, mảnh mai kia.
Và cuộc đấu tranh để bảo vệ cái cuộc sống nhỏ nhoi, yêu ớt ấy là một cuộc đấu tranh với
sự chiến thắng, cái cô đơn nhất là một tâm hồn đã chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi xa xôi
bí ẩn của mình. Những sợi dây ràng buộc cô với tình bạn, với thế gian này cứ lơi lỏng dần
từng cái một thì ý nghĩ kì quặc kia hình như lại càng choán lấy tâm trí cô mạnh mẽ hơn ».
Sự so sánh cuộc đời con người với chiếc lá mong manh trước làn gió mạnh trong giá rét
phũ phàng của mùa đông là một sự so sánh tuyệt vời sâu sắc. Đồng thời nó cũng nói lên sự
đồng cảm xót xa của nhà văn trước đồng loại. Nghèo thường đi đôi với hèn, nhưng ở đây
không phải là hèn trong phẩm cách mà là yếu đuối trong niềm tin, trong bản lĩnh. Trong
14
cuộc sống tựa vai vào người khác như vậy, Giôn xi tự cảm thấy mình là gánh nặng cho
người khác, cô đau khổ tự giầy vò vì thấy người khác phải chăm sóc mình, phải bận tâm vì
mình. Niềm hi gió. Và cuộc đấu tranh để bảo tồn cái nhỏ nhoi ấy, để bảo vệ cái yếu ớt ấy
là phẩm chất tuyệt vời của tình người)
cXiu đã làm gì để bảo vệ Giôn xi ?
Chính trong hoàn cảnh bi đát ấy, tình bạn được thử thách, Xiu thương bạn vô cùng,
cô đã khóc « đến ướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản ». Xiu lo âu và đã làm tất
cả để cứu Giôn xi
- Cô vẽ nhiều hơn để có tiền mua thuốc và mua thức ăn cho bạn.
- Cô chăm sóc động viên bạn, nén nỗi xót thương lo lắng để nâng đỡ tinh thần cho
bạn. khi đứa em tội nghiệp « nằm yên lặng và trắng nhợt như một pho tượng bị đổ » thì Xiu
vẫn kiên nhẫn an ủi em. Cô nói qua làn nước mắt : « Em thân yêu, em yêu dấu ! Em hãy
hứa với chị là hãy nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa Em hãy cố ngủ đi »
- Xiu đã tận tình chăm sóc em, lúc thì quấy nước súp gà, lúc thì pha sữa với rượu
Boóc đô, lúc thì đặt thêm gối, lúc thì mời bác sĩ, lúc thì cầu cứu bác Bơ men. Xiu đã giành
giật với tử thần để chạy chữa cho đứa em nuôi bé bỏng tội nghiệp.
=>Xiu là hiện thân của lòng trắc ẩn, vị tha, là một con người giầu đức hy sinh thầm
lặng, có một trái tim nhân hậu mênh mông. Xiu là một nhân vật rất đẹp làm ta xúc động và
ngưỡng mộ về một tình bạn, tình chị em thuỷ chung, cao quý. Nhân vật Xiu toả sáng « bức
thông điệp màu xanh » của « chiếc lá cuối cùng »
d. Bí mật chiếc lá cuối cùng
Theo dõi phần cuối văn bản « Chiếc lá cuối cùng » cho biết sự thật về chiếc lá vẫn
còn đó liên quan đến nhân vật nào ? (cụ Bơ men)
Bơ men được tác giả giới thiệu như thế nào ?
- Bác Bơ men là một hoạ sĩ nghèo đã 60 tuổi, không thành đạt trong nghệ thuật : « cụ
múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn không với tới được gấu áo vị nữ thần của mình »
nhưng sống rất lương thiện và luôn khát vọng sáng tạo một kiệt tác. Đã ngoài sáu mươi,
nhưng bác Bơ men vẫn sống cô độc « trong một gian buồng tối om om ở tầng dưới » Chỉ
có những người nghèo mới phải ở trong một gian buồng như thế. Trong một gian buồng
như thế thì vẽ thế nào tranh chiếc lá cuối cùng với mục đích gì ?
Để cứu người khỏi tai hoạ, kéo dài sự sống cho một tâm hồn yếu đuối đáng đếm lá
rụng chờ chết, có những con người đứng trước cái chết không hề sợ chết. Cụ già Bơ-men,
một hoạ sĩ già là một con người giầu đức hi sinh như vậy.
Hoạ sĩ già Bơ men đã vẽ bức tranh chiếc lá cuối cùng như thế nào ?
- Vẽ âm thầm, bí mật trong đêm mưa gió lạnh buốt ngoài trời, chứng cớ là « người ta
tìm thấy một chiếc đèn bão vẫn còn thắp sáng và một chiếc thang đã bị lôi ra khỏi chỗ để
của nó, và vài chiếc bút lông rơi vung vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng
trộn lẫn ».
Người hoạ sĩ già ấy đã phải trả giá như thế nào cho bức vẽ chiếc lá cuối cùng của
mình ?
- BỊ viêm phổi nặng và đã chết vì sưng phổi
Nêu cảm nhận của em về cái chết của cụ Bơ men ?
Cái chết của cái thang chông chênh, ông già đã bị viêm phổi nặng, rồi hai ngày sau
ông đã lặng lẽ đi vào cõi vĩnh hằng. Cái chết lặng lẽ, sự hi sinh thầm lặng của ông ít ai
biết đến, nhưng chính nó đã cứu sống được một mạng người- một con người còn rất trẻ và
biết đâu, đó lại là một tài năng vĩ đại sau này sẽ tiếp tục con đường nghệ thuật chân chính
mà Bơ men đã theo đuổi suốt đời. Cái chết là rất đáng ghét nhưng trong trường hợp của
Bơ men, nó vô cùng đang kính trọng, bởi nó càng khẳng định lòng yêu thương con người,
15
sự hi sinh cao cả vì con người của người nghệ sĩ già. Bác Bơ men đã chết nhưng tác phẩm
kiệt xuất của bác vẫn sống mãi với hai cô gái nghèo, vẫn sống mãi trong lòng các thế hệ
bạn đọc. Bởi vì tác phẩm đó đã biểu hiện tất cả phẩm chất cao đẹp của bác : nghèo nhưng
vô cùng nhân hậu, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh. Bác là biểu tượng của nghệ thuật
vị nhân sinh cao cả.
II. KIỆT TÁC « CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG »
Câu hỏi : Vì sao có thể nói : « Chiếc lá cuối cùng » là một hình tượng quan trọng,
linh hồn của truyện ngắn này ?
Không phải ngẫu nhiên hình ảnh chiếc lá trường xuân cuối cùng đã trở thành nhan
đề một truyện ngắn bất tử của nhà văn Mĩ lừng danh O.Hen ri. Đó là một chi tiết cảm
động, biểu tượng nghệ thuật bất ngờ, độc đáo mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc
a. Chiếc lá trường xuân nhỏ bé tầm thường, do bàn tay một hoạ sĩ « thường thường
bậc trung » tạo ra rất giống chiếc lá thật. Bức tranh « lá » thật sinh động đến nỗi con mắt
chuyên môn tinh trẻ của Giôn xi nhìn ngắm hoài mà sao không thể phân biệt nổi lá thật
hay lá vẽ ? « Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng kéo dài cả một đêm,
tưởng chừng không bao giờ đơn độc bám lấy cái cuống của nó trên tường và rồi, cùng với
màn đêm buông xuống, gió bấc lại lồng lộn, trong khi mưa vẫn đập mạnh vào cửa sổ và
mái hiên thấp kiểu Hà Lan mưa rơi lộp độp xuống mặt đất ». Chiếc màn xanh lại được kéo
lên khi buổi sáng lại về. Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó ».
b- Chiếc lá dũng cảm đó đã cứu sống một con người.
- Nhờ chiếc lá giả- lá vẽ (nhưng có thật) vào mặt bức tường trước khuôn cửa sổ mà
cô hoạ sĩ trẻ Giôn Xi dần khỏi bệnh . Hoạ sĩ già Bơ men đã cứu được cô gái đáng thương
bằng kiệt tác đầu tiên- và cũng là cuối cùng của mình, hay chính cô đã tự cứu cô bởi niềm
hi vọng lớn dần, mạnh ấm dần khởi nguồn từ chiếc lá lạ lùng, gan lì bám trụ, quyết không
chịu lìa khỏi ngọn dây leo loằng ngoằng.
- Chiếc lá cuối cùng xuất hiện kịp thời đúng lúc đó đã đem lại niềm tin vào sự sống
cho Giôn xi, đã thăng hoa nội lực cho Giôn xi, giúp cô chiến thắng gã « viêm phổi » dai
dẳng hiểm ác. Cô chợt hiểu ra : « có một cái gì đó làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy
để em thấy rằng mình đã tệ như thế nào » và hi vọng « một ngày nào đó sẽ được vẽ vịnh
Na Plơ » lại trỗi dậy trong cô ; cùng với niềm hi vọng ấy nhựa sống lại lên men, nghị lực
và mầm sống lại hồi sinh, khiến bác sĩ phải thốt lên : « được năm phần mười rồi. Chăm sóc
chu đáo thì chị sẽ thắng và « cô ấy khỏi nguy hiểm rồi, chị đã thắng ». Không hẳn chiếc lá
của cụ Bơ men đã niềm hi vọng, khơi bùng lên ngọn lửa tình đời sắp lụi tàn nơi trái tim
người đồng nghiệp trẻ không may
b. Chiếc lá ấy được vẽ bằng trái tim của tình yêu thương con người.
- Bác Bơ men vẽ chiếc lá ấy trong cái đêm rét khủng khiếp, khi chiếc lá cuối cùng đã
rụng xuống. Do đắm mình trong mưa tuyết giá lạnh, bác Bơ men đã nhiễm bệnh sưng phổi
và đã qua đời sau đó hai ngày. Chắc chắn khi dầm mình trong mưa tuyết để vẽ chiếc lá,
bác không phải không đối, là lòng yêu mến cuộc sống bỏng cháy của người hoạ sĩ già.
Chiếc lá cuối cùng,, sáng tạo một đêm kết quả của tình yêu thương trĩu nặng dồn qua ngòi
bút xuất thần của cụ Bơ men. « Chiếc lá » nối dài một cuộc đời, cướp đi một cuộc sống, để
lại trong bao thế hệ người đọc niềm xót xa, thương kính người hoạ sĩ nghèo không may
mắn, đồng thời lại vô cùng kinh ngạc về sức mạnh diệu kì của nghệ thuật- đem lại cuộc
sống và hi vọng cho con người. Dù phải đổi giá cực đắt, nhưng nghệ có nghệ sĩ chân chính
nào không vui lòng đánh đổi tất cả để lấy một « chiếc lá cuối cùng ».
Từ kiệt tác « chiếc lá cuối cùng, em hiểu thêm ý nghĩa nào của truyện « chiếc lá
cuối cùng » ?
-Nghệ thuật chân chính được tạo ra từ tình yêu thương con người.
16
- Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật của tình yêu thương, vì sự sống của con người.
Bức tranh của hoạ sĩ Bơ men là nghệ thuật chân chính vì nó hướng tới con người, vì
con người. Nghệ thuật chân chính mang trong lòng nó chức năng sinh thành và tái tạo để
phục vụ con người.Tình yêu thương là nguồn sức mạnh của ông già và tài năng nghệ thuật
hướng ngòi bút của ông vào việc hoàn thành một tác phẩm mang thiên chức vĩ đại của
nghệ thuật : nghệ thuật vị nhân sinh. Và người nghệ sĩ đã đem cả sinh mệnh của mình để
trả lại màu xanh cho chiếc lá đã úa vàng, trả lại màu hồng cho đôi má của người thiếu nữ
xanh xao trả lại niềm tin nghị lực cho những người yếu đuối. Chiếc lá cuối cùng trở thành
niềm hi vọng của sự hồi sinh được xây dựng bằng tình người.
III. Nghệ thuật đặc sắc
- Nét độc đáo của nghệ thuật truyện này là hiện tượng đảo ngược tình huống hai lần
khắc sâu trong một câu chuyện đã tạo nên một kết thúc bất ngờ hấp dẫn người đọc. Đọc
truyện, lúc đầu người đọc cứ đinh ninh là cô Giôn xi nhất định sẽ chết vì bệnh viêm phổi.
Nhưng tình huống chiếc lá ấy, bức vẽ kì diệu ấy đã cứu sống Giôn xi. Cụ Bơ men, tác giả
bức vẽ ấy đã chết ở tuổi 60, sau hai ngày bị viêm phổi nặng.
Kết thúc này càng khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của nghệ sĩ già Bơ men và tô đậm giá trị
tư tưởng và nghệ thuật của truyện.
Câu hỏi
1. Cụ Bơ men qua đời tại bệnh viện vì tuổi già, sức yếu, cảm lạnh nặng do phải
đứng vẽ trên bậc thang cao khấp khểnh giữa trời tuyết cóng cũng là một cách kết thúc
một cuộc đời nghệ sĩ không mấy niềm vui. Tại sao O.Hen ri lại chọn cách kết thúc
truyện đau đớn ấy mà không viết những dòng cuối nhẹ nhàng, êm ái hơn ? Chẳng hạn,
cụ Bơ men cảm nặng phải vào viện, Giôn xi khỏi bệnh biết rõ sự thật, vô cùng cảm
động, ân hận. Cô ngày đêm chăm sóc cụ Bơ men như chăm sóc người cha thân yêu. Và
sức khoẻ của hoạ sĩ cũng dần dần bình phục. Một buổi sáng mùa xuân nắng ấm, hai
người cùng nhau ra viện, trở về noi cũ ở. Họ cùng nhìn lên bức tường xám nham nhở :
chiếc lá trường xuân vẫn xanh ngắt giữa đám dây leo loằng ngoằng.
Không dễ dãi và nhạt nhẽo như ta nghĩ, nhà văn Mĩ đã gia tăng chất muối, cho gắt
mặn hơn ấn tượng đậm chát trong lòng người đọc, cho độ căng của nghịch cảnh càng
tăng, cho giọt nước mắt ân hận, biết ơn, nhớ tiếc càng chảy dài trên má Giôn xi, Xiu, và cả
mỗi chúng ta.
Người đọc cứ bị ám ảnh mãi về tính hai mặt của biểu tượng « chiếc lá cuối cùng ».
Chiếc lá cứu người- đó là mặt phải. Chiếc lá lại giết người- đó là mặt trái. Làm sao không
nghĩ, không dài trong nghèo túng và thất bại bằng thành công loé sáng cuối cùng. Bức
tranh « lá » thật sinh động đến nỗi con mắt chuyên môn tinh trẻ của Giôn xi nhìn ngắm
hoài mà sao không thể phân biệt nổi là lá thật hay lá vẽ ? Hoạ sĩ già « tử vì nghệ », đã vui
lòng đổi kiệt tác của mình bằng cả xác, hồn và tình thương người nồng nhiệt, nỗi đam mê
nghề nghiệp đến quên cả tuổi tác, nỗi cay cú vì cả đời lao động nghệ thuật kiệt lực mà
thành công chưa một lần mỉm cười.
Một điều hết sức cảm động là khi đứng giữa trời đêm gió lạnh, tay miệt mài đưa bút
vẽ lên tường, cụ Bơ men chắc không hề nghĩ đến việc mình đang làm nghệ thuật, đang thực
hiện công trình có thể lưu danh hậu thế. Đơn giản, cụ chỉ nghĩ đây là cách tốt nhất cụ có
thể làm, để cứu vui Giôn xi khỏi bệnh, chẳng hề bận tâm đến « chiếc lá » kia có thành kiệt
tác hay không ?
2.Câu hỏi dành cho học sinh giỏi : Có người nhận xét rằng chiếc bóng trên vách
đã giết chết Vũ Nương nhưng chiếc lá trên tường đã cứu sống Giôn Xi. Em có đồng ý
với ý kiến đó không? Hãy phát biểu ý kiến của em về vấn đề này.
Gợi ý
17
1. Chuyện “người con gái Nam Xương” là một thành công nghệ thuật đặc sắc của
Nguyễn Dữ. Tác giả có những sáng tạo trong cách kể, trong việc hư cấu thêm tình tiết và
đưa thêm những yếu tố li kì vào câu chuyện. Trong đó “chiếc bóng trên tường” là một
sáng tạo nghệ thuật đặc sắc.
*. Cái bóng được tạo bởi tình yêu thương
- Người vợ trẻ vì nhớ thương chồng, vì muốn nguôi ngoai cảm giác thiếu vắng hơi
ấm của người chồng.
- Người mẹ xót lòng cho con trẻ chưa một lần được thấy mặt cha nên đã nghĩ ra trò
chơi chiếc bóng.
* Chính chiếc bóng được tạo bởi tình yêu thương ấy đã trở thành cái bóng oan
nghiệt cướp đi cuộc sống của VN - người phụ nữ giàu tình yêu thương.
- Vì ghen tuông đối với chiến tranh phong kiến phi nghĩa, với sự độc đoán, đa nghi
phi lý của chàng Trương. Chi tiết cái bóng còn phản ánh nỗi dầy vò đau xót trong lòng tác
giả về hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến như VN phải trói buộc đời mình mòn
mỏi vào những người dường như hình ảnh của những “chiếc bóng oan khiên”.
d. Nghệ thuật xây dựng chi tiết tài tình : thật kết hợp với ảo. Bóng là ảo ảnh, giết
chết một con người là sự thật cay đắng, phũ phàng.
2. Chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Mĩ O.Hen ri là một
chiếc lá đặc biệt, là chi tiết cảm động, là biểu tượng nghệ thuật bất ngờ, độc đáo, mang ý
nghĩa nhân văn sâu sắc. Chiếc lá ấy đã trở thành một niềm hi vọng của sự hồi sinh được
xây dựng bằng tình người.
(học sinh tham khảo phần II - Chiếc lá cuối cùng là một kiệt tác nghệ thuật)
========================
18