Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính tại công ty cổ phần đầu tư sao đỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.61 KB, 91 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp Thiết
Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải
tận dụng mọi cơ hội, huy động và sử dụng tối ưu các nguồn lực nhằm đạt được mục
tiêu lợi nhuận. Phát triển nền kinh tế thị trường, chủ động tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế là xu hướng không thể khác của nền kinh tế Việt Nam. Việc gia nhập WTO
của Việt Nam tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức lớn cho các nhà quản trị
doanh nghiệp Việt Nam, đòi hỏi các chủ thể doanh nghiệp Việt Nam phải đưa ra các
quyết định đúng đắn, kịp thời để tận dụng cơ hội, hạn chế các rủi ro, hướng tới tồn
tại và phát triển.
Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đã thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới
từ khi gia nhập WTO nên các vấn đề tài chính và tiền tệ được xem như một nhân tố
hàng đầu. Trong bối cảnh như thế thì làm thế nào để làm chủ tình hình tài chính để
sử dụng vốn một cách hiệu quả được coi là một nhân tố cơ bản quyết định sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp.
Vì vậy, việc hiểu rõ được thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp
mình để làm cơ sở hoạch định những chiến lược phù hợp cho tương lai cũng như
đưa ra những giải pháp để ổn định và phát triển doanh nghiệp ở hiện tại. Có thể
khẳng định, phân tích tài chính giúp các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính có cái
nhìn sâu hơn, toàn diện hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp mà họ quan
tâm và đây cũng là công việc không thể thiếu trong công tác quản lý tài chính của
doanh nghiệp, nó có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp.
Trong xu thế đó, Công ty Cổ phần Đầu tư Sao Đỏ đã nắm bắt cơ hội và phát
triển ngày càng lớn mạnh, góp phần tích cực cho ngành xây dựng và dịch vụ của
thành phố. Xuất phát từ những hiểu biết như trên và từ thực trạng tình hình tài chính
của Công ty cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban Giám đốc, cán bộ Công ty Cổ
phần Đầu tư Sao Đỏ cộng với sự hướng dẫn của Thầy Vương Toàn Thuyên, tôi đã
tìm hiểu, nghiên cứu công tác quản lý vốn của Công ty và thực hiện đề tài: “Biện
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính tại Công ty cổ phần Đầu tư Sao
đỏ” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
1


2. Mục đích nghiên cứ u
 Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến hiệu quả hoạt động tài
chính của một

doanh nghiệp.
 Đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của công ty cổ phần Đầu Tư Sao Đỏ
 Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính tại
công ty cổ phần Đầu Tư Sao Đỏ.
3. Đ ối tư ợng và phạm vi nghiên cứ u của đề tài

Thực trạng hoạt động tài chính tại công ty cổ phần Đầu Tư Sao Đỏ giai
đoạn 2009 – 2013.

Tính toán các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng lao động,
hiệu quả sxkd, hiệu quả tài chính… của công ty cổ phần Đầu Tư Sao Đỏ.

Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính tại công ty cổ phần Đầu
Tư Sao Đỏ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch

sử,
phân tích tài liệu, thống kê, so sánh và tổng hợp, dùng các bảng biểu số liệu

thực
tế để chứng minh, phân tích những vấn đề do đề tài đặt ra.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu làm 03 phần như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về doanh nghiệp và tài chính doanh nghiêp
Chương 2: Đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của công ty cổ phần đầu tư Sao

Đỏ
Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính tại công ty cổ phần
Đầu Tư Sao Đỏ.
2
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
1.1. DOANH NGHIỆP VÀ HOẠT ĐỘNG SXKD CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Doanh nghiệp
Theo Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vị lợi,
mặc dù thực tế một số tổ chức doanh nghiệp có các hoạt động không hoàn toàn
nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp 2005 thì hình thức pháp lý của các loại hình
doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn, (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) là doanh
nghiệp mà các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
- Công ty cổ phần, là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ
phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp.
- Công ty hợp danh, là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ
sở hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành

viên hợp danh). Thành viên hợp doanh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra, trong
công ty hợp danh còn có các thành viên góp vốn.
3
- Doanh nghiệp tư nhân, là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, được thành lập theo Luật đầu tư
nước ngoài.
Theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước của Quốc hội nước Việt Nam thì Doanh
nghiệp nhà nước, là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc
có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. So với doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp Nhà nước thường được cho là kém hiệu quả hơn, lợi nhuận thấp hơn. Tuy
nhiên, trong khi các công ty tư nhân chỉ phải tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông,
Doanh nghiệp Nhà nước thường phải gồng gánh một số trách nhiệm xã hội, hoạt
động vì lợi ích của người dân, được thành lập để đối phó với những thất bại của thị
trường. Điều đó dẫn đến việc các Doanh nghiệp Nhà nước không hướng đến và
cũng không cần cố gắng tối đa hóa lợi nhuận như các công ty tư nhân. Theo đó,
doanh nghiệp Nhà nước được chia thành:
- Công ty nhà nước, là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ,
thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp
Nhà nước. Công ty nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc
lập, tổng công ty nhà nước.
- Công ty cổ phần nhà nước, là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công
ty nhà nước hoặc tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt
động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, là công ty trách
nhiệm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và
đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

- Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có hai thành viên trở lên, là công ty
trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là công ty nhà nước hoặc có
thành viên là công ty nhà nước và thành viên khác là tổ chức được Nhà nước uỷ
quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
4
- Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước, là doanh
nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ,
Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
- Doanh nghiệp có một phần vốn của Nhà nước, là doanh nghiệp mà phần
vốn góp của Nhà nước trong vốn điều lệ chiếm từ 50% trở xuống.
- Công ty nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác, là công ty sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chiếm trên 50% vốn điều
lệ của doanh nghiệp khác, giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
- Công ty nhà nước độc lập, là công ty nhà nước không thuộc cơ cấu tổ chức
của tổng công ty nhà nước.
1.1.2 Hoạt động sxkd của doanh nghiệp
Đối với tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động
trong nền kinh tế, với các cơ chế quản lý khác nhau thì có các nhiệm vụ mục tiêu
hoạt động khác nhau. Ngay trong mỗi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng
có các mục tiêu khác nhau. Nhưng có thể nói rằng trong cơ chế thị trường ở nước ta
hiện nay, mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn ) đều
có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này mọi
doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh và phát triển
doanh nghiệp thích ứng với các biến động của thị trường, phải thực hiện việc xây
dựng các kế hoạch kinh doanh, các phương án kinh doanh, phải kế hoạch hoá các
hoạt động của doanh nghiệp và đồng thời phải tổ chức thực hiện chúng một cách có
hiệu quả.
Trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động quản trị trên,
các doanh nghiệp phải luôn kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm

tra đánh giá các hoạt động sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp cũng
như từng lĩnh vực, từng bộ phận bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp không
thể không thực hiện việc tính hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh
doanh đó. Vậy thì hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả
sản xuất kinh doanh) là gì? Để hiểu được phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động
5
sản xuất kinh doanh thì trước tiên chúng ta tìm hiểu xem hiệu quả kinh tế nói chung
là gì. Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về hiệu
quả kinh tế:
- Theo P. Samerelson và W. Nordhaus thì: "Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã
hội không thể tăng sản lượng một loạt hàng hoá này mà không cắt giảm một loạt
sản lượng hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng
sản xuất của nó". Thực chất của quan điểm này đã đề cập đến khía cạnh phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Việc phân bổ và sử dụng các nguồn
lực sản xuất trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu
quả cao. Có thể nói mức hiệu quả ở đây mà tác giả đưa ra là cao nhất, là lý tưởng và
không thể có mức hiệu quả nào cao hơn nữa.
- Có một số tác giả lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ
lệ giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Các quan điểm này mới chỉ
đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm chứ không phải của toàn bộ phần tham gia
vào quy trình kinh tế.
- Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa
kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho quan điểm
này là tác giả Manfred Kuhn, theo ông: "Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy
kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh". Đây là quan điểm được
nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả kinh tế của các
quá trình kinh tế.
- Hai tác giả Whohe và Doring lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh tế.
Đó là hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị
giá trị. Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. "Mối quan hệ tỷ lệ

giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg ) và lượng các nhân tố đầu vào
(giờ lao động, đơn vị thiết bị,nguyên vật liệu ) được gọi là tính hiệu quả có tính
chất kỹ thuật hay hiện vật", "Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh phải chỉ ra
trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là
tính hiệu quả xét về mặt giá trị" và "Để xác định tính hiệu quả về mặt giá trị người
ta còn hình thành tỷ lệ giữa sản lượng tính bằng tiền và các nhân tố đầu vào tính
bằng tiền". Khái niệm hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật của hai ông chính
6
là năng suất lao động, máy móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả
tính bằng giá trị là hiệu quả của hoạt động quản trị chi phí.
Một khái niệm được nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước quan tâm chú ý và
sử dụng phổ biến đó là: hiệu quả kinh tế của một số hiện tượng (hoặc một quá trình)
kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt
được mục tiêu đã xác định. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ phản ánh được tính
hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ các quan điểm về hiệu quả kinh tế thì có thể đưa ra khái niệm về hiệu quả
kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả sản xuất kinh doanh) của
các doanh nghiệp như sau: hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, tiền vốn và
các yếu tố khác) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
1.2 TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP.
1.2.1 Tài chính Doanh nghiệp:
1.2.1.1 Tổng quan: Tài chính doanh nghiệp là gì và vai trò của quản lý tài chính
trong doanh nghiệp quan trọng như thế nào? Mục tiêu của quản lý tài chính là gì?
Hoạt động của tài chính doanh nghiệp không thể tách rời các quan hệ trao đổi tồn
tại giữa các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế, do đó , không thể xem xét tài chính
của các doanh nghiệp nếu không đặt chúng trong một môi trường nhất định. Đó là
những vấn đề trọng tâm cần được làm rõ trước khi nghiên cứu tài chính doanh
nghiệp và quản lý tài chính doanh nghiệp.

Khái niệm: Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh
nghiệp với chủ thể trong nền kinh tế
1.2.1.2 Ý nghĩa của phân tích tài chính
Phân tích tài chính xét theo nghĩa khái quát thực chất là nghệ thuật phân tích
để giải thích các con số trên báo cáo tài chính .
Phân tích tình hình tài chính có thể coi là cơ sở cho việc lập kế hoạch tài
chính là công cụ quan trọng, không thể thiếu trong chức năng quản trị nhất là chức
năng kiểm tra, giám sát đánh giá và điều hành hoạt động kinh doanh để đạt được
các mục tiêu kinh doanh.
7
Qua việc phân tích tài chính sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan đầy đủ,
chính xác hơn tình hình phân phối, sử dụng và quản lý các loại tài sản, nguồn vốn
đồng thời tìm ra được những nguyên nhân tiềm ẩn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đề xuất những biện pháp thích
hợp để xử lý kịp thời.
1.2.1.3 Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của phân tích tình hình tài chính là xem xét tình trạng tài chính và
hoạt động của một công ty, đồng thời so sánh kết quả của kỳ này so với kỳ trước,
với các công ty khác nhau trong cùng lĩnh vực để chỉ ra những mặt mạnh cũng như
những thiếu sót để từ đó có các cơ sở để hoạch định tài chính dựa trên Báo cáo tài
chính của năm trước .
Cụ thể nhiệm vụ của phân tích tình hình tài chính bao gồm:
Đánh giá tình hình kết cấu tài sản, nguồn vốn như : xem xét việc phân bổ tài
sản, nguồn vốn có hợp lý hay không ? Xem xét mức độ đảm bảo vốn dùng cho sản
xuất, phát hiện những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thừa thiếu vốn. Từ đó đưa ra
những biện pháp có hiệu quả để khắc phục những yếu kém và khai thác triệt để
những năng lực tiềm tàng của doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh
Đánh giá tình hình và khả năng thanh toán của xí nghiệp, tình hình chấp
hành các chế độ, chính sách tài chính, tín dụng Nhà nước.

Đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và kết
quả tài chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán
Phân tích tình hình công nợ.
Phân tích khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
1.2.1.4. Mục đích của phân tích tình hình tài chính
Phân tích tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý tài
chính doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình
đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy
sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như : chủ
doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng kể cả các cơ quan Nhà nước
8
và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp trên các góc độ khác nhau.
Đối với người quản lý doanh nghiệp
Đối với người quản lý doanh nghiệp mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm
kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt
các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả
năng thanh toán nợ đến hạn cũng bị buộc phải ngừng hoạt động.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà quản lý doanh nghiệp phải
giải quyết ba vấn đề quan trọng sau đây :
Thứ nhất : Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với loại hình sản
xuất kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp.
Thứ hai : Nguồn vốn tài trợ là nguồn nào?
Để đầu tư vào các tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ, nghĩa là phải
có tiền để đầu tư. Các nguồn tài trợ đối với một doanh nghiệp được phản ánh bên
phải của bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc
vay nợ dài hạn, ngắn hạn. Nợ ngắn hạn có thời hạn dưới một năm còn nợ dài hạn có
thời hạn trên một năm. Vốn chủ sở hữu là khoản chênh lệch giữa giá trị của tổng tài
sản và nợ của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp sẽ huy động

nguồn tài trợ với cơ cấu như thế nào cho phù hợp và mang lại lợi nhuận cao nhất.
Liệu doanh nghiệp có nên sử dụng toàn bộ vốn chủ sở hữu để đầu tư hay kết hợp
với cả các hình thức đi vay và đi thuê? Điều này liên quan đến vấn đề cơ cấu vốn và
chi phí vốn của doanh nghiệp.
Thứ ba : Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như
thế nào?
Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ đến
vấn đề quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn
liền với các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần xử lý sự lệch
pha của các dòng tiền.
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi khía cạnh về tài chính doanh nghiệp,
nhưng đó là những vấn đề quan trọng nhất. Phân tích tài chính doanh nghiệp là cơ
sở để đề ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó.
9
Nhà quản lý tài chính phải chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và
dựa trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày để đưa ra các quyết định vì lợi
ích của cổ đông của doanh nghiệp. Các quyết định và hoạt động của nhà quản lý tài
chính đều nhằm vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp : đó là sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp, tránh được sự căng thẳng về tài chính và phá sản, có
khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa trên thương trường, tối thiểu hoá
chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng thu nhập một cách vững chắc. Doanh
nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt và mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu khi các quyết
định của nhà quản lý được đưa ra là đúng đắn. Muốn vậy, họ phải thực hiện phân
tích tài chính doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp là
những người có nhiều lợi thế để thực hiện phân tích tài chính một cách tốt nhất.
Trên cơ sở phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng
thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi,
nhà quản lý tài chính có thể dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh
lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó, họ có thể định hướng cho
giám đốc tài chính cũng như hội đồng quản trị trong các quyết định đầu tư, tài trợ,

phân chia lợi tức cổ phần và lập kế hoạch dự báo tài chính. Cuối cùng phân tích tài
chính còn là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý.
Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ là thời gian hoàn vốn,
mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài chính, tình
hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của các doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp Cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào
doanh nghiệp và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới việc
giảm giá cổ phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp.
Chính vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và
doanh lợi đạt được. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là khả năng
tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu trong doanh nghiệp.
Trước hết họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích các
thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hàng năm, các nhà đầu tư sẽ
đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp; từ đó
10
đưa ra những quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư vào một
dự án nếu ít nhất có một điều kiện là giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó
lượng tiền của dự án tạo ra sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một
mức lãi suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho
những người sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và cơ
cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi
trọng vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Ta biết rằng thu nhập của cổ
đông bao gồm phần cổ tức được chia hàng năm và phần giá trị tăng thêm của cổ
phiếu trên thị trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ
tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu tư vừa làm tăng
giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa các cổ đông chỉ chấp
nhận đầu tư mở rộng quy mô doanh nghiệp khi quyền lợi của họ ít nhất không bị
ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố như tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để
trả lợi tức cổ phần, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu

trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu
quả của việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu tư xem xét trước tiên khi thực hiện
phân tích tài chính.
Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp
Nếu phân tích tài chính được các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp thực
hiện nhằm mục đích đánh giá khả năng sinh lợi và tăng trưởng của doanh nghiệp thì
phân tích tài chính lại được các ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng thương mại
cho doanh nghiệp sử dụng nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Trong nội dung phân tích này, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được
xem xét trên hai khía cạnh là ngắn hạn và dài hạn. Nếu là những khoản cho vay
ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của
doanh nghiệp, nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với các món nợ khi
đến hạn trả. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả
năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ
tuỳ thuộc vào khả năng sinh lời này.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của
họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ chú ý đặc biệt
11
đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó so sánh
với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới
số vốn của chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường
hợp doanh nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay đổi theo bản
chất và theo thời hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay dài hạn hay
ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ
mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Đối với các nhà cung ứng vật tư hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp, họ phải
quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng hay không, họ
cần phải biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và trong thời gian
sắp tới.

Đối với người lao động trong doanh nghiệp
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp, người
được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin tài chính
của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp
có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao động.
Ngoài ra trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn mua
một lượng cổ phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những người chủ doanh nghiệp
nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà
nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động
kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo đúng
chính sách, chế độ và luật pháp quy định không, tình hình hạch toán chi phí, giá
thành, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng
Tóm lại, phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân
tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống
các phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ
các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét
một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những điểm mạnh và
12
điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để nhận biết, phán
đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
1.2.2 Hiệu quả hoạt động tài chính của doanh nghiệp
Hiệu quả hoạt động tài chính của doanh nghiệp thể hiện qua những nội dung
sau:
Thứ nhất doanh nghiệp nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp
với loại hình sản xuất kinh doanh cho phù hợp với loại hình sản xuất kinh doanh lựa
chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp và là cơ sở để dự
toán vốn đầu tư.
Thứ hai: Nguồn vốn đầu tư mà nhà doanh nghiệp có thể khai thác là nguồn

nào?
Thứ ba: Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế
nào? Chẳng hạn, việc thu tiền từ khách hàng và trả tiền cho nhà cung cấp? Đây là
các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ tới quản lý tài sản lưu
động của doanh nghiệp.
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp,
nhưng đó là ba vấn đề lớn nhất và quan trọng nhất đánh giá hiệu quả hoạt động tài
chính của doanh nghiệp.
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của doanh nghiệp
Phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả kinh doanh,
hiệu quả sử dụng vốn cố định. Phân tích các tỷ số tài chính như : Tỷ số về khả năng
thanh toán, tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn, tỷ số về khả năng hoạt
động, tỷ số về khả năng sinh lãi.
1.2.4 Tài liệu và phương pháp phân tích
1.2.4.1 Tài liệu dùng trong phân tích
Trong phân tích tái chính doang nghiệp nguồn số liệu chủ yếu là các báo cáo
tài chính kế toán như : Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh.Ngoài ra,
khi phân tích để lựa chọn phương án hình thành vốn kinh doanh còn cần các số liệu
về kế hoạch( dự kiến) về sự phát triển kinh doanh chu kỳ thanh toán tiền hàng, các
dự kiến về chi phí phát sinh trong qúa trình sản xuất kinh doanh.
13
Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của
một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính
phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định,
dưới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản. Xét về bản
chất, bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với vốn chủ sở
hữu và công nợ phải trả (nguồn vốn).
Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, tài liệu chủ yếu là bảng
cân đối kế toán.Thông qua nó cho phép ta nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quát

tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những
triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán có hai hình thức trình bày:
- Hình thức cân đối hai bên: Bên trái là phần tài sản, bên phải là phần nguồn
vốn.
- Hình thức cân đối hai phần liên tiếp: phần trên là phần tài sản, phần dưới là
phần nguồn vốn.
Mỗi phần đều có số tổng cộng và số tổng cộng của hai phần luôn luôn bằng
nhau.
Tài sản = Nguồn vốn
Hay Tài sản = Vốn chủ sở hữu+ Nợ phải trả
• Phần tài sản: Bao gồm có tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn
Về mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền
quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương
lai.
Về mặt kinh tế, các chỉ tiêu của phần tài sản cho phép đánh giá tổng quát về
quy mô vốn, cơ cấu vốn, quan hệ giữa năng lực sản xuất và trình độ sử dụng vốn
của doanh nghiệp.
• Phần nguồn vốn: Bao gồm công nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, phản
ánh các nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý, phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật
chất của doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn ( Nhà nước, ngân hàng, cổ
14
đông, các bên liên doanh ). Hay nói cách khác thì các chỉ tiêu bên phần nguồn vốn
thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh, về số
tài sản hình thành và trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ ( với người lao
động, với nhà cung cấp, với Nhà nước ).
Về mặt kinh tế, phần nguồn vốn thể hiện các nguồn hình thành tài sản hiện
có, căn cứ vào đó có thể biết tỷ lệ, kết cấu của từng loại nguồn vốn đồng thời phần
nguồn vốn cũng phản ánh được thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp.

Tác dụng của phân tích bảng cân đối kế toán:
+ Cho biết một cách khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua
các chỉ tiêu về tổng tài sản và tổng nguồn vốn.
+ Thấy được sự biến động của các loại tài sản trong doanh nghiệp : tài sản
lưu động, tài sản cố định.
+ Khả năng thanh toán của doanh nghiệp qua các khoản phải thu và các
khoản phải trả.
+ Cho biết cơ cấu vốn và phân bổ nguồn vốn trong doanh nghiệp.
Báo cáo kết quả kinh doanh
Một loại thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích
tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Khác với
bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh cho biết sự dịch chuyển
của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; nó cho phép dự tính
khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả sản xuất
kinh doanh đồng thời cũng giúp cho nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực
nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất
quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có thể xác định được kết quả sản
xuất kinh doanh : lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo kết quả kinh doanh phản
ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của một
doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp
về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ
quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tác dụng của việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
15
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh các chỉ tiêu về doanh thu,
lợi nhuận và tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước của doanh
nghiệp. Do đó, phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng cho ta đánh
giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp, biết được trong kỳ doanh nghiệp
kinh doanh có lãi hay bị lỗ, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và vốn là bao nhiêu. Từ
đó tính được tốc độ tăng trưởng của kỳ này so với kỳ trước và dự đoán tốc độ tăng

trong tương lai.
Ngoài ra, qua việc phân tích tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước,
ta biết được doanh nghiệp có nộp thuế đủ và đúng thời hạn không. Nếu số thuế còn
phải nộp lớn chứng tỏ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là không
khả quan.
Như vậy, việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ giúp ta có
những nhận định sâu sắc và đầy đủ hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Báo cáo luân chuyển tiền tệ
Báo cáo này phản ánh tất cả các thay đổi về tiền tệ theo 3 hoạt động: kinh
doanh, đầu tư và tài chính. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho ta biết doanh nghiệp có
bao nhiêu tiền vào đầu kỳ và còn lại bao nhiêu vào cuối kỳ. Kế tiếp, nó mô tả công
ty đã thu và chi bao nhiêu tiền trong một khoảng thời gian cụ thể. Việc sử dụng tiền
được ghi thành số âm, và nguồn tiền được ghi thành số dương.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ rất hữu ích vì nó cho biết liệu công ty có khả
năng chuyển các khoản phải thu thành tiền không - và về cơ bản, khả năng đó tạo
điều kiện cho công ty thanh toán các khoản nợ. Khả năng thanh toán nợ là khả năng
trả các hóa đơn khi đến hạn.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thể hiện các nguồn thu chi tiền của công ty, nói
cách khác là dòng tiền đi vào và đi ra của công ty. Báo cáo này giúp doanh nghiệp
biết cách tăng hoặc giảm lượng tiền thông qua các hoạt động của công ty, mua hoặc
bán tài sản, và các hoạt động tài chính.
Thuyết minh tài chính doanh nghiệp
Thuyết minh BCTC được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình
hoạt động sản xuất - kinh doanh, tình hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các bảng báo cáo khác không thể trình bày
16
rõ ràng và chi tiết. Qua đó, nhà đầu tư hiểu rõ và chính xác hơn về tình hình hoạt
động thực tế của doanh nghiệp
1.2.4.2.Phương pháp phân tích
Có rất nhiều phương pháp được sử dụng trong phân tích tài chính như

phương pháp so sánh, phương pháp cân đối, phương pháp thay thế liên hoàn,
phương pháp số chênh lệ, phương pháp chuỗi Dupont
Trong bài phân tích này chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh và phương
pháp chuỗi Dupont. So sánh năm này với năm khác về các khoản mục trên báo cáo
tài chính, kết cấu các khoản mục và các tỷ suất tài chính để thấy rõ xu hướng biến
đổi về tài chính. Từ đó, thấy được tình hình tài chính được cải thiện hoặc xấu đi như
thế nào nhằm đưa ra các biện pháp kịp thời. Khi tiến hành so sánh cần phải giải
quyết vấn đề về điều kiện so sánh và tiêu chuẩn so sánh.Bên cạnh đó sử dụng
phương pháp thay thế liên hoàn để xác định được mức độ ảnh hưởng của từng yếu
tố liên quan.
a) Phương pháp so sánh
Là phương pháp đơn giản và áp dụng rộng rãi nhất. So sánh trong phân tích kinh
tế là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hoá có cùng một
nội dung, cùng một tính chất tương tự nhau.
Phương pháp so sánh có nhiều dạng:
 So sánh các số liệu thực hiện với các số liệu định mức hay kế hoạch.
 So sánh số liệu thực tế giữa các kỳ các năm.
 So sánh số liệu với các đối thủ cạnh tranh.
 So sánh các thông số kỹ thuật - kinh tế của các phương án kinh tế khác.
Ưu điểm lớn nhất của phương pháp so sánh là cho phép tách ra được những nét
chung, nét riêng của hiện tượng được so sánh. Trên cơ sở đó đánh giá được các mặt
phát triển, hiệu quả hay kém hiệu quả để tìm các giải pháp quản lý hợp lý và tối ưu
trong mỗi trường hợp cụ thể.
Nguyên tắc khi áp dụng phương pháp so sánh: Các chỉ tiêu hay kết quả tính toán
phải tương đương nhau về nội dung và cách xác định.
Trong phân tích so sánh gồm có: so sánh số tuyệt đối, số tương đối và số bình
quân
17
- Số tuyệt đối: là số tập hợp trực tiếp từ các yếu tố cấu thành hiện tượng
kinh tế được phản ánh như tổng sản lượng, tổng chi phí lưu thông,

tổng lợi nhuận. Phân tích bằng số tuyệt đối cho thấy được khối lượng
quy mô của hiện tượng kinh tế.
Công thức tính: ΔC = C
1
– C
0.
Với ΔC – Giá trị biến động tuyệt đối
C
1
– Giá trị năm thực hiện so sánh (Số liệu kỳ phân tích).
C
0
– Giá trị năm liền trước đó (Số liệu kỳ gốc).
- Số tương đối: là số biểu thị dưới dạng phần trăm, số tỷ lệ hoặc hệ số.
Sử dụng số tương đối có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu các hiện tượng kinh
tế, đặc biệt cho phép liên kết các chỉ tiêu không tương đương để phân tích so sánh.
- Số bình quân: là số phản ánh mặt chung nhất của hiện tượng, bỏ qua
sự phát triển không đồng đều của các bộ phận cấu thành hiện tượng kinh tế. Số bình
quân có thể biểu hiện dưới số tuyệt đối (năng xuất lao động bình quân, vốn lưu
động bình quân) cũng có thể biểu thị dưới dạng số tương đối (tỷ suất phí bình quân,
tỷ suất doanh lợi).
b) Phương pháp thay thế liên hoàn
Phương pháp thay thế liên hoàn có thể áp dụng được khi mối quan hệ giữa các
chỉ tiêu và giữa các nhân tố, các hiện tượng kinh tế có thể biểu thị bằng một hàm số.
Thay thề liên hoàn thường được sử dụng để tính toán mức ảnh hưởng của các nhân
tố tác động cùng một chỉ tiêu được phân tích. Trong phương pháp này, nhân tố thay
thế là nhân tố được tính mức ảnh hưởng, còn các nhân tố khác giữ nguyên lúc đó so
sánh mức chênh lệch hàm số giữa cái trước nó và cái đã được thay thế sẽ tính được
mức ảnh hưởng của nhân tố được thay thế.
Chúng ta có thể khái quát mô hình chung cho phép thay thế liên hoàn:

Giả sử chỉ tiêu A có mối quan hệ với hai nhân tố, thể hiện dưới dạng hàm số sau:
A = f ( X, Y)
Và A
0
= f ( X
0
, Y
0
) là giá trị của chỉ tiêu A ở kỳ gốc.
A
1
= f ( X
1,
Y
1
) là giá trị của chỉ tiêu A ở kỳ phân tích.
Mức độ chênh lệch về số tuyệt đối giữa kỳ phân tích và kỳ gốc của chỉ tiêu A là A
Ta có: A = A
1
– A
0
18
Gọi x, y lần lượt là mức ảnh hưởng của các nhân tố X, Y đến sự biến động
về giá trị giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc của chỉ tiêu A.
- Mức độ ảnh hưởng của nhân tố X đến chỉ tiêu A là:
x = f ( X
1
, Y
0
) – f ( X

0,
Y
0
)
- Mức ảnh hưởng của nhân tố Y đến chỉ tiêu A là:
y = f ( X
1
, Y
1
) – f ( X
0,
Y
1
)
Khi đó: A = A
1
– A
0
= x + y
 Trình tự thay thế liên hoàn trong các tài liệu thường được quy định như sau:
- Nhân tố số lượng thay thế trước, nhân tố chất lượng thay thế sau.
- Nhân tố ban đầu thay thế trước, nhân tố thứ phát thay thế sau.
c) Phương pháp chuỗi Dupont
• Là phương pháp phân tích khả năng sinh lời của vốn chủ (ROE) dựa trên
khai triển Dupont
• Mục đích : tìm ra mối liên hệ giữa ROE và các chỉ tiêu ROA,ROS.SOA và tỷ
số nợ
• Đây là một công cụ rất tốt để cung cấp cho mọi người kiến thức căn bản
giúp tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của công ty.
1.3. NỘI DUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI DOANH NGHIỆP :

1.3.1. Đánh giá sự biến động của tài sản và nguồn vốn thông qua bảng cân đối
kế toán tại doanh nghiệp
Là việc so sánh tổng số tài sản và nguồn vốn cuối kỳ so với đầu kỳ, bên cạnh
đó còn phải xem xét từng khoản tài sản chiếm trong tổng tài sản, và từng khoản
mục nguồn vốn chiếm trong tổng nguồn vốn là cao hay thấp. Từ đó, có thể tiến
hành đối chiếu với yêu cầu kinh doanh, khả năng huy động vốn, sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
1.3.1.1. Đánh giá sự biến động của tài sản
Đánh giá sự biến động của tài sản của công ty thông qua việc so sánh tổng tài
sản giữa cuối kỳ với đầu kỳ hay với các năm trước. Bên cạnh đó còn phải xem xét
19
từng khoản tài sản chiếm trong tổng tài sản biến động như thế nào qua các kỳ kinh
doanh. Từ đó có thể rút ra được các kết luận cần thiết thông qua sự biến động đó.
1.3.1.2. Đánh giá sự biến động của nguồn vốn
Đánh giá sự biến động của nguồn vốn của công ty thông qua việc so sánh tổng
nguồn vốn giữa cuối kỳ với đầu kỳ hay với các năm trước. Bên cạnh đó cần phải
xem xét từng khoản nguồn vốn chiếm trong tổng nguồn vốn biến động như thế nào
qua các kỳ kinh doanh. Từ đó, thông qua tình hình biến động ta có thể đưa ra các
quyết định cần thiết trong việc huy động vốn vào quá trình sản xuất kinh doanh.
1.3.2. Đánh giá khái quát sự biến động tài chính thông qua bảng báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết hoạt động kinh doanh dùng để so sánh lợi nhuận thực hiện với lợi
nhuận kế hoạch và lợi nhuận các năm trước, để đánh giá tổng quát tình hình thực
hiện lợi nhuận của doanh nghiệp có đạt mức kế hoạch đề ra hay không và xu hướng
phát triển so với năm trước như thế nào. Đồng thời, ta cũng cần chú trọng xem xét
tỷ trọng về lợi nhuận của từng hoạt động trong tổng lợi nhuận chung của doanh
nghiệp. Từ đó giúp ta có cái nhìn đúng hơn về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
mình.
1.3.3. Tính toán và phân tích các tỷ số tài chính
Tính toán và phân tích tỷ số tài chính là kỹ thuật phân tích tài chính cơ bản và

quan trọng. Trước hết cần tiến hành so sách tổng tài sản và tổng nguồn vốn giữa
cuối kỳ và đầu năm, để thấy được quy mô vốn mà đơn vị sự dụng trong kỳ cũng
như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.Thông qua việc xác định các tỷ số tài
chính giúp ta có thể đo lường, đánh giá tình hình và hoạt động tài chính của công ty
mình quan tâm. Mặc dù có nhiều loại tỷ số tài chính khác nhau, nhưng nhìn chung
các hệ số thường xoay quanh các loại tỷ số cơ bản: Tỷ số kết cấu, tỷ số thanh toán,
tỷ số hoạt động, tỷ số sinh lợi, tỷ số đòn bẩy. Các tỷ số tài chính được tính và rút ra
từ bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Việc phân
tích các tỷ số tài chính để biết tỷ số hiện tại so với kỳ trước như thế nào, hoặc so với
20
các đối thủ cạnh tranh ra sao. Trên cơ sở đó đưa ra những chiến lược, phương án
kinh doanh hợp lý để ổn định và phát triển
Sơ đồ các chỉ số tài chính
1.3.3.1 Tỷ số về kết cấu tài sản và nguồn vốn
Phân tích kết cấu nguồn vốn là việc xem xét tỷ trọng từng loại nguồn vốn
chiếm trong tổng số nguồn vốn cũng như xu hướng biến động của tổng nguồn vốn
cụ thể. Qua đó đánh giá khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính cũng như mức độ độc
lập về mặt tài chính của công ty.
 Tỷ số tự tài trợ
21
Chỉ số này phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập về
mặt tài chính của doanh nghiệp.Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức độ độc lập về
mặt tài chính của doanh nghiệp vì hầu hết tài sản mà doanh nghiệp hiện có đều
được đầu tư bằng vốn của mình.
 Tỷ số tài trợ dài hạn
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói
chung và máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp.Chỉ tiêu này còn cho biết
năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Phân tích kết cấu tài sản bên cạnh việc so sánh tổng số tài sản cuối kỳ so với
đầu kỳ còn phải xem xét trong từng loại tài sản chiếm trong tổng số và xu hướng

biến động của chúng để thấy được mức độ hợp lý của việc phân bố
 Tỷ số cơ cấu tài sản ngắn hạn
 Tỷ số cơ cấu tài sản dài hạn
1.3.3.2 Tỷ số thanh toán
Tình hình và khả năng thanh toán của doang nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng
của công tác tài chính.Nếu hoạt động tài chính tốt doanh nghiệp ít công nợ, khả
năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng vốn cũng như ít bị chiếm dụng vốn.
22
Ngược lại, nếu hoạt động kém thì sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau
các khoản công nợ phải thu, phải trả sẽ dây dưa, kéo dài.
Tài liệu sử dụng để phân tích tình hình thanh toán chủ yếu là bảng cân đối kế
toán và bảng thuyết minh bổ sung báo cáo.
a. Phân tích tình hình thanh toán
Phân tích tình hình thanh toán để đánh giá tính hợp lý về sự biến động của
các khoản phải thu và các khoản phải trả để đưa ra những nhận định về thực trạng
tình hình tài chính của công ty; vạch rõ nguyên nhân ảnh hưởng đến việc thanh
toán, khả năng tiềm tàng giúp công ty làm chủ tình hình tài chính. Tình hình thanh
toán ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đôi khi nó cũng là vấn
đề sống còn của doanh nghiệp.
Nếu vốn bị chiếm dụng quá nhiều dẫn đến không đủ trang trải cho nhu cầu sẽ
làm giảm kết quả sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu khả năng thanh toán giảm sẽ
gây khó khăn cho tình hình tài chính, mất uy tín cũng như các mối quan hệ với
khách hàng, chủ đầu tư…điều này rất nguy hiểm.
+ Phân tích các khoản phải thu
Các khoản phải thu của doanh nghiệp bao gồm các khoản: phải thu khách
hàng, trả trước cho người bán, phải thu nội bộ ngắn hạn, các khoản phải thu khác.
Để phân tích các khoản phải thu ta dùng chỉ tiêu tỷ lệ các khoản phải thu với tổng
nguồn vốn.
Tỷ lệ các khoản phải thu với tổng nguồn vốn =


Chỉ tiêu này nhằm phản ánh trong tổng nguồn vốn huy động được thì có bao
nhiêu phần trăm vốn thực chất không tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh, đồng thời cũng là phần trăm vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng bởi
đơn vị khác.
+ So sánh tỷ lệ các khoản phải thu với các khoản phải trả
Ta xem xét chỉ tiêu tỷ lệ các khoản phải thu với các khoản phải trả để đánh
giá cẩn thận hơn về mặt đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
23
Tổng các khoản phải thu
x 100
Tổng nguồn vốn
Tỷ lệ các khoản phải thu với các khoản phải trả =
Qua tỷ lệ trên thể hiện khoản vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng so với số vốn
mà doanh nghiệp đi chiếm dụng. Nếu tỷ số này quá cao thể hiện số vốn của doanh
nghiệp bị chiếm dụng quá nhiều gây ra tình trạng thiếu vốn trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Tỷ lệ các khoản phải thu trên khoản phải trả tăng chứng tỏ doanh
nghiệp tích cực thu hồi các khoản nợ, tăng tính linh động.
b. Phân tích khả năng thanh toán
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của
mình các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn cần đến
nguồn tài trợ khác là vay nợ. Việc vay nợ này được thực hiện với nhiều đối tượng
và dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho dù là đối tượng nào đi chăng nữa thì để đi
đến quyết định có cho doanh nghiệp vay nợ hay không thì họ đều quan tâm đền khả
năng thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa
các khoản phải có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong
kỳ. Việc phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ
nợ giảm được rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn của mình mà còn
giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế để từ đó có biện
pháp kịp thời trong việc điều chỉnh các khoản mục tài sản cho hợp lý nhằm nâng

cao khả năng thanh toán.
Các tỷ lệ về thanh toán bao gồm :
+ Tỷ số thanh toán chung
Đây là chỉ số đo lường khả năng doanh nghiệp đáp ứng các nghĩa vụ tài
chính ngắn hạn. Là tỷ lệ được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn.
Tài sản lưu động thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các
khoản phải thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay
ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các
khoản phải trả khác Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định -
tới một năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán chung là thước đo khả năng thanh toán ngắn
24
Tổng các khoản phải thu
x 100
Tổng khoản phải trả
hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn
được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương
ứng với thời hạn của các khoản nợ đó.
Công thức của khả năng thanh toán chung như sau :
Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp càng tốt và ngược lại. Nói chung thì chỉ số này ở mức 1->2 được xem là tốt.
Chỉ số này càng thấp ám chỉ doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn đối với việc thực hiện
các nghĩa vụ của mình nhưng một chỉ số thanh toán hiện hành quá cao cũng không
luôn là dấu hiệu tốt, bởi vì nó cho thấy tài sản của doanh nghiệp bị cột chặt vào “ tài
sản lưu động” quá nhiều và như vậy thì hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp
là không cao.Vì thế mà việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả. Vấn đề này đòi hỏi nhà
doanh nghiệp phải phân bổ vốn như thế nào cho hợp lý.
+ Tỷ số thanh toán nhanh:
Một tỷ lệ thanh toán chung cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp
có thể đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với
chi phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản

mục trong tài sản lưu động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta cần
phải xét đến hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
Tỷ số thanh toán nhanh được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh
cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền, bao gồm : tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải thu.
Hàng tồn kho là tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ
bị lỗ khi đem bán. Do vậy, tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn
trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán dự trữ (tồn kho).
Tỷ số thanh toán chung (Rc) =
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Tỷ số thanh toán nhanh (Rq) =
TSNH – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
25

×