Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

các giải pháp nâng cấp chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.69 KB, 77 trang )

i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
o0o
Công trình tham dự Cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học trường Đại học Ngoại
thương năm 2013-2014
Tên công trình: Các giải pháp nâng cấp chuỗi giá trị chè
trồng tại tỉnh Phú Thọ
Nhóm ngành: Kinh tế và kinh doanh 2 (KD2)
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
ii
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH v
DANH MỤC HỘP v
DANH MỤC BẢNG v
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1:
KHUNG LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CHÈ TRỒNG TẠI TỈNH
PHÚ THỌ 5
1.1.
Khái niệm Chuỗi giá trị 5
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
Khung lý thuyết Filière 5
Chuỗi giá trị của Michael Porter 6
Khung lý thuyết Chuỗi giá trị của Raphael Kaplinsky và Mike Morris
…………………………………………………………………………6
1.2.
Ý nghĩa của việc phân tích chuỗi giá trị 10


1.2.1.
1.2.2.
Góp phần đánh giá sức cạnh tranh hệ thống 10
Giúp các doanh nghiệp và các quốc gia tìm cách thức hữu hiệu tham
gia vào thị trường toàn cầu 10
1.3.
Các yếu tố cần phân tích theo cách tiếp cận theo chuỗi giá trị 11
1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.
1.3.4.
1.3.5.
Quản trị chuỗi giá trị 11
Phân loại chuỗi giá trị 16
Phân phối lợi ích kinh tế trong chuỗi 18
Rào cản gia nhập chuỗi 19
Nâng cấp chuỗi giá trị 20
CHƯƠNG 2:
PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CHÈ TRỒNG TẠI TỈNH PHÚ THỌ 23
2.1.
T ổng quan v ề điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên ảnh hưởng đến
ngành chè Phú Thọ 23
2.1.1.
2.1.2.
L ịch sử ngành chè tỉnh Phú Thọ 23
Nh ững đặc trưng cơ bả n của sản phẩ m chè t ỉnh Phú Th ọ 23
iii
2.1.3.
S ự phù h ợp của điều ki ện tự nhiên củ a t ỉnh Phú Thọ với sự phát triển
củ a cây chè 24

2.2.
2.3.
Mô tả chuỗi giá trị chè tỉnh Phú Thọ 25
Quản trị chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ 29
2.3.1.
Đặc điểm quản trị của mỗi chủ thể trong chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh
Phú Thọ 29
2.3.2.
Kiểu quản trị của chuỗi giá trị chè Phú Thọ 30
2.4.
2.5.
2.6.
Loại hình chuỗi giá trị chè Phú Thọ 31
Phân phối lợi ích kinh tế trong chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ
…………………………………………………………………………….32
Rào cản gia nhập chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ 35
2.6.1.
Kiến thức về chuỗi giá trị 35
2.6.2. Khả năng công nghệ, tài chính, tổ chức, tiếp thị 36
2.6.3. Sự tương thích với các chức năng của chuỗi 39
2.7.
Đánh giá chung về chuỗi giá trị chè tỉnh Phú Thọ 40
2.7.1.
2.7.2.
2.7.3.
Người trồng chè 40
Người thu gom chè 40
Cơ sở, doanh nghiệp chế biến chè 41
TÓM TẮT CHƯƠNG 2 43
CHƯƠNG 3:

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CẤP CHUỖI GIÁ TRỊ CHÈ TRỒNG TẠI TỈNH PHÚ
THỌ 45
3.1.
3.2.
Định hướng nâng cấp chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ 45
Đề xuất các giải pháp nâng cấp chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ
…………………………………………………………………………….49
3.2.1.
3.2.2.
Nhóm giải pháp vĩ mô 49
Nhóm giải pháp vi mô 53
KẾT LUẬN 60
iv
PHỤ LỤC 1:
PHIẾU ĐIỀU TRA NGÀNH CHÈ TẠI TỈNH PHÚ THỌ
CƠ SỞ, DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT 65
PHỤ LỤC 2:
PHIẾU ĐIỀU TRA NGÀNH CHÈ TẠI TỈNH PHÚ THỌ
HỘ GIA ĐÌNH SẢN XUẤT 69
v
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Bốn đối tượng trong một chuỗi giá trị đơn giản 8
Hình 1.2: Các chuỗi giá trị giao nhau giữa một số ngành 9
Hình 2.1: Mô hình chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ 26
Hình 2.2: Phân phối lợi nhuận trong chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ 34
DANH MỤC HỘP
Hộp 2.1: Sự quản trị trong chuỗi giá trị chè của công ty TNHH Một thành viên chè
Phú Bền 31
Hộp 2.2: Công ty TNHH MTV chè Phú Bền với tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực
phẩm chặt chẽ 38

Hộp 3.1: Nâng cấp toàn chuỗi và nâng cấp quy trình tại công ty TNHH Một thành
viên Thế hệ mới Phú Thọ 58
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Ba đặc điểm của quản trị trong chuỗi giá trị 13
Bảng 1.2: Các nhân tố quyết định đến quản trị chuỗi 16
Bảng 1.3: Sự khác nhau giữa chuỗi hàng hóa do người bán chi phối và chuỗi hàng
hóa do người mua chi phối 17
Bảng 1.4: Nâng cấp trong chuỗi giá trị 22
Bảng 2.1: Đặc điểm chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ 32
Bảng 2.2: Phân phối lợi ích trong chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ 34
Bảng 2.3: Ma trận SWOT của người trồng chè 40
Bảng 2.4: Ma trận SWOT của người thu gom chè 41
Bảng 2.5: Ma trận SWOT của cơ sở, doanh nghiệp chế biến chè 42
Bảng 3.1: Ma trận SWOT của ngành chè tỉnh Phú Thọ 46
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 5/8/2008, tại Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương khoá X đã
ban hành Nghị quyết số 26-NQ/T.Ư "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, trong
đó đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng các vùng sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, rau,
hoa hàng hoá tập trung, trước hết là các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến
và xuất khẩu”. Điều này cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước với cây công
nghiệp, trong đó có cây chè.
Chè là loại cây công nghiệp dài ngày, được trồng nhiều ở các tỉnh trung du,
miền núi phía Bắc và trên các cao nguyên cao ở Tây Nguyên. Tại Phú Thọ - một
tỉnh miền núi vùng Đông Bắc Việt Nam. Ở đây, sản xuất chè không chỉ đáp ứng
nhu cầu của nhân dân mà còn là nguồn cung cấp cho thị trường xuất khẩu. Xác định
đây là cây mũi nhọn thực hiện nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo, tỉnh Phú Thọ đã tập
trung phát triển cây chè, liên tục giữ vị trí thứ 3 về sản lượng, thứ 4 về diện tích trên
tổng số 35 tỉnh trồng chè của cả nước. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông

thôn Phú Thọ, năm 2012, năng suất chè búp tươi của tỉnh đạt 9,09 tấn/ha (cao hơn
bình quân cả nước: khoảng 8 tấn/ha).
Mặc dù có nhiều ưu thế và đạt được những thành quả đáng khích lệ, nhưng
chất lượng chè của tỉnh chưa cao, giá chè thấp và không ổn định – chỉ khoảng 60%
so với giá chè bình quân thế giới. Vậy, câu hỏi đặt ra là: Những gì tỉnh Phú Thọ đã
và đang làm liệu đã khai thác hết tiềm năng của ngành chè chưa, và tỉnh còn có thể
làm những gì để gia tăng giá trị sản phẩm chè?
Vì lý do trên, nhóm nghiên cứu chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Các giải
pháp nâng cấp chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ” là đề tài nghiên cứu cho
cuộc thi Sinh viên Nghiên cứu Khoa học 2014.
2
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ những năm 80, đã có rất nhiều các nghiên cứu về cây chè, nhưng các tài
liệu chủ yếu đề cập đến vấn đề kĩ thuật trồng, giống cây, Về vấn đề phát triển
ngành chè và việc xuất khẩu chè Việt Nam nói chung, số lượng bài viết, bài nghiên
cứu được công bố ít hơn, bắt đầu được chú ý từ đầu thế kỉ 21 – khi quá trình toàn
cầu hóa được đẩy mạnh.
Các công trình nghiên cứu quốc tế liên quan gồm có:
Nhóm nghiên cứu thứ nhất quan tâm nhiều đến sự tham gia của người nghèo
vào chuỗi giá trị chè. Năm 2004, Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asian Development
Bank) đã nghiên cứu chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ và Thái Nguyên nhằm
xác định lợi ích mà người nghèo (người trồng chè) đạt được trong chuỗi giá trị này.
Ngoài ra, nghiên cứu có nêu ra những hạn chế của chuỗi giá trị chè nhưng chưa nêu
cụ thể làm sao để nâng cấp chuỗi giá trị này.
Tháng 6/2008, Sanne van der Wal, dưới góc nhìn của phát triển bền vững và
xoá đói giảm nghèo, đã nêu lên các vấn đề khó khăn của ngành chè nói chung, và
đưa ra kinh nghiệm của các nước đứng đầu trong ngành chè như những giải pháp
tham khảo. Cuối nghiên cứu có đề cập đến trường hợp ngành chè của Việt Nam,
nhưng tác giả chỉ dừng lại ở liệt kê các tiềm năng và thách thức với ngành chè Việt
Nam.

Nhóm thứ hai nghiên cứu vấn đề này đứng dưới góc nhìn của các doanh
nghiệp chè. Năm 2010, nhóm nghiên cứu của nhóm ThS. Lương Thị Ngọc Oanh,
Ths. Nguyễn Thị Hải Yến và Sørensen OJ đã mô tả chuỗi giá trị chè Việt Nam
(chọn Hà Nội, Thái Nguyên và Phú Thọ để nghiên cứu) và đề cập tới các lựa chọn
để tạo thêm giá trị gia tăng. Tuy nhiên, các giải pháp đưa ra mang tính lý thuyết mà
chưa xét nhiều tới tính khả thi.
Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan gồm có:
Nhóm thứ nhất nghiên cứu năng lực cạnh tranh và khả năng xuất khẩu của
ngành chè. Tiêu biểu là nghiên cứu của TS. Nguyễn Hữu Khải, năm 2006: “Cây chè
Việt Nam – Năng lực cạnh tranh xuất khẩu và phát triển”. Nghiên cứu đã phân tích
điểm mạnh và yếu của ngành chè Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao
3
năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu từ phía Nhà nước và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, do chưa chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trong khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp nên giải pháp được đưa ra còn mang tính lý thuyết, chưa cụ
thể và thậm chí không khả thi với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm số lượng lớn
trên thị trường chè Việt Nam).
Nhóm thứ hai nghiên cứu ngành chè dựa trên cở sở lý luận về chuỗi giá trị.
Năm 2004, T.S. Trần Công Thắng chủ nhiệm đề tài “Sự tham gia của người nghèo
trong chuỗi giá trị nông nghiệp: Nghiên cứu đối với ngành chè", tập trung phân tích
hoạt động của chuỗi giá trị chè và lợi ích của người nghèo khi họ tham gia vào
chuỗi giá trị và nâng cao năng lực để hỗ trợ sự phát triển thị trường cho người
nghèo thông qua các hoạt động nghiên cứu, phát triển mạng lưới buôn bán và các
chính sách xúc tiến thương mại. Đề tài có ý nghĩa nghiên cứu vào thời điểm 2003-
2004 khi ngành chè Việt Nam vừa thoát thời kì khủng hoảng về thị trường xuất
khẩu. Sau đó, Luật Doanh nghiệp ra đời năm 2005, đã có nhiều doanh nghiệp chế
biến chè ra đời mà không cần có vùng nguyên liệu, điều này dẫn đến nhiều vấn đề
mà đề tài chưa đề cập đến liên quan đến việc thu gom chè tươi.
Vì vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi: “Các giải pháp nâng cấp chuỗi giá
trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ” không trùng lặp với các công trình đã được công

bố.
3. Đối tượng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu
+ Đối tượng: chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ (2008-2013)
+ Mục tiêu: Đề tài phân tích chuỗi giá trị chè với chè nguyên liệu trồng tại
tỉnh Phú Thọ nhằm đưa ra các giải pháp nâng cấp chuỗi giá trị này.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Kế thừa, tổng hợp, phân tích kết quả nghiên cứu của các đề tài đi trước, các
báo cáo có liên quan đến nội dung đề tài để làm cơ sở lý luận và tham khảo.
- Phỏng vấn thông qua bảng hỏi.
- Phỏng vấn chuyên gia: trao đổi, lấy ý kiến từ một số nhà quản lý doanh
nghiệp chế biến, sản xuất chè tại tỉnh Phú Thọ.
4
Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay có 56 doanh nghiệp chè vừa và nhỏ, và
hơn 200 cơ sở chế biến chè nhỏ lẻ. Trước hết, nhóm nghiên cứu dùng các thông tin
thứ cấp, dùng bảng hỏi để phỏng vấn thông qua bảng hỏi với một số doanh nghiệp
(5 doanh nghiệp), cơ sở chế biến chè nhỏ lẻ (5 cơ sở) và người trồng chè (5 người)
để có cái nhìn chung về toàn chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ. Sau đó, nhóm
tác giả thực hiện phỏng vấn chuyên gia là một số chủ doanh nghiệp đi đầu của tỉnh
để trao đổi, lấy ý kiến về công tác sản xuất kinh doanh của tỉnh.
5. Phạm vi nghiên cứu
+ Không gian: phạm vi nghiên cứu của đề tài là ngành chè trồng tại tỉnh Phú
Thọ
+ Thời gian: giai đoạn nghiên cứu từ năm 2008 – năm bắt đầu thực hiện nghị
quyết TƯ 7, cũng là từ khi các công ty chè ở tỉnh Phú Thọ bắt đầu được thành lập,
đến nay.
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến
Nhóm nghiên cứu mong muốn đạt được các kết quả sau:
- Làm rõ lý thuyết về chuỗi giá trị
- Mô tả, phân tích chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ
- Đánh giá tính khả thi của các cách nâng cấp đối với chuỗi giá trị chè trồng

tại tỉnh Phú Thọ, từ đó đưa ra giải pháp nâng cấp đối với chuỗi giá trị này
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
bảng biểu, đề tài gồm 3 chương chính:
Chương I: Khung lý thuyết phân tích chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ
Chương II: Phân tích Chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ
Chương III: Các giải pháp nâng cấp chuỗi giá trị chè trồng tại tỉnh Phú Thọ
5
CHƯƠNG 1:
KHUNG LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CHÈ
TRỒNG TẠI TỈNH PHÚ THỌ
Cho tới nay, đã có nhiều khung lý thuyết về chuỗi giá trị được đưa ra. Tuy
nhiên, nhóm tác giả chọn khung lý thuyết về chuỗi giá trị theo phương pháp tiếp cận
toàn cầu của Kaplinsky làm nền tảng cho những phân tích tiếp theo trong chương 2
và chương 3. Phần đầu chương này khái quát hệ thống các khung lý thuyết và giải
thích cho sự lựa chọn khung lý thuyết của Kaplinsky cho bài nghiên cứu, phần còn
lại của chương đưa ra những nội dung cơ bản nhất về khung lý thuyết này.
1.1.
Khái niệm Chuỗi giá trị
Có ba khung lý thuyết chính phân tích chuỗi giá trị: Filière, Chuỗi giá trị của
Michael Porter, Chuỗi giá trị của Raphael Kaplinsky và Mike Morris.
1.1.1. Khung lý thuyết Filière
Vào những năm 60 của thế kỉ 20, các học giả Pháp lần đầu tiên xây dựng lý
thuyết này. Filière (dòng, mạch) miêu tả dòng vận chuyển của các đầu vào vật chất
và dịch vụ để sản xuất ra sản phẩm hay dịch vụ cuối cùng. Những phân tích ban đầu
đã nhấn mạnh tác động lên nền kinh tế nội địa của quan hệ đầu vào – đầu ra giữa
các doanh nghiệp và hiệu quả thu được từ lợi thế kinh tế nhờ quy mô, chi phí vận
chuyển, chi phí giao dịch, Về sau, phương pháp này chú trọng đặc biệt đến cách
thức kết nối giữa hệ thống sản xuất địa phương, công nghệ chế biến, thương mại,
xuất khẩu và khâu tiêu dùng cuối cùng.

Dựa trên việc nghiên cứu sơ đồ dòng chảy của hàng hoá và xác định những
đối tượng tham gia vào dòng đó, Filière về cơ bản khá gần với phân tích chuỗi giá
trị hiện nay. Tuy nhiên, chuỗi giá trị theo Filière chỉ được xem xét ở trạng thái tĩnh
(tại một thời điểm nhất định), tập trung vào các mối quan hệ vật chất và kỹ thuật
định lượng mà chưa phân tích trong điều kiện thay đổi của các dòng hàng hoá, thậm
chí tri thức và các tác nhân khác. Thêm vào đó, rào cản theo chiều ngang cũng
không được nhấn mạnh. Do đó, nó không thích hợp với nền kinh tế toàn cầu hoá
hiện nay và chỉ ứng dụng cho chuỗi giá trị nội địa.
6
1.1.2. Chuỗi giá trị của Michael Porter
Năm 1985, GS. Michael Porter đã nhắc tới khái niệm “Chuỗi giá trị” (Value
Chain) trong cuốn “Competitive Advantage” khi khảo sát các hệ thống sản xuất,
thương mại và dịch vụ rất phát triển ở Mỹ và các quốc gia phát triển khác.
Theo Porter, đối với một doanh nghiệp, các hoạt động sơ cấp (primary
activities - trực tiếp góp phần tăng giá trị cho sản xuất hàng hoá) và các hoạt động
hỗ trợ (support activites - ảnh hưởng gián tiếp đến giá trị cuối cùng của sản phẩm)
kết nối chặt chẽ với nhau, tạo nên “chuỗi giá trị”. Chuỗi giá trị là tổng thể các hoạt
động liên quan đến sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm/dịch vụ. Giá trị tạo ra của
chuỗi bao gồm tổng các giá trị tạo ra tại mỗi công đoạn của chuỗi. Hầu hết, để sản
xuất ra một sản phẩm, cần có nhiều doanh nghiệp, tổ chức. Họ lại liên kết với nhau
tạo nên “Hệ thống giá trị” (Value system) – khái niệm này cũng giống như khái
niệm Filière. Ở đây rõ ràng đang xét đến liên kết dọc.
Nhưng, mục đích của Porter là làm thế nào để một công ty có lợi thế cạnh
tranh hơn đối thủ (bằng chiến lược cạnh tranh chi phí thấp hoặc tạo sự khác biệt)1 .
Do đó, cái mà công ty hướng đến chính là làm sao để mình phát triển tốt nhất, trong
khi không tính đến sự hoạt động của cả “hệ thống giá trị” sẽ ra sao. Đây cũng là
thiếu sót của phân tích Porter, vì tại thời điểm ra đời của Lý thuyết này, xu hướng
toàn cầu hoá và hiệu quả hệ thống chưa xuất hiện.
1.1.3. Khung lý thuyết Chuỗi giá trị của Raphael Kaplinsky và Mike
Morris

Khung lý thuyết Chuỗi giá trị của Rapheal Kaplinsky và Mike Morris khai
thác theo phương pháp tiếp cận toàn cầu là hướng đi mới nhất được áp dụng để
phân tích chuỗi giá trị.
Khung lý thuyết này cũng đề cập đến lý thuyết của Gary Gereffi trước đó.
Giữa thập niên 90, Gereffi và một số học giả đưa ra khái niệm “Chuỗi hàng hoá
Đó là làm thế nào để một công ty có thể cung cấp cho khách hàng một loại hàng hoá hay dịch vụ có giá trị
tương đương với đối thủ cạnh tranh của mình nhưng với chi phí thấp hơn (chiến lược cạnh tranh chi phí thâp)
hoặc làm thế nào để một công ty có thể sản xuất một mặt hàng mà khách hàng muốn mua với giá cao hơn
(chiến lược tạo sự khác biệt).
7
toàn cầu” (Global Commodity Chain). Không phải “chuỗi giá trị” trong nội bộ một
doanh nghiệp như Porter, “Chuỗi hàng hoá” của Gereffi đề cập đến “một mạng lưới
của các quá trình lao động sản xuất để mang đến sản phẩm cuối cùng”. Đặc trưng
của những chuỗi này là có một hoặc nhiều nhóm chi phối cả chuỗi (chịu trách
nhiệm nâng cấp hoạt động của từng đối tượng trong mạng lưới và điều phối sự
tương tác giữa chúng). Dựa trên đặc điểm này, Gereffi chia Chuỗi hàng hoá thành 2
loại: chuỗi hàng hoá do người bán/sản xuất (producer) chi phối và chuỗi hàng hoá
do người mua chi phối (Điều này sẽ được giải thích rõ hơn ở phần 3.1). Sau đó, vào
năm 2005, Gary Gereffi cũng nghiên cứu về Chuỗi giá trị. Trong chương này, nhóm
tác giả không đề cập đến tất cả nội dung của khung lý thuyết này, mà chỉ đi sâu khai
thác những khía cạnh lý thuyết làm nền tảng cho phân tích ở chương 2 và chương 3.
Ngoài ra, lý thuyết của Gary Gereffi sẽ được đề cập khi cần thiết để bổ sung cho
khung lý thuyết của Raphael Kaplinsky.
Theo Kaplinsky, có sự khác nhau giữa “chuỗi giá trị đơn giản” và “chuỗi giá
trị mở rộng”. “Chuỗi giá trị đơn giản là chuỗi các hoạt động cần thiết để đưa một
sản phẩm/dịch vụ từ khi còn là ý tưởng, qua các công đoạn sản xuất khác nhau (liên
quan đến sự kết hợp, chuyển hoá vật chất những yếu tố đầu vào của các dịch vụ sản
xuất khác nhau) đến khi được phân phối tới người tiêu dùng cuối cùng, kể cả việc
xử lý sản phẩm đã qua sử dụng (final disposal after use)”. Chuỗi giá trị đơn giản
được mô tả như trong Hình 1. hoạt động sản xuất chỉ là một phần của chuỗi giá trị,

và bản thân hoạt động này cũng bao gồm nhiều hoạt động khác. Các hoạt động
trong chuỗi có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau chứ không chỉ theo một chiều từ điểm
đầu đến điểm cuối. Nhưng, chuỗi giá trị đơn giản chỉ được xây dựng mang ý nghĩa
nền tảng lý thuyết, trong thực tế, chuỗi giá trị phức tạp hơn rất nhiều.
8
Hình 1.1: Bốn đối tượng trong một chuỗi giá trị đơn giản
Thiết kế Sản xuất
Marketing Tiêu
thụ
Thiết kế và
nghiên cứu
- Logistics hướng nội
- Chuyển hoá
và tái chế
- Đầu vào
- Đóng gói
Nguồn: Kaplinsky & Morris, 2010
“Chuỗi giá trị mở rộng” là một phức hợp các hoạt động do nhiều người tham
gia (người sản xuất sơ cấp, người gia công chế biến, nhà buôn, người cung cấp dịch
vụ,…) để biến một nguyên liệu thô thành thành phẩm và được đưa ra bán. Như vậy,
các hoạt động thuộc từng đối tượng trong chuỗi giá trị đơn giản đã trở thành một
đối tượng trong chuỗi giá trị mở rộng. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, sự phân tách
như thế này rõ ràng là mô tả chính xác hơn chuỗi giá trị đơn giản (cũng như Chuỗi
giá trị và hệ thống giá trị của Porter), ví dụ: các chi tiết được sản xuất ở một nước,
lắp ráp ở một nước, tiêu thụ lại ở một nước khác. Hơn thế, giữa các chuỗi giá trị
khác nhau cũng có sự giao thoa. Ví dụ được mô tả trong Hình 2. Trong đó, nhà sản
xuất trung gian (“lâm nghiệp, “nhà máy cưa”) tham gia vào nhiều chuỗi giá trị khác
nhau, và mỗi chuỗi giá trị hấp thu một phần sản phượng của họ. Một đối tượng có
thể có vai trò then chốt trong một chuỗi giá trị này nhưng lại chỉ là phần tương đối
nhỏ trong một chuỗi giá trị khác.

9
Hình 1.2: Các chuỗi giá trị giao nhau giữa một số ngành

Lâm nghiệp
Giấy và bột
Khai thác
Xây dựng
giấy
Nhà máy
cưa
Đồ gỗ
khoáng sản
Công ty
nước ngoài

Nguồn: Kaplinsky & Morris, 2010
Theo khung lý thuyết này, việc mô tả chuỗi giá trị được thực hiện như sau:
+ Thứ nhất, xác định các chức năng mà chuỗi thực hiện. Tùy vào từng lĩnh
vực, phạm vi và mục tiêu của nghiên cứu mà sự lựa chọn về chức năng này sẽ thay
khác nhau giữa các chuỗi.
+ Thứ hai, xác định các đối tượng nào thực hiện chức năng nào của chuỗi, có
thể một đối tượng thực hiện nhiều chức năng và một chức năng được thực hiện bởi
nhiều đối tượng khác nhau trong chuỗi.
+ Thứ ba, lập sơ đồ chuỗi giá trị: Sắp xếp các chức năng và đối tượng tham
gia chuỗi thành sơ đồ dọc chuỗi, theo dòng luân chuyển của sản phẩm
+ Cuối cùng là xác định sự liên kết, cách thức giao dịch giữa các tác nhân
trong chuỗi giá trị.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phân biệt hai khái niệm: chuỗi giá trị và chuỗi
cung ứng (Supply Chain). Hiểu một cách đơn giản, chuỗi cung ứng bao gồm các
mạng lưới phòng ban và sự lựa chọn phân phối nhằm thực hiện chức năng thu mua

nguyên vật liệu, biến đổi nguyên vật liệu, và phân phối đến người tiêu dùng. Chuỗi
cung ứng dường như là một công cụ để Chuỗi giá trị đạt được mục tiêu.
10
1.2.
Ý nghĩa của việc phân tích chuỗi giá trị
1.2.1.
Góp phần đánh giá sức cạnh tranh hệ thống
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá nhanh chóng hiện nay, sức cạnh tranh hệ
thống có vai trò rất quan trọng – để có được tính hiệu quả của cả hệ thống, người ta
có thể chấp nhận sự phi hiệu quả tại một điểm của hệ thống.
Phân tích chuỗi giá trị đảm bảo tính tổng thể ấy được xem xét: không tập
trung vào một đối tượng cụ thể tham gia vào chuỗi mà tập trung phân tích mối liên
kết giữa các đối tượng: đâu là người có nhiều lợi ích, quyền lực nhất trong chuỗi,
các đối tượng trong chuỗi ảnh hưởng đến nhau như thế nào, liên kết giữa các đối
tượng trong chuỗi là lỏng lẻo hay chặt chẽ, và phân phối lợi ích được tạo ra ở từng
đối tượng ra sao.
Nếu không có phân tích chuỗi giá trị, mỗi đối tượng sẽ chỉ thấy, chỉ quan tâm
đến hoạt động nội bộ của mình, làm mọi cách để mình có quyền lực nhất, “phình
to” nhất có thể mà không biết rằng việc đó có thể làm giảm tính hiệu quả của cả hệ
thống. Ví dụ, người trồng chè muốn tăng lợi nhuận bằng mọi cách nên hái chè dài
hơn, già hơn, và không cần biết các doanh nghiệp sẽ phải mất thêm chi phí để sàng
lọc lại chè, và chất lượng chè sẽ giảm sút. Điều này được nói rõ hơn ở chương 2.
1.2.2.
Giúp các doanh nghiệp và các quốc gia tìm cách thức hữu hiệu
tham gia vào thị trường toàn cầu
Xu hướng toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ mang đến cho các quốc gia, các
doanh nghiệp không chỉ cơ hội phát triển mà cả những nguy cơ bị thiệt hại. Nhưng
vấn đề không phải là có nên tham gia vào nền kinh tế toàn cầu hay không, vì dưới
áp lực từ các tổ chức đa phương (WTO, IMF, và Ngân hàng thế giới) và hầu hết
chính phủ các nước, các nước chống đối cũng đang bị buộc phải tự hoà nhập sâu sắc

hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Vấn đề ở đây là: tham gia vào toàn cầu hoá như thế
nào để tranh thủ được những lợi ích từ xu hướng này, và phân tích chuỗi giá trị là
công cụ tốt để tìm ra câu trả lời.
Khi phân tích chuỗi giá trị, nhà nghiên cứu sẽ lập sơ đồ một cách hệ thống
các bên tham gia vào sản xuất, phân phối, tiếp thị, bán hàng một sản phẩm cụ thể.
Việc lập sơ đồ này đánh giá các đặc điểm của những người tham gia, cơ cấu lãi và
11
chi phí, dòng hàng hoá trong chuỗi, đặc điểm việc làm và khối lượng, điểm đến của
hàng hoá được bán trong nước hay nước ngoài. Đối với một quốc gia, phân tích
chuỗi giá trị sẽ làm rõ đâu là hoạt động tạo ra nhiều giá trị gia tăng và bản chất các
nhân tố năng lực sản xuất, công nghệ, đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia để có
dự báo chính xác: ngành nào cần tập trung đầu tư và đầu tư ra sao nhằm phát huy
lợi thế so sánh. Đối với một doanh nghiệp, phân tích chuỗi giá trị làm rõ vị trí của
doanh nghiệp trong chuỗi, đối tượng nào trong chuỗi có tác động lớn, tìm ra nhân tố
quyết định năng lực tại mỗi đối tượng, hiểu rõ mạng lưới phối kết hợp, duy trì và
phát triển mối quan hệ với các đối tượng, tiến hành nâng cấp để vừa đạt lợi ích kinh
tế cao hơn lại bền vững hơn.
1.3.
Các yếu tố cần phân tích theo cách tiếp cận theo chuỗi giá trị
1.3.1.
Quản trị chuỗi giá trị
1.3.1.1.
Quản trị chuỗi giá trị theo Kaplinsky
Theo Kaplisky, quản trị chuỗi giá trị không chỉ là sự cộng tác trong những
hoạt động giữa các chủ thể trong chuỗi mà còn là sự hợp tác ở nhiều vị trí khác
nhau trong các liên kết để đảm bảo rằng các ảnh hưởng (nội bộ ngành, liên ngành
hoặc khu vực) được quản lí. Quản trị chuỗi ảnh hưởng đến các yếu tố của thị
trường: loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm, cách thức sản xuất, giá cả sản phẩm,…
Quyền lực không cân xứng là nguyên nhân chính dẫn tới sự quản trị: có
những chủ thể chủ chốt trong chuỗi phân phối công việc, chức năng và quyết định

quyền hạn của các chủ thể khác. Điều này ngày càng quan trọng bởi trong thời đại
toàn cầu hóa, giao dịch thương mại đòi hỏi một hình thức hợp tác, liên kết phức tạp,
không đơn giản chỉ là việc được giao vào một vị trí nhất định với những quyền hạn,
nhiệm vụ nhất định mà còn trong mối quan hệ của sự kết nối, hòa nhập các chủ thể
để tạo ra sản phẩm cuối cùng với các tiêu chuẩn chất lượng mà sự hội nhập này tạo
nên. Hợp tác thường liên quan đến việc quản lí những tiêu chuẩn vì chúng yêu cầu
phải quản lí đầu ra, kết nối những hoạt động rời rạc giữa những chủ thể khác nhau,
thành lập và quản lí những mối quan hệ giữa nhiều chủ thể bao gồm liên kết, tổ
chức hậu cần tới duy trì mạng lưới quốc gia, khu vực và cả quốc tế. Đó chính là
chức năng của sự hợp tác và chức năng bổ sung trong việc xác định những cơ hội
12
tìm kiếm lợi ích kinh tế và chia nhỏ các chức năng, nhiệm vụ cho các chủ thể chủ
chốt, một trong những phần quan trọng trong việc quản trị.
Tuy nhiên, quản trị không đòi hỏi một doanh nghiệp nào đó đảm nhận những
nhiệm vụ này: có thể có nhiều điểm nút quản trị và hợp tác trong một chuỗi giá trị.
Những điểm nút này có thể thay đổi theo thời gian vì sự nổi bật của những doanh
nghiệp, chủ thể luôn luân chuyển trong chuỗi.
Theo Kapinsky (2002), quản trị (hay còn gọi là sự phân chia quyền lực) có 3
chức năng quan trọng: ban hành luật lệ, thi hành luật lệ và giám sát việc tuân thủ
luật lệ.
Thứ nhất, ban hành luật lệ nói đến các nguyên tắc cơ bản xác định điều kiện
gia nhập chuỗi. Trong quá khứ, những luật lệ này được gắn với việc đáp ứng tiêu
chuẩn chi phí cơ bản và đảm bảo nguồn cung cấp, nhưng cùng với sự lan rộng của
cách quản lí của người Nhật trong thập niên 90, những yếu tố đảm bảo thành công
quan trọng bao hàm cả những tiêu chuẩn QPD (Q: chất lượng, P: giá, D: đảm bảo
vận chuyển uy tín). Gần đây, quy định gia nhập ngày càng gần tới sự tuân thủ các
tiêu chuẩn quốc tế như ISO9000 (về chất lượng), ISO14000 (về môi trường)
Những luật lệ này như là tiêu chuẩn cơ bản của việc gia nhập chuỗi có thể được gọi
là “quản trị lập pháp. Thứ hai, để đáp ứng những quy định gia nhập, cần có “quản
trị thi hành”, kiểu quản trị cung cấp sự hỗ trợ tới những chủ thể trong chuỗi giá trị

trong việc đáp ứng những qui định hoạt động, ví dụ như quản lí mạng lưới cấp dưới
trong chuỗi. Quản trị thi hành này có thể trực tiếp (ví dụ như giúp nhà cung cấp đáp
ứng được tiêu chuẩn chất lượng) hoặc gián tiếp (ép nhà cung cấp đầu tiên giúp các
nhà cung cấp cấp hai, hoặc giới thiệu họ tới các đơn vị dịch vụ có thể hỗ trợ trong
việc đáp ứng các yêu cầu này). Cuối cùng là thi hành luật (“quản trị tư pháp”) là
việc rà soát các hoạt động và kiểm tra sự tuân thủ những luật lệ.
Cần chú ý rằng: một chủ thể có thế đảm nhiệm cả ba vai trò. Ví dụ, trong
ngành sản xuất ô tô, Toyota xác lập luật lệ yêu cầu các nhà cung cấp phải đáp ứng,
giám sát hoạt động của họ và chủ động giúp các nhà cung cấp hoàn thành mục tiêu.
Tuy nhiên, trong thực tế, hiếm khi cả ba chức năng được thực hiện bởi một bên, đó
là một trong những lí do giải thích tại sao lí thuyết chuỗi cung ứng lại khó khăn
13
trong việc giải thích sự phổ biến của những chuỗi giá trị không hiệu quả trong thực
tế.
Bảng 1.1: Ba đặc điểm của quản trị trong chuỗi giá trị
Nguồn: Kapinsky & Morris, 2010
Có một số điều cần lưu ý với quản trị chuỗi như sau:
Thứ nhất, khi sự quản trị chuỗi không được thực thi đúng, một chủ thể sẽ
được cho vào/loại ra khỏi chuỗi, hoặc bị giới hạn quyền hạn hay bị phạt tài chính.
Nhưng ngược lại, nhưng hoạt động của một chủ thể diễn ra tốt thì chủ thế đó sẽ
không bị giám sát nhiều như trước.
Thứ hai là sự tuân thủ, chấp hành luật lệ một cách có ý thức. Quản trị chuỗi
giá trị được đặt trong mức độ tin tưởng lẫn nhau giữa các bên, cụ thể là “người quản
trị”. Trong chuỗi thiếu sự tin tưởng, người cung cấp thường xuyên bị thay đổi để
Tiến hành bởi chủ thể trong chuỗi
Tiến hành bởi chủ thể
ngoài chuỗi
Quản trị lập pháp
Thiết lập tiêu chuẩn cho những
nhà cung cấp trong mối quan hệ

với việc vận chuyển đúng thời
hạn, tần suất vận chuyển và chất
lượng
Tiêu chuẩn về môi trường,
Tiêu chuẩn về lao động trẻ
em
Quản trị tư pháp
Quản lí hoạt động của những nhà
cung cấp trong việc đáp ứng tiêu
14
chạy theo nguồn lợi ngắn hạn và không làm theo những ước muốn của nhà quản trị
dẫn tới việc nhanh chóng bị loại ra khỏi chuỗi. Những mối quan hệ thiếu sự tin
tưởng này đã tạo nên nền sản xuất đại trà. Ngược lại, hệ thống sản xuất linh hoạt
hiện đại (còn được gọi là “tùy biến đại chúng”), lòng tin ngày càng trở nên quan
trọng, và việc không đạt được mức độ tiêu chuẩn yêu cầu không có nghĩa sẽ bị loại
bỏ ngay lập tức, thay vào đó quản trị thi hành được tiến hành để hỗ trợ các bên vi
phạm đáp ứng những tiêu chuẩn. Những mối quan hệ tin tưởng trong chuỗi có thể
tạo nên một chuỗi giá trị phát triển bền vững.
Cuối cùng là mức độ thâm nhập và sự phổ biến rộng rãi của sự quản trị. Mức
độ thâm nhập là mức độ mà quản trị ảnh hưởng tới các hoạt động cốt lõi của từng
chủ thể riêng lẻ trong chuỗi. Cách hiểu về quản trị chuỗi giá trị được thay đổi
thường xuyên bởi sự phức tạp của những mối quan hệ trong thực tế và rất nhiều
chuỗi giá trị được định tính dựa theo nhiều nhà quản trị, thường đặt ra những quy
tắc xung đột cho những nhà sản xuất hạn chế về nguồn lực, phục vụ những nhu cầu
của họ.
1.3.1.2.
Quản trị chuỗi giá trị theo Gary Gereffi
Cũng giống quan điểm của Kaplinsky, Gary Gereffi cho rằng quản trị là phần
rất quan trọng với bất kì chuỗi giá trị nào. Nhưng, ông không phân tích quản trị
chuỗi trên cơ sở việc đặt ra các tiêu chuẩn, luật lệ mà phân chia các chuỗi thành các

kiểu quản trị khác nhau, đánh giá dựa trên các tiêu chí nhất định.
Gereffi phân quản trị chuỗi giá trị thành 5 kiểu như sau:
+ Kiểu quản trị thị trường: là kiểu đơn giản nhất trong quản trị chuỗi giá trị.
Thông tin trao đổi tương đối đơn giản nên dễ dàng được hệ thống hóa, và sự phối
hợp giữa các bên cũng không phức tạp. Trên thị trường, người mua dễ dàng chấp
nhận chất lượng và giá cả sản phẩm người bán đưa ra; do đó, lượng hàng tồn sẽ ít
và biến động thị trường nằm trong tầm kiểm soát.
+ Kiểu quản trị mẫu (module): Không còn giống kiểu thị trường, ở đây, nhà
cung cấp sản xuất các sản phẩm theo quy cách phẩm chất chi tiết người mua đặt ra.
Tuy nhiên, khi đó, nhà cung cấp phải chịu mọi trách nhiệm kĩ thuật, máy móc chung
15
nhằm giới hạn khoản đầu tư trong một giao dịch cụ thể và bỏ ra kinh phí cho các
nguyên vật liệu hộ khách hàng.
+ Kiểu quản trị quan hệ: trong mạng lưới này chúng ta có thể thấy những
tương tác phức tạp giữa người mua và người bán, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau và
tính đặc trưng cao. Nó có thể được xây dựng dựa theo danh tiếng, quan hệ gia đình,
lòng tin. Việc xây dựng lòng tin là cả một quá trình dài nên chi phí chuyển sang đối
tác mới cao hơn hai kiểu quản trị trước.
+ Kiểu quản trị ràng buộc: Những nhà cung cấp nhỏ trở nên phụ thuộc vào
những người mua lớn. Nhà cung cấp phải đối mặt với chi phí chuyển đổi đối tác lớn
và do đó trở nên bị ràng buộc. Những mạng lưới kiểu này thường được phân hóa
dựa theo mức độ cao trong quản trị và kiểm soát của các công ty đứng đầu.
+ Kiểu quản trị phân quyền: Hình thức quản trị được tạo ra bởi những hội
nhập theo chiều dọc: kiểm soát từ cấp quản lí tới nhân viên cấp dưới, từ trụ sở chính
tới các chi nhánh và công ty con.
Lý thuyết quản trị của Gereffi được phát triển dựa theo các yếu tố:
+ Sự phức tạp của thông tin và chuyển giao kiến thức để duy trì một giao
dịch (transaction) cụ thể, đặc biệt đối với sản phẩm và quy trình sản xuất.
+ Mức độ mà thông tin và kiến thức này có thể được hệ thống hóa, và do đó
có thể truyền tải hiệu quả mà không cùng với giao dịch cho những khoản đầu tư cụ

thể giữa các bên tham gia giao dịch.
+ Khả năng của những nhà cung cấp tiềm năng và thực tế trong việc đáp ứng
những yêu cầu của giao dịch.
+ Mức độ hợp tác và bất đối xứng quyền lực
Các kiểu quản trị có thể được tóm tắt trong bảng sau.
16
Bảng 1.2: Các nhân tố quyết định đến quản trị chuỗi
Nguồn: Gary Gereffi, John Humphrey, Timothy Sturgeon, 2005
1.3.2.
Phân loại chuỗi giá trị
Dựa trên khái niệm quản trị, Gereffi (1994) phân loại hai dạng chuỗi hàng
hóa: chuỗi hàng hóa do người mua chi phối và chuỗi hàng hóa do người bán chi
phối. Chuỗi hàng hóa do người mua chi phối là đặc tính của những ngành công
nghiệp sử dụng nhiều lao động (thường xuất hiện tại các nước đang phát triển) như
sản xuất quần áo, nội thất, đồ chơi. Trong chuỗi hàng hóa do người bán chi phối,
những nhà sản xuất chính thường nắm giữ những công nghệ kĩ thuật quan trọng,
quyền phối hợp, quản lí các liên kết trong chuỗi. Tại đây, họ chịu trách nhiệm hỗ trợ
những nhà cung cấp và cả khách hàng của họ. Gereffi chỉ ra rằng những chuỗi hàng
hóa do người bán chi phối thường được tạo dựng bởi nguồn đầu tư trực tiếp nước
ngoài FDI hơn là những chuỗi hàng hóa do người mua chi phối. Ông cũng nhấn
mạnh rằng mỗi loại khác nhau của chuỗi giá trị lại liên kết với một loại hệ thống sản
xuất khác nhau (Bảng 3).
Chuỗi hàng hóa do người bán chi phối là những chuỗi mà những tập đoàn đa
quốc gia hay những nhà sản xuất lớn nắm những vai trò quan trọng trong việc phối
hợp và quản lí mạng lưới sản xuất (bao gồm cả liên kết trước và sau). Đây là đặc
tính của những ngành công nghiệp có vốn lớn và công nghệ cao như điện thoại di
động, máy bay, máy tính, vật liệu bán dẫn, và công nghiệp nặng.
Kiểu quản trị
Sự phức tạp
của giao dịch

Khả năng hệ
thống hóa giao
dịch
Khả năng của
nhà cug cấp
Mức độ hợp
tác và bất đối
xứng quyền
17
Chuỗi hàng hóa do người mua chi phối thường liên quan đến những ngành
công nghiệp mà người bán lẻ và những nhà sản xuất có thương hiệu nắm giữ vai trò
quan trọng trong việc tạo lập mạng lưới sản xuất phi tập trung tại các quốc gia xuất
khẩu, chủ yếu tại các nước đang và kém phát triển. Mô hình này ngày càng phổ biến
tại những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và sản xuất tiêu dùng như
may mặc, đồ chơi, đồ điện gia dụng, và hàng loạt hàng thủ công mĩ nghệ.
Bảng 1.3: Sự khác nhau giữa chuỗi hàng hóa do người bán chi phối và chuỗi hàng
hóa do người mua chi phối
Nguồn: Gary Gereffi, 1994
Tuy nhiên, không phải chuỗi hàng hóa nào cũng thể hiện rõ ràng sự quản trị
của người mua/người bán – có thể có sự kết hợp giữa hai loại chuỗi này và cùng
một loại hàng hóa, có thể có chuỗi được quản trị theo hướng người bán chi phối, có
thể được quản trị theo hướng người mua chi phối.
Chuỗi hàng hóa do người
bán chi phối
Chuỗi hàng hóa do người
mua chi phối
Yếu tố chi phối chuỗi
Vốn công nghiệp
Vốn thương mại
Thành phần cốt lõi

Nghiên cứu & Phát triển,
Sản xuất
Thiết kế, Marketing
Rào cản gia nhập
Qui mô kinh kế
Phạm vị kinh tế
Thành phần kinh tế
Tiêu dùng lâu bền, Sản
phẩm trung gian, tư liệu
sản xuất
Sản phẩm tiêu dùng ngắn
hạn
Ngành công nghiệp tiêu
18
Chuỗi hàng hóa tập trung phân tich hàng hóa hữu hình, nhưng lý thuyết
chuỗi giá trị (Gereffi, 2005 và Kaplinsky, 2002) bổ sung thêm đối với hàng hóa vô
hình (dịch vụ). Những phân tích từ chuỗi hàng hóa vẫn còn đúng với các hàng hóa
vô hình.
1.3.3.
Phân phối lợi ích kinh tế trong chuỗi
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, khoảng cách thu nhập trong một nước và
giữa các nước ngày càng tăng. Việc phân tích phân phối lợi ích trong chuỗi giá trị
(ở đây có thể hiểu là lợi nhuận) có thể giúp giải thích sự mất cân xứng này và từ đó
tìm ra hướng giải quyết.
Quá trình phân tích phân phối lợi ích một chuỗi có thể tóm tắt thành ba bước.
Đầu tiên, ta phân tích tổng thu nhập được tạo ra trong chuỗi thành những phần nhỏ
hơn mà từng chủ thể nhận được. Thứ hai là tìm hiểu phân phối thu nhập qua thời
gian. Cuối cùng, tập trung vào các tổ chức chi phối sự chuyên môn hóa, đưa ra
hướng thay đổi mô hình phân phối.
Điểm mấu chốt trong phân tích phân phối kết quả sẽ được tìm thấy trong tập

trung vào thu nhập thu được, cái mà duy trì trong những phần khác nhau của chuỗi,
hơn là lợi nhuận. Có hai điều quan trong được rút mà mà ta cần ghi nhớ là:
Thứ nhất, tính toán tỉ lệ đầu ra trên lao động. Trong trường hợp này, chúng ta
cần tập trung vào giá trị gia tăng (bằng giá trị đầu ra trừ đi chi phí đầu vào) hơn là
tổng giá trị bán hoặc xuất khẩu trong mỗi liên kết trong chuỗi. Lí do rất đơn giản –
ví dụ, người mua gần đỉnh chuỗi giá trị chỉ đóng một phần rất nhỏ trong tổng giá trị
gia tăng của toàn chuỗi, nhưng sẽ chiếm một phần lớn trong giá trị doanh thu.
Thứ hai, mặc dù thu nhập bình quân duy trì trong bất kì liên kết trong chuỗi
có thể giúp hệ thống phân phối doanh thu địa phương, nó chỉ nói lên rất ít về phân
phối kết quả trong bất kì liên kết nào trong chuỗi hoặc trong một khu vực. Do đó
những thu nhập này cần được phân tích và ở đây sự phân tích liên quan đến phản
ánh việc tập trung vào điều tra. Ví dụ, nó có thể là cái mà những nhà kinh tế gọi là
phân tích chức năng (giữa lao động và vốn), hoặc có thể là phân chia giới, hoặc là
sự phân chia giữa người lao động có tay nghề và không có tay nghề.
19
1.3.4.
Rào cản gia nhập chuỗi
Như đã phân tích ở các phần trước, một chuỗi giá trị mang lại rất nhiều lợi
ích. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thâm nhập sâu vào chuỗi
giá trị, đặc biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất cơ bản (primary producers). Rào
cản gia nhập chuỗi hay những vấn đề về liên kết ngang trong chuỗi sẽ lý giải cho
điều này.
1.3.4.1.
Kiến thức về chuỗi giá trị
Đây là nguyên do đầu tiên cần nhắc đến trong các rào cản gia nhập không chỉ
với chuỗi giá trị mà với tất cả các hoạt động kinh tế nào. Kiến thức không chỉ gồm
có những vấn đề lý thuyết như khái niệm, tầm quan trọng, cách thức hoạt động và
phát triển một chuỗi giá trị mà còn bao gồm kinh nghiệm làm việc.
Với những ngành công nghiệp với yêu cầu về trình độ người lao động thấp,
việc tham gia vào chuỗi giá trị rất đơn giản. Những ngành công nghiệp yêu cầu

trình độ người lao động cao, số lượng lao động sẽ ít hơn. Không chỉ có người lao
động, tất cả các đối tượng trong chuỗi và cả nhà nước đều có thể bị vướng mắc với
rào cản này.
1.3.4.2.
Khả năng công nghệ, tài chính, tổ chức, tiếp thị
Sự thiếu khả năng của doanh nghiệp hàm ý đến 4 yếu tố: công nghệ, nguồn
tài chính, tổ chức, tiếp thị.
Khả năng trong công nghệ là việc đầu tư cho nghiên cứu và phát triển
(R&D), cho máy móc sản xuất. Một ngành công nghiệp đòi hỏi công nghệ càng
hiện đại, phải có vốn đầu tư lớn thì rào cản gia nhập càng lớn.
Tổ chức hướng đến các chương trình cải tiến liên tục, kết quả hàng tồn kho
và chất lượng, thời gian sản xuất/kinh doanh.
Tiếp thị đề cập tới chi phí quảng cáo, việc xây dựng thương hiệu.
Các doanh nghiệp không quan tâm, hoặc không đủ nguồn lực tài chính, nhân
sự để phát triển các yếu tố trên là nguyên nhân lớn dẫn đến sự lạc hậu trong dây
chuyền sản xuất, chất lượng sản phẩm không đảm bảo. Do đó họ không đủ tiêu
chuẩn để có thể hợp tác với các đối tác phát triển hơn, nên không thể tham gia vào
chuỗi giá trị lớn.
20
1.3.4.3.
Sự tương thích giữa các đối tượng của chuỗi
Tất cả các đối tượng trong chuỗi đều có thể gặp khó khăn về sự tương thích.
Mỗi một chủ thể có một đặc tính riêng và không phải thích hợp với mọi chuỗi giá
trị. Cùng cung cấp sản phẩm nông sản, nhưng chuỗi cung ứng đồ ăn nhanh lại cần
có nhà cung cấp khác với chuỗi cung ứng đồ ăn thường. Hơn thế nữa, giữa các đối
tượng trong chuỗi cũng cần sự kết hợp hài hoà. Không có mối quan hệ tốt, các chủ
thể mới khó có thể tham gia vào một chuỗi giá trị, đặc biệt khi chuỗi có sẵn mức độ
liên kết cao giữa các đối tượng.
Trên đây nêu ra 3 rào cản quan trọng nhất, nhưng suy cho cùng chúng đều có
nguồn gốc từ thiếu kiến thức về chuỗi giá trị. Đặc biệt, việc thiếu kiến thức của các

nhà lãnh đạo – nguồn chính của kiến thức cho nông dân và doanh nghiệp, được xem
như rào cản quan trọng nhất. Rào cản gia nhập càng lớn, mức độ sinh lợi càng cao.
Do đó, việc nghiên cứu Rào cản gia nhập (hay hiểu đơn giản là khó khăn của doanh
nghiệp để tham gia chuỗi giá trị) rất quan trọng, không chỉ với doanh nghiệp ngoài
chuỗi muốn tham gia vào chuỗi mà còn với các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị
đang nghiên cứu.
1.3.5.
Nâng cấp chuỗi giá trị
Nâng cấp trong chuỗi giá trị là quá trình các đối tượng trong chuỗi (người lao
động, doanh nghiệp, quốc gia) chuyển từ những hoạt động tạo ra giá trị thấp sang
những hoạt động tạo ra giá trị cao hơn, với tốc độ nhanh hơn các đối thủ khác, từ đó
nâng cao vị trí của mình trong chuỗi. Nhưng làm thế nào để một chủ thể biết họ có
thể nâng cấp hoạt động của mình? Theo Hamel và Pralahad (1994), việc đầu tiên là
phải tìm ra “năng lực cốt lõi” (core competence), là những năng lực có đặc điểm:
- Mang lại giá trị cho khách hàng sau cùng
- Tương đối đặc trưng (gần như không đối thủ nào có được)
- Khó bắt chước (có hàng rào cản trở sự tham gia hoạt động)
Sự nâng cấp bắt nguồn từ sự phát triển năng lực cốt lõi đã tìm được và khai thác
thêm nguồn lực bên ngoài với các chức năng không đáp ứng 3 tiêu chí trên. Leonard
Barton (1995) lại đưa ra ý kiến khác, rằng năng lực cốt lõi có thể trở thành sự cứng

×