Đại học Khoa học xã hội và nhân văn-Đại học Quốc gia
TP Hồ Chí Minh
Khoa: Nhân học
Môn học: Bảo tàng và di sản.
Nhóm đề tài số 4
1. LÂM THỊ MINH THƯ 1356060105
2. NGUYỄN THỊ VÂN SƠN 1356060097
3. BÙI THỊ THẢO SƯƠNG 1356060098
4. ĐINH THỊ THANH TUYỀN 1356060121
5. NGUYỄN THỊ NGỌ HÂN 1356060059
Đề tài: ĐÔ THỊ CỔ HỘI AN QUẢNG NAM
Phần I: Hội An trong lịch sử
I. Hoàn cảnh tự nhiên và điều kiện địa lý
Đô thị cổ Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã 3 sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng
ven biển tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Ðà Nẵng 28km về phía Nam; phía Ðông
giáp biển Ðông; phía Nam giáp huyện Duy Xuyên; phía Tây và Bắc giáp huyện
Ðiện Bàn.
Khu đô thị cổ Hội An nằm gần cửa sông Thu Bồn, con sông lớn nhất của tỉnh
Quảng Nam. Mặc dù vậy, ngày nay từ trung tâm thành phố tới đến cửa sông cũng
không còn gần lắm. Hạ lưu sông Thu Bồn khi đổ ra biển Đông được chia thành
nhiều nhánh. Nhánh tiếp xúc với khu phố cổ mang tên sông Hội An, còn dòng chảy
giữa hai cồn Cẩm Nam và Cẩm Kim là dòng chính của sông Thu Bồn.Trên những
bản đồ cổ thế kỷ 17, 18, Hội An nằm trên bờ Bắc của sông Thu Bồn, thông với
biển Đông bẳng cửa Đại Chiêm và một dòng sông nối với cửa Đại của Đà Nẵng,
phía ngoài là một doi cát rộng. Dấu vết dòng sông nối liền Hội An với biển Cửa
Hàn có thể xác định là con sông Cổ Cò - Đế Võng ngày nay. Trên thủy trình cổ
này đã từng tìm thấy nhiều lô tàu, mỏ neo bị chôn vùi trong lòng đất.
Ngoài ra hằng năm cứ vào mùa mưa bão nước sông đâng lên làm ngập lụt khu phố
cổ.
![]()
Cảnh ngập lụt xưa và nay
• Chú thích: nguồn Kiến trúc phố cổ Hội An Việt Nam phần 1 Địa lí
tự nhiên
II.Bối cảnh lịch sử của Hội An
Tên gọi Hội An ngày nay được hình thành từ rất lâu trong lịch sử, nhưng thật khó
có thể xác định chính xác thời điểm ra đời của nó. Theo tác giả Dương Văn An
trong cuốn Ô Châu cận lục vào năm 1553 huyện Điện Bàn có 66 xã nhưng chưa có
cái tên Hội An. Thời Lê, tấm bản đồ do đại thần Đỗ Bá vẽ trong Thiên Nam tứ chí
lộ đồ có ghi lần đầu tiên địa danh Hội An phố, Hội An đàm, Hội An kiều. Trên tấm
bia Phổ Đà Linh Sơn Trung Phật tại động Hoa Nghiêm, Ngũ Hành Sơn ghi tên
những người góp tiền xây dựng chùa, tên làng Hội An được nhắc tới ba lần. Thời
chúa Nguyễn Phúc Lan, làng Minh Hương được thành lập bên cạnh làng Hội An
đã có trước đó. Căn cứ vào văn bản của dinh trấn Quảng Nam thời Minh Mạng gửi
trưởng bang Hoa kiều, Hội An phố gồm 6 làng: Hội An, Minh Hương, Cổ Trai,
Đông An, Diêm Hộ, Hoa Phô. Nhà nghiên cứu người Pháp Albert Sallet cho rằng
làng Hội An là làng quan trọng nhất trong năm làng tạo nên quần cư Hội An cổ,
gồm Hội An, Cẩm Phô, Phong Niên, Minh Hương và An Thọ.
Người phương Tây xưa kia gọi Hội An bằng cái tên Faifo,, xuất xứ của cái tên này
ngày nay vẫn tồn tại nhiều giả thuyết. Trong cuốn Từ điển Việt-Bồ-La của
Alexandre de Rhodesin tại Roma năm 1651, chữ Hoài phô được định nghĩa: một
làng trong xứ Cochinchine mà người Nhật ở và gọi là Faifo. Một giả thuyết phổ
biến cho rằng Faifo xuất phát từ tênHội An phố, cái tên sử sách và địa chí Trung,
Việt đều nhắc tới. . Theo một thuyết khác, sông Thu Bồn trước kia có tên là sông
Hoài, nên Hội An còn được gọi là Hoài Phố, sau Hoài Phố biến thành Phai Phố, từ
đó xuất hiện cái tên Faifo. Trong những thư từ, ghi chép của những giáo sĩ, học giả
phương Tây, những cái tên Faifo, Faifoo, Fayfoo, Faiso,Facfo từng xuất hiện
nhiều lần. Alexandre de Rhodes trong bản đồ An Nam gồm Đàng Trong và Đàng
Ngoài ấn hành năm 1651 có ghi rõ tên Haifo. Về sau, trên bản đồ chính thức của
chính quyền Đông Dương, người Pháp đều sử dụng tên Faifo để chỉ Hội An.
II.1 Thời kì tiền Hội An
Tuy địa danh Hội An được cho rằng được xuất hiện cuối thế kỉ 16, nhưng vùng đất
xung quanh đô thị này đã có lịch sử rất lâu đời. Theo các tài liệu khảo cổ thời kì
tiền Hội An, nơi đây tồn tại 2 nền văn hóa : Sa Huỳnh và Chăm Pa.
Trước hết về văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An đã phát hiện hơn 50 di tích, phần lớn tập
trung ở những cồn cát ven sông Thu Bồn cũ. Số di tích này thuộc hậu kì văn hóa
Sa Huỳnh và không có di tích nào thuộc thời kì đầu và giữa. Gần đây Đại học
Quốc gia Hà Nội kết hợp với Bảo tàng tỉnh Quảng Nam và Trung tâm Quản lý Di
tích Hội An tiến hành khai quật di chỉ Hồ Xá phát hiện nhiều mộ chum cổ kèm
theo đồ cải táng phong phú. Đặc biệt phát hiện hai loại tiền đồng Trung Quốc thời
Hán, những vật sắt kiểu Tây Hán… đã minh chứng ngay từ đầu công nguyên, nơi
đây đã có những giao dịch ngoại thương. (nguồn: Kiến trúc phố cổ Hội An Việt
Nam phần II Hội An trong lịch sử)
Một số hiện vật thu được ở
các di chỉ Hội An
Từ thế kỉ 2 đến thế kỉ 15, dãi đất miền Trung nằm dưới sự thống trị của vương
quốc Chăm Pa. Những di tích và di vật của văn hóa Chăm xung quanh Hội An gồm
có điện thờ Chăm ở cửa sông Thu Bồn, tượng thần(voi) ở Đại Chiêm, một số giếng
cổ xây dựng theo cách thức của người Chăm, một số mảnh gốm sứ xanh, sứ trắng
đời Tống ở Cù Lao Chàm.
giếng cổ
Năm 1471, thủ phủ cuối cùng của Chăm Pa ở Bầu Gía, Bình Định bị nhà Lê
chiếm. Hội An trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Nơi đây được hình thành dựa trên
sự kế thừa cảng biển của người Chăm và người Việt bắt đầu đến đây vào thế kỉ 15.
Đó là bước chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của đô thị Hội An.
II.2 Thời kì Hội An
• Ra đời và phát triển phồn vinh
Hội An ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỉ 16, dưới sự trị vì của vua Lê, chúa
Trịnh. Năm 1558 Nguyễn Hoàng cùng gia quyến và một số binh lính lui về
cố thủ ở vùng Thuận Hóa và từ sau năm 1570, Nguyễn Hoàng tiếp tục nắm
quyền trấn thủ Quảng Nam. Cùng với con trai là Nguyễn Phúc Nguyên,
Nguyễn Hoàng xây dựng thành lũy, ra sức phát triển kinh tế Đàng Trong,
mở rộng giao thương buôn bán với nước ngoài và Hội An trở thành thương
cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực Đông Nam Á thời kỳ đó.
Hội An trong bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ
Thế kỷ 17, trong khi vẫn tiếp tục cuộc chiến với chúa Trịnh ở miền Bắc,
chúa Nguyễn không ngừng khai phá miền Nam, lấn chiếm lãnh thổ của
người Chăm. Vùng đất do chúa Nguyễn cai quan với những khu phố nước
ngoài hình thành dựa trên một số luật lệ nhằm bảo hộ các hoạt động thương
mại của người ngoại quốc. Nhờ đó Hội An được chọn làm thương cảng quốc
tế.
Năm 1567 triều đình nhà Minh Trung Quốc bỏ chủ trương bế quan tỏa cảng, cho
thuyền giao thương với các quốc gia Đông Nam Á nhưng lại cấm xuất khẩu một số
nguyên liệu quan trọng sang Nhật Bản. Điều này bắt buột Mạc phủ Toyotomi rồi
Mạc phủ Tokugawa cấp phép cho các thuyền buôn sang Đông Nam Á mua lại các
mặt hàng đó. Những con tàu Châu Ấn bắt đầu xuất dương từ năm 1604 dưới thời
Mặc phủ Tokugawa, cho tới năm 1635, khi chính sách đóng cửa được ban bố, đã
có ít nhất 356 con tàu Châu Ấn ra đời. Nơi thuyền Châu Ấn đi qua nhiều nhất
chính là cảng Hội An. Các thương nhân người Nhật khi đó tới bán những đồ đồng,
tiền đồng, sắt, đồ gia dụng và mua lại đường, tơ lụa, trầm hương
Khoảng năm 1617, phố Nhật Bản ở Hội An được hình thành và phát triển cực
thịnh trong đầu thế kỷ 17. Qua bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ của
Chaya Shinroku, có thể thấy khu phố người Nhật với những công trình kết cấu gỗ
hai, ba tầng. Thuyền trưởng người Hà Lan Delft Haven ghi lại năm 1651, Hội An
khi đó có khoảng 60 căn nhà của người Nhật nơi dọc bờ sông, nhà cửa xây bằng đá
để tránh hỏa hoạn, nằm sát vách nhau. Thời kỳ cực thịnh của người Nhật có lẽ là
lúc Chúa Nguyễn Phước Nguyên gã con gái cho một thương gia Nhật tên Araki
Shutaro được Chúa đặt tên Việt là Nguyễn Taro, còn gọi là Hiền Hưng, và cô Công
chúa này được gọi là Quận Chúa Anio, mà theo giới khảo cổ thì tên tiếng Việt có
thể là Ngọc Vân. Sử sách cũng cho biết là năm 1618, nhà buôn tên Furamoto
Yashishiro đã được Chúa Nguyễn đặc phong làm người đứng đầu Phố Nhật cai
quản và chăm sóc cư dân của họ. Rải rác trên các cánh đồng ở Hội An có một số
ngôi mộ cổ của những người Nhật đã được chôn cất tại đây, một số bia mộ khắc
ghi tên người Nhật và vẫn còn lưu giữ cho đến ngày nay như bia mộ ông Gu
Sokukun, ghi năm mất 1629, mộ ông Tani Yajirobe, ghi quê quán Hirado mất năm
1647. Đó là những ngôi mộ còn ghi dấu tích, riêng các ngôi mộ khác vì thời gian
xoi mòn, vì tàn phá của chiến tranh đến nay đã không còn thấy nữa.
Sau đó do chính sách bế quan của Mạc phủ Tokugawa mà các thuyền bị cấm
khống được phép đi ra nước ngoài nữa cũng những chính sách đàn áp người Nhật
Công giáo của chúa Nguyễn, nên phố Nhật Bản ở Hội An dần đần bị lu mờ. Tại
ngôi đền Jomyo ở Nagoya bên Nhật, có bức hình bằng tranh diễn tả cuộc hải trình
từ đảo Nagasaki đến Hội An đi mất 40 ngày. Tranh cũng vẻ phố Nhật rất sầm uất,
nhà cửa xây dọc trên bờ sông, có cả nhà 2 tầng và 3 tầng dựa san sát vào nhau. Mãi
đến năm 1635, người Nhật chính thức phải rời bỏ Hội An vì lệnh của Mạc Phủ
Tokugawa cấm người Nhật buôn bán, giao dịch ra nước ngoài. Kiều dân Nhật đành
phải khăn gói ra đi, nhiều cảnh chia lìa, gạt nước mắt tiễn đưa có lẽ cũng đã diển ra
trong những năm tháng này.
Và người Hoa dần thay thế vai trò của người Nhật trong việc buôn bán.
Người Hoa biết đến Hội An từ rất sớm ngay từ thời kỳ tiền Hội An, ngày từ thời
vùng đất này còn thuộc về vương quốc Chăm Pa. Đến thời kỳ người Việt thay thế
người Chăm, những thương nhân Trung Hoa vẫn tiếp tục tới buôn bán vì các tỉnh
miền Nam của Trung Quốc rất cần các mặt hàng muối, vàng, quế Mặc dù vậy,
trong suốt thời kỳ tiền Hội An, người Hoa chỉ tới buôn bán rồi trở về, không ở lại
định cư, lập phố xá. Phải đến sau loạn Minh Thanh xảy ra khoảng thế kỉ 17, đặc
biệt sau khi nhà Minh thất thế, rất nhiều người Hoa di cư tới Trung Bộ Việt Nam
và xây dựng nên nhiều cộng đồng Minh Hương Xã.
Hiện nay ở Hội Quán Phúc Kiến có một bức tranh tường rất lớn về sự tích người
Hoa đến Hội An, vẽ một chiếc tàu lênh đênh ngoài biển trước gió to, sóng lớn.
Trên trời là Thiên Hậu Thánh Mẫu độ trì cho con tàu tai qua, nạn khỏi đến nơi bình
an. Ở đây, họ vẫn còn thờ một mô hình chiếc tàu ngày xưa đã đưa những người
Minh Hương đến xứ Đàng Trong. Trên tàu đầy đủ các chi tiết như chổ ở, bếp nấu
ăn trông rất quy mô.
![]()
Mô hình thuyền ở Hội quán Phúc Kiến
Một số tiền đồng Trung Quốc được tìm thấy ở Hội An
Cảng thị Hội An khi đó là nơi tập trung nhiều nhất hàng hóa ngoại quốc.
Khu phố dọc bờ sông, được gọi khu Đại Đường, kéo dài 3, 4 dặm. Các cửa
hàng hai bên phố không khi nào rảnh rỗi. Dân cư ở đây phần lớn là người
Phúc Kiến, mọi người ăn vận theo trang phục của nhà Minh. Nhiều người
Trung Quốc tới định cư để buôn bán đã kết hôn với những phụ nữ bản địa.
Năm 1695, sứ giả người Anh Thomas Bowyear của Công ty Đông Ấn Anh
đến đàm phán với chúa Nguyễn về việc xây dựng một khu cư trú tại Hội
An,nhưng không thành. Việc này chứng tỏ Hội An lúc bấy giờ rất sầm uất
thu hút nhiều thương gia ngoại quốc.
• Thời kì suy vong
Thế kỷ 18, khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn diễn ra ở miền Nam, chúa Trịnh
đánh chiếm Quảng Nam dinh năm 1775, cảng thị Hội An rơi vào cảnh chiến
tranh loạn lạc. Nhiều nhân vật quan trọng của dòng họ Nguyễn cùng những
thương gia người Hoa giàu có đã di cư vào miền Nam, mang theo của cải và
lập nghiệp tại Sài Gòn - Chợ Lớn, để lại một Hội An điêu tàn, đổ nát. Năm
1778, một người Anh Charles Chapman đi qua đây đã ghi lại: "Khi tới Hội
An, thành phố lớn này chẳng còn lại là bao những khu phố được quy hoạch
quy cũ với những ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá mà chỉ thấy một
cảnh hoang tàn làm cho ta cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công trình ấy bây
giờ chỉ còn đọng lại trong ký ức mà thôi.”
Bến sông Hội An thế kỉ 18
Khoảng 5 năm sau, cảng thị Hội An mới dần dần hồi sinh, hoạt động thương
mại được phục hồi nhưng không được như trước. Người Việt cùng người
Hoa cùng xây lại thành phố từ những đống đổ nát cũ, những ngôi nhà mới
mọc lên theo kiến trúc của họ và vô tình, dấu vết của khu phố Nhật Bản đã
bị xóa đi mãi mãi.
Thế kỷ 19, cửa sông Cửa Đại ngày càng bị thu hẹp lại và con sông Cổ Cò
cũng bị phù sa bồi lấp, khiến các thuyền lớn không còn ghé được cảng Hội
An. Bên cạnh đó, triều đình nhà Nguyễn cũng thực hiện chính sách đóng
cửa, hạn chế quan hệ với nước ngoài, đặc biệt các quốc gia phương Tâyđã
làm cho Hội An mất đi vị thế cảng thị quốc tế quan trọng. Mặc dù vậy, với
vai trò một trung tâm thương nghiệp lớn, thành phố vẫn được phát triển,
những con đường mới về phía Nam dòng sông được xây dựng và các khu
phố được mở rộng thêm. Năm 1888, khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của
Pháp, chính sách phát triển Đà Năng của người phát cùng các hạn chế về
giao thông làm cho hoạt động thương nghiệp ở Hội An bị đình trệ.
Đầu thế kỷ 20, tuy mất đi vai trò cảng thị quan trọng, hoạt động buôn bán ở
Hội An chưa khi nào chấm dứt và nơi đây vẫn là thị xã, thủ phủ của tỉnh
Quảng Nam. Khi tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng được thành lập vào năm 1976,
thành phố Đà Nẵng trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới, Hội An rơi vào một thời
kỳ bị quên lãng.
Từ thập niên 1980, Hội An bắt đầu nhận được sự chú ý của các học giả Việt
Nam, Nhật Bản và phương Tây
• Nguồn:Internet />%95_H%E1%BB%99i_An
Phần 2: Kiến trúc truyền thống Hội An
I.Khái quát về kiến trúc khu phố cổ
Hội An là một cảng đô thị với hơn nghìn di tích kiến trúc kết hợp hài hòa giữa
nghệ thuật và văn hóa phương Đông và phương Tây. Có thể nói trên lãnh thổ Việt
Nam trong lịch sử chưa từng có một chốn đô thị giao lưu văn hóa đa phương như
Hội An.
Mặc dù được phát triển một cách tự phát chứa không theo khuôn mẫu của một quy
hoạch nào định trước nhưng quân thể kiến trúc phố cổ vẫn giàu tính thẩm mỹ về
không gian cảnh quan đô thị. Nhìn về mặt tổng thể phố có hình chiếc võng, hai đâu
thuôn dần về hai hướng Đông-Tây. Trong khu phố cổ còn nhiều đường hẻm khác
nằm vuông góc với đường chính kéo dài ra đến tận bờ sông.
Chiều cao của các công trình khá khiêm tốn. thấp nhất chỉ 4,5m, cao nhất không
quá 13m và không quá ba tầng. Các ngôi nhà cứ mọc san sát nhau, nương tựa nhau
để cùng tồn tại giữa bao biến thiên lịch sử.
Hội An hiện còn lưu giữ được một sưu tập kiến trúc thành thị sống động độc nhất
vô nhị trong di sản kiến trúc. Cho đến nay, trải qua nhiều thế kỷ qua với những
thăng trầm lịch sử, mỗi nhà, mỗi con phố, mỗi ngóc ngách vẫn phản ánh đâu đó
những nét cổ kính riêng có của phố cổ Hội An.
II. Các dạng kiến trúc đặc sắc
II.1 Nhà ở, nhà buôn cửa hiệu
1. Phong cách nhà cổ.
Mô hình chung trong kiến trúc các ngôi nhà cổthường theo kiểu hình ống được nối
với nhau bằng nhiều nếp chạy dài từ phố này sang phố khác. Mặt tiền hẹp thường
là nơi buôn bán, giữa có sân, nhà sau là nơi chứa hàng và sinh hoạt, cuối cùng là
cửa sau thông ra đường phố hoặc bờ sông. Nhà được kết cấu khung gỗ, chia thành
ba gian với lối đi ở giữa.
Nguồn: sách Kiến trúc phố cổ Hội An NXB Thế Giới
Mái lợp ngói âm dương, nền lát gạch hoặc đá. Ngói ở Hội An là loại ngói làm từ
đất, mỏng, nung thô, mang hình vuông, mỗi cạnh khoảng 22 cm và có dạng hơi
cong. Khi lợp, đầu tiên người ta xếp một hàng ngói ngửa lên và sau đó tiếp tới một
hàng ngói úp xuống. Cách lợp này được gọi là kiểu lợp ngói âm dương. Khi lợp
xong mái, các viên ngói được cố định bằng vữa, tạo thành những dải ngói nhô lên
dọc xuôi theo mái, khiến toàn bộ mái toát nên một vẻ cứng cáp, mạnh mẽ. Ở trên
đỉnh mái, phần nóc mái được xây cao lên hình chữ nhật như một cái hộp, cũng có
một số trường hợp hai bên tường hồi cũng được xây cao hẳn làm cho toàn bộ tổng
thể dường như bị mất cân đối.
Mái ngói âm dương
Cửa trước mỗi nhà đều có đôi mắt cửa, đó là hai cái núm gỗ tròn chạm hình âm
dương, bát quái hay mặt hổ, rồng. Trang trí nội thất trong nhà rất cầu kỳ và đẹp
mắt. Đá lót chân cột trạm trổ hình hoa sen hoặc hình vuông với những đườn viền.
Trần vad rường cột cũng được chạm khắc tinh xảo.Hình thức và cách trang trí của
tường hồi luôn gây một ấn tượng mạnh và là yếu tố tạo ra giá trị rất riêng của phố
cổ Hội An.
![]()
![]()
![]()
![]()
• Nguồn hình ảnh: sách Không gian văn hóa nhà cổ Hội An NXB Dân Trí
Chạm trổ của nhà cổ Quân Thắng (nguồn: Internet)
Tuy nhiên do mang nhiều nét văn hóa khác nhau nên những nhà cổ Hội An cũng
có nhiều nét khác biệt lẫn nhau.
Nhà cổ ở Hội An có thể phân chia thành năm phong cách chính: ( nguồn: Internet
)
- Phong cách đầu tiên là nhà một gian được xây bằng gỗ. Những ngôi nhà này
được xây dựng từ những năm ở thế kỉ thứ 18 và 19. Chúng nằm rải rác trên các
trục đường Trần Phú, Nguyễn Thái Học. Ngôi nhà điển hình cho lối kiến trúc này
là ngôi nhà số 48 Trần Phú
Nguồn: Internet
- Phong cách thứ hai là nhà hai tầng với mái hiên. Những ngôi nhà này được xây
dựng vào cuối thế kỉ thứ 19, đầu thế kỉ 20. Một ví dụ điển hình là vị trí 5 Nguyễn
Thị Minh Khai
- Phong cách thứ ba là nhà hai tầng, sàn gỗ, có ban công. Hầu hết chúng được
xây dựng vào cuối thế kỉ thứ 19, đầu thế kỉ 20.