MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
- Tài nguyên thiên nhiên 33
TÓM TẮT LUẬN VĂN
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
- Tài nguyên thiên nhiên 33
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng của mọi quốc gia. Để
thực hiện và duy trì được mục tiêu đó thì mỗi nước nói chung phải có những bước
đi phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Đầu tư là điều kiện tiên quyết cho sự
phát triển. Do vậy cần phải trả lời được câu hỏi nguồn lực cho đầu tư phát triển ở
đâu? Cách thức huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư? Sự phát triển
kinh tế của các ngành và vùng lãnh thổ không chỉ là thành quả của đầu tư mà còn là
nơi thu hút đầu tư, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Hà giang là một tỉnh vùng cao, biên giới phía Bắc, điều kiện kinh tế xã hội còn
nhiều khó khăn. Trong những năm gần đây, Hà Giang đạt được những kết quả rất
đáng khích lệ về phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên Hà Giang vẫn là một tỉnh
nghèo và kém phát triển hơn so với các vùng khác trong nước. Bên cạnh đó vẫn còn
một số tiềm năng chưa được khai thác hiệu quả.
Xuất phát từ thực tế đó tôi đã lựa chọn đề tài: "Đầu tư phát triển tỉnh Hà
Giang: thực trạng và giải pháp" làm chuyên đề luận văn của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và
phương pháp luận để phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư phát triển trên địa bàn
tỉnh Hà Giang. Từ đó rút ra những mặt được, những mặt hạn chế và vấn đề còn tồn
tại cần phải giải quyết. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng
cường đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Hà Giang
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động đầu tư phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Giang giai đoạn 2004 – 2009.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt lý luận: đề cập những lý luận chung về đầu tư phát triển, phát triển trên địa
bàn tỉnh.
1
Về mặt thực tiễn: Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư phát triển kinh tế trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2004-2009, từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị
nhằm tăng cường hiệu quả phát triển kinh tế trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đảm bảo mục đích nghiên cứu nêu trên của đề tài, tập trung áp dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Dùng phương pháp duy vật biện chứng để xem xét vận động của sự vật trong
mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
- Dùng các phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp thống
kê, phân tích, nhằm xem xét đối tượng nghiên cứu một cách toàn vẹn và trong
trạng thái động.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu:
Hệ thống hoá và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển trên địa
bàn tỉnh.
Trên cơ sở nguồn lực, điều kiện tự nhiên và thực trạng phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh Hà Giang. Tôi đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu
tư phát triển trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong những năm tới.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục tham khảo, đề tài chia ra làm 3 phần như sau:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XẪ
HỘI TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2004-2009.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG
CƯỜNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỈNH HÀ
GIANG GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
Đề án này không tránh khỏi thiếu xót, rất mong nhận được sự những góp ý
của các thầy cô giáo để hoàn thiện hơn nữa. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
thầy giáo TS. Phạm Văn Hùng đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện hiện
đề án này.
2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động đầu tư phát triển trên địa
bàn tỉnh.
1.1.1. Khái niệm về đầu tư phát triển trên dịa bàn tỉnh
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn
lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực phải hy sinh đó có thể là tiền, tài
nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm
các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện ), tài
sản trí tuệ ( trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật,…) và nguồn nhân lực có đủ điều
kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Có nhiều cách phân loại đầu tư. Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do
đầu tư đem lại ngưòi ta phân chia ra thành ba loại đó là: đầu tư tài chính, đầu tư
thương mại và đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển tạo tiền đề để tăng tích lũy, phát
triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Ngược lại, đầu tư tài chính và
đầu tư thương mại hỗ trợ và tào điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển.
Khái niệm đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh: cũng như đầu tư phát triển nói
chung, đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi
dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra
những tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…),
gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển của tỉnh.
Đối tượng của đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh: là tập hợp các yếu tố được
chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm
phân công lao động xã hội thì có hai nhóm đối tượng chính là đầu tư theo ngành và
đầu tư theo lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư
được chia thành hai nhóm chính là công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình
phi lợi nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư được chia
3
thành loại được khuyến khích đầu tư, loại không khuyến khích đầu tư và loại bị cấm
đầu tư. Trên góc độ tài sản, đối tượng đầu tư được chia thành: những tài sản vật chất
và tài tài sản vô hình.
Kết quả của đầu tư phát triển tỉnh là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà
xưởng, thiết bị ), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, ) và tài sản
vô hình (những phát minh sáng chế, bản quyền ). Các kết quả của đầu tư góp phần
tăng thêm năng lực sản xuất cho xã hội.
Mục đích của đầu tư phát triển tỉnh là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc
gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống
của các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí, tối
đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực…
- Đầu tư phát triển thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định. Chủ
đầu tư là người sỡ hữu vốn hoặc được giao quản lý, sử dụng vốn đầu tư. Chủ đầu tư
chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát đầu tư, chịu trách nhiệm toàn diện về những sai
phạm và hậu quả do ảnh hưởng của đầu tư đến môi sinh và do đó, có ảnh hưởng
quan trọng đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư.
Các kết quả của hoạt động đầu tư phát triển tỉnh góp phần làm tăng thêm năng
lực sản xuất cho địa phương. Hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển phản ánh
quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế xã hội thu được với chi phí bỏ ra để đạt được
kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem xét trên cả phương
diện chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo kết hợp hài hòa giữa các loại lợi ích, phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của chủ đầu tư, vai trò quản lý, kiểm tra, giám sát của cơ
quan quản lý nhà nước các cấp.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động động đầu tư phát triển trên dịa bàn tỉnh.
- Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển
thường rất lớn:
Vì hoạt động đầu tư phát triển là đầu tư vào nhiều lĩnh vực thuộc nền kinh tế -
xã hội, nó gắn liền với các hoạt động khác của xã hội nên khi tiến hành đầu tư phải
4
phân tích sâu về các lĩnh vực liên quan, làm được điều này đòi hỏi phải có vốn lớn
và để nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư.
Quy mô vốn đầu tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp
lý, xây dựng chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng
vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm, trọng điểm.
Lao động sử dụng cho các dự án lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm
quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ cần tuân thủ một
kế hoạch định trước sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến
độ đầu tư, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng do vấn đê “hậu
dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao động, giải quyết lao động dôi dư
- Thời kỳ đầu tư kéo dài:
Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi dự án hoàn
thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư
kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện
đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí
vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình,
quản lý chắt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng
vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài:
Thời gian vận hành các kết qủa đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt
động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình.
Thành quả của hoạt động đầu tư phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm
tháng với nhiều biến động xẩy ra. Do đó không thể tránh khỏi sự tác động của hai
mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị,
kinh tế, văn hoá Có nhiều dự án đầu tư phải dừng lại giữa chừng không thể tiến
hành đầu tư được nữa do các yếu tố tiêu cực từ tự nhiên gây ra. Vì thế khi tiến hành
công cuộc đầu tư phát triển cần phải chú ý một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học ở cấp vĩ mô
và vi mô về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự kiến khả năng
cung từng năm và toàn bộ vòng đời dự án.
5
Thứ hai, quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các thành qủa đầu tư
vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn
vô hình.
Thứ ba, chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong
năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà
từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất riêng của lĩnh
vực đầu tư, ảnh hưởng lớn đến công tác hoạt động đầu tư.
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng
thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình
thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn
của các yếu tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng.
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển thường là các công trình xây
dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng lên. Do đó các điều kiện về địa
lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như các tác
dụng sau này của các kết quả đầu tư. Công cuộc đầu tư phát triển của một vùng hay
một địa phương là việc bỏ ra các nguồn lực để đầu tư xây dựng các công trình tại đó
để phục vụ công cuộc phát triển. Điều kiện địa lý, địa hình có một ảnh hưởng rất
lớn tới các công trình xây dựng nên khi thực hiện đầu tư phải tính đến yếu tố này. .
Không thể dễ dàng di chuyển các công trình đầu tư từ nơi này sang nơi khác, nên
công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển cần phải quán triệt đặc điểm này trên
cơ sở xây dựng chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng. Đầu tư cái gì, công
suất bao nhiêu là hợp lý cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa trên những căn
cứ khoa học. Ngoài ra, việc lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý cũng là vấn đề quan
trọng, để làm được điều này cần phải dựa trên những căn cứ khoa học, dựa vào một
hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, văn hoá
- Đầu tư phát triển là hoạt động có độ rủi ro cao. Do hoạt động đầu tư phát
triển phải tiến hành với quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian
vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài nên mức độ rủi ro thường cao. Rủi ro
đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó, có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà
6
Vốn đầu tư tăng thêm
GDP tăng thêm
Đầu tư trong kỳ
GDP tăng thêm
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu có nguyên nhân
khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất không đạt
công suất thiết kế
Do vậy, để quản lý hoạt động đầu tư phát triển hiệu quả, cần phải thực hiện
các biện pháp quản lý rủi ro, bao gồm: nhận diện rủi ro đầu tư, đánh giá mức độ rủi
ro, trên cơ sở đó xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro.
1.1.3. Vai trò của đầu tư phát triển tỉnh trên địa bàn tỉnh
Vai trò của đầu tư phát triển được thể hiện ở một số mặt chủ yếu sau đây:
1.1.3.1. Đầu tư phát triển tác động đến tốc tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh.
Đầu tư nói chung có một vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế, là nhân tố
quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Nếu không có đầu
tư thì không có phát triển.
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng
trưởng. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất
quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác
động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế do đó, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng
kinh tế thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR.
Hệ số ICOR (Incremental Capitai Output Ratio-tỷ số gia tăng của vốn so với
sản lượng) là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay
là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng (GDP) tăng thêm.
Phương pháp tính hệ số ICOR như sau:
ICOR = =
Chia cả tử và mẫu số công thức trên cho GDP, có công thức thứ hai:
ICOR =
7
Từ công thức trên, ta thấy: Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP của tỉnh hoàn
toàn phụ thuộc vào mức vốn đầu tư vào tỉnh.
Hệ số ICOR địa phương nói riêng và của nền kinh tế nói chung cao hay thấp
chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố sau :
Do thay đổi cơ cấu ngành: cơ cấu đầu tư ngành thay đổi ảnh hưởng đến hệ số
ICOR từng ngành, do đó tác động đến hệ số ICOR chung của cả tỉnh.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ có ảnh hưởng hai mặt đến hệ số
ICOR của tỉnh. Gia tăng đầu tư cho khoa học công nghệ, một mặt làm cho tử số của
công thức tăng, mặc khác, sẽ tạo ra nhiều ngành mới, công nghệ mới, làm máy móc
hoạt động hiệu quả hơn, năng suất cao hơn, kết quả đầu tư tăng lên. Như vậy, hệ số
ICOR tăng hay giảm phục thuộc vào xu hướng nào chiếm ưu thế.
Do thay đổi cơ chế chính sách và phương pháp tổ chức quản lý, cơ chế chính
sách phù hợp, đầu tư có hiệu quả hơn sẽ làm cho ICOR giảm và ngược lại.
Thực tế cho thấy, do chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu
quả trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính
sách kinh tế nói chung. Thông thường, ICOR trong công nghiệp cao hơn trong nông
nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản
xuất. Do đó, ở các nước phát triển tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng
trưởng thấp.
Hệ số ICOR có những ưu và nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Hệ số ICOR là chỉ tiêu quan trọng để dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc
dự báo quy mô vốn đầu tư cần thiết để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế nhất định
trong tương lai.
Trong những trường hợp nhất định, hệ số ICOR được xem là một trong những
chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư. ICOR giảm cho thấy: để tạo ra một đơn vị GDP
tăng thêm, nền kinh tế cần phải bỏ ra một số lượng vốn đầu tư ít hơn, nếu các điều
kiện khác không thay đổi.
8
Nhược điểm:
Hệ số ICOR chỉ phản ánh ảnh hưởng của yếu tố vốn đầu tư mà chưa tính đến
ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất khác trong việc tạo ra GDP tăng thêm.
ICOR cũng bỏ qua sự tác động của các ngoại ứng như điều kiện tự nhiên, xã
hội, cơ chế chính
Hệ số ICOR cũng không tính đến độ trễ thời gian của kết quả và chi phí, vấn
đề tái đầu tư
Đầu tư có ảnh hưởng quan trọng không chỉ đến tốc độ tăng trưởng cao hay
thấp mà còn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Chất lượng tăng trưởng là một tập
hợp các đặc trưng về kết quả và hiệu quả của chính tăng trưởng kinh tế. Trên góc độ
phân tích đa nhân tố, vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế thường được
phân tích theo biểu thức sau:
g = Di + Dl + TFP
Trong đó:
g là tốc độ tăng trưởng GDP
Di là phần đóng góp của vốn đầu tư vào tăng trưởng GDP, Dl là phần đóng
góp của lao động vào tăng trưởng GDP
TFP là phần đóng góp của tổng các yếu tố năng suất vào tăng trưởng GDP
(gồm đóng góp của công nghệ, cơ chế chính sách ).
Chất lượng tăng trưởng là một tập hợp các đặc trưng về kết quả và hiệu quả
của chính tăng trưởng kinh tế. Chất lượng tăng trưởng thể hiện nhất quán và liên tục
trong suốt quá trình tái sản xuất xã hội. Chất lượng tăng trưởng thể hiện cả ở yếu tố
đầu vào như việc quản lý và phân bổ các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất,
đồng thời cả ở kết quả đầu ra của quá trình sản xuất với chất lượng cuộc sống được
cải thiện, phân phối sản phẩm đầu ra đảm bảo tính công bằng và góp phần bảo vệ môi
trường sinh thái. Chất lượng tăng trưởng thể hiện sự bền vững của tăng trưởng và
mục tiêu tăng trưởng dài hạn, mặc dù tốc độ tăng trưởng cao trong ngắn hạn là những
điều kiện rất cần thiết. Đồng thời chất lượng tăng trưởng thể hiện ở tính hiệu quả, đặc
biệt hiệu quả lan tỏa giữa các ngành, các vùng, các khu vực kinh tế khác nhau.
9
1.1.3.2. Đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh
Cơ cấu kinh tế là cơ cấu của tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan
hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy thuộc mục
tiêu của nền kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận
cấu thành nền kinh tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xẩy ra khi có sự phát triển
không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các ngành, vùng.
Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư góp
phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp qui luật và chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của địa phương trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối mới giữa các ngành,
vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực.
Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, qui mô vốn đầu tư từng ngành
nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả cao hay thấp đều ảnh hưởng đến tốc độ phát
triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để
phát triển các ngành mới do đó, làm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình
trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thể so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh
tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc
đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế thông qua việc đa
dạng hoá các nguồn vốn đầu tư, cởi mở cho nguồn vốn của tất cả các thành phần
kinh tế tham gia đầu tư
1.1.3.3. Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ của tỉnh
Xuất phát từ nền công nghiệp lạc hậu, nền kinh tế kém phát triển, công nghệ là
trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và
tăng cường khả năng công nghệ của tỉnh.
Khoa học là tập hợp những hiểu biết về tự nhiên, xã hội, tư duy được thể hiện
bằng những phát minh dưới dạng lý thuyết, địa lý, định luật, nguyên tắc và con
10
người ứng dụng nó để tạo ra những công nghệ mới. Do đó, công nghệ là tổng hợp
những phương tiện kỹ thuật, kỹ năng, phương pháp được dùng để chuyển hoá nguồn
lực thành một sản phẩm hoặc một dịch vụ nào đó phục vụ cho nhu cầu xã hội.
Khoa học công nghệ không chỉ là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng mà còn
là nền tảng lâu dài thể hiện sức mạnh kinh tế của một quốc gia, vùng lãnh thổ. Việc
tăng cường đầu tư nâng cao tiềm lực khoa học, kỹ thuật, công nghệ sẽ thu hút có
hiệu quả hơn nguồn vốn đầu tư và tránh được sự thất thoát, lãng phí trong việc sử
dụng vốn.
Với trình độ công nghệ hiện nay, quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá của
nước ta nói chung sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra một chiến lược đầu tư
phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Có hai con đường cơ bản để có công
nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù
là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cũng cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu
tư.
1.1.3.4. Đầu tư phát triển góp phần cải thiện đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh
Hoạt động đầu tư phát triển sẽ tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, tạo điều kiện
cải thiện cơ sở vật chất của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển y
tế, văn hoá, xã hội Đầu tư phát triển góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm
nghèo, tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện sống ở các người
dân ở vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, phát triển nguồn nhân lực. Các chương trình
quốc gia triển khai trên địa bàn tỉnh như: phổ cập giáo dục, xóa đói giảm nghèo,
nước sạch đã góp phần cải thiện đời sống của nhân dân.
Đầu tư phát triển còn góp phần xây dựng các cơ sở sản xuất và dịch vụ, tạo ra
những tác động tích cực cho vùng nghèo, người nghèo, hộ nghèo của tỉnh khai thác
các tiềm năng của vùng, vươn lên làm ăn khá giả. Từ đó đảm bảo tỷ lệ cân đối vùng
miền, ngành nghề, khu vực và phân bố hợp lý sức sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh.
1.2. Nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch
vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng
11
trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới
cho nền sản xuất xã hội. Nguồn vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh được phân
thành ba loại sau:
- Nguồn vốn của nhà nước đầu tư cho tỉnh
- Nguồn vốn của dân cư và tư nhân đầu tư trên địa bàn tỉnh
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh
1.2.1. Nguồn vốn nhà nước
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của Ngân sách nhà nước,
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển
của doanh nghiệp nhà nước.
- Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà
nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự
án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của
doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác
lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh
thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Cùng với quá trình đổi
mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò
đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên
tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử
dụng vốn tiết kiệm hơn. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước còn phục
vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư,
nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng,
lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều
tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn
thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu
tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề
12
xã hội như xoá đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển
của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.
- Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: là thành phần giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn
nhà nước khá lớn. Nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và
thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được
khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng gia tăng và đóng
góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
1.2.2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích
luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, hợp tác xã.
Thực tế cho thấy đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai
trò quan trọng đặc biệt trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở
mang ngành nghề, phát triển tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải
trên các địa phương.
Các doanh nghiệp đóng góp đáng kể vào quy mô vốn của toàn xã hội. Bên
cạnh đó, nhiều hộ gia đình cũng đã trở thành đơn vị kinh tế năng động trong các
lĩnh vực. Ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số những nguồn
tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Nguồn Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình.
Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:
- Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp
-thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).
- Tập quán tiêu dùng của dân cư.
- Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và
các khoản đóng góp đối với xã hội.
1.2.3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm phần tích luỹ của cá nhân, các doanh
13
nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá trình
đầu tư phát triển của nước sở tại. Trong khuôn khổ đề tài này, ta nghiên cứu hai loại
vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu sau :
1.2.3.1. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign direct investment - FDI)
Đây là vốn của các doanh nghiệp và các nhân nước ngoài đầu tư sang các
nước khác và trực tiếp hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số vốn
bỏ ra.
Nguồn vốn FDI có đặc điểm cơ bản khác với nguồn vốn khác là việc tiếp nhận
nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên
vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đi vào
hoạt động và phát huy hiệu quả. Ngoài ra, với nguồn vốn đầu tư trực tiếp, nước
nhận đầu có thể dễ dàng có được công nghệ (do nguời đầu tư đem vào góp vốn và
sử dụng), học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công
nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhanh chóng
được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư. Các hình thức chủ
yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.2.3.2 Vốn đầu tư gián tiếp (ODA - official development assistance)
Đây là nguồn vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính
phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ
không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay theo hình
thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại
hình ODA -Viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển.
So với các hình thức tài trợ khác thì ODA mang tính ưu đãi cao hơn. Ngoài
các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian cho vay dài, khối lượng vốn tương đối
lớn, bao giờ ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít
nhất 20%. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn, cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối
với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận
đầu tư. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về chính
trị và tình trạng nợ chồng chất nếu không sử dụng hiệu quả vốn vay và thực hiện
14
nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay.
Nguồn vốn này chủ yếu được đầu tư vào các lĩnh vực như y tế, giáo dục, cơ sở
hạ tầng theo các hình thức tài trợ như: hỗ trợ theo dự án, hỗ trợ phi dự án, hỗ trợ cán
cân thanh toán Tuy nhiên, để có được nguồn vốn này thì bên tiếp nhân phải chịu
các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe, đặc biệt là tính hiệu quả của nguồn vốn.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trên địa
bàn tỉnh.
1.3.1. Chỉ tiêu đánh giá kết quả của hoạt động đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh
a. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện:
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt
động của các công cuộc đầu tư, bao gồm các chi phí cho công tác xây dựng, mua
sắm và lắp đặt thiết bị, chi phí quản lý và chi phí khác theo quy định của kế toán dự
toán và được ghi trong dự án đầu tư được phê duyệt.
b. Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm
Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng
xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm hàng hóa hoặc
tiến hành các hoạt động dịch vụ cho xã hội đã được ghi trong dự án) đã kết thúc quá
trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào
hoạt động ngay.
Cần phân biệt các trường hợp: huy động bộ phận và huy động toàn bộ.
Huy động bộ phận là việc huy động từng đối tượng, từng hạng mục xây dựng
của công trình vào hoạt động ở những thời điểm khác nhau do thiết kế quy định.
Huy động toàn bộ là huy động cùng một lúc tất cả các đối tượng, hạng mục
xây dựng không có khả năng phát huy tác dụng độc lập hoặc dự án không dự kiến
cho phát huy tác dụng độc lập đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm và sẵn sàng
sử dụng ngay.
Nói chung, đối với các công cuộc đầu tư quy mô lớn, có nhiều đối tượng, hạng
mục xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập thì được áp dụng hình thức
huy động bộ phận sau khi từng đối tượng, hạng mục đã kết thúc quá trình xây dựng,
15
mua sắm, lắp đặt. Còn đối với những công cuộc đầu tư quy mô nhỏ, thời gian thực
hiện đầu tư ngắn thì áp dụng hình thức huy động toàn bộ khi tất cả các đối tượng,
hạng mục công trình đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, lắp đặt.
Các tài sản cố định được huy động là kết quả đạt được trực tiếp của quá trình
thi công xây dựng công trình, chúng có thể được biểu hiện bằng hiện vật hoặc bằng
giá trị. Chi tiêu biểu hiện bằng hiện vật là số lượng các tài sản cố định được huy
động như số lượng nhà ở, bệnh viện, cửa hàng, trường học, nhà máy Chi tiêu biểu
hiện bằng giá trị là giá trị các tài sản cố định được huy động. Chúng được tính theo
giá dự toán hoặc giá trị thực tế, tùy thuộc vào mục đích sử dụng trong công tác
nghiên cứu kinh tế hay quản lý hoạt động đầu tư. Cụ thể, giá trị dự toán được sử
dụng làm cơ sở để thanh quyết toán giữa chủ đầu tư và đơn vị nhận thầu. Giá trị
thực tế của các tài sản cố định huy động được sử dụng để kiểm tra việc thực hiện kỷ
luật tài chính, dự toán đối với công cuộc đầu tư từ nguồn vốn ngân sách, để ghi vào
bảng cân đối tài sản cố định của cơ sở, là cơ sở để tính mức khấu hao hàng năm,
phục vụ công tác hạch toán kinh tế của cơ sở.
Sử dụng chỉ tiêu giá trị cho phép xác định toàn bộ khối lượng các tài sản cố
định được huy động của tất cả các ngành, đánh giá tổng hợp tình hình thực hiện kế
hoạch và sự biến động của chỉ tiêu này ở mọi cấp độ quản lý khác nhau.
Chỉ tiêu giá trị tài sản cố định được huy động được xác định theo công thức sau:
F = Iv
b
+ Iv
r
– C – Iv
e
Trong đó:
F: Giá trị các tài sản cố định được huy động trong kỳ
Iv
b:
Vốn đầu tư thực hiện ở các kỳ trước chưa được huy động chuyển sang kỳ
nghiên cứu (xây dựng dở dang đầu kỳ)
Iv
r
: Vốn đầu tư được thực hiện trong kỳ
C: Chi phí trong kỳ không tính vào giá trị tài sản cố định (đó là những khoản
chi phí do nguyên nhân khách quan làm thiệt hại được cấp có thẩm quyền đầu tư
cho phép duyệt bỏ như: bão, lụt )
Iv
e
: Vốn đầu tư thực hiện chưa được huy động chuyển sang kỳ sau (xây dựng
16
dở dang cuối kỳ)
- Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm: khi các tài sản cố định được huy động
vào sử dụng, chúng đã làm gia tăng năng lực sản xuất, phục vụ cho nền kinh tế.
Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm được hiểu là khả năng đáp ứng nhu cầu
sản xuất, phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất
ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định được ghi trong dự
án đầu tư.
Năng lực sản xuất phục vụ được thể hiện ở công suất hoặc năng lực phát huy
tác dụng của các tài sản cố định được huy động như số căn hộ, số mét vuông nhà ở,
trường học mức tiêu dùng nguyên, vật liệu trong một đơn vị thời gian. Với sự gia
tăng của năng lực sản xuất phục vụ do các tài sản cố định tạo ra, hoạt động đầu tư
phát triển đã đem lại cho các doanh nghiệp mức gia tăng sản lượng, doanh thu,
mang lại cho các ngành, địa phương sự gia tăng của giá trị sản xuất, mức tăng của
giá trị tăng thêm, mức tăng của tổng sản phẩm quốc nội, cho các địa phương và toàn
bộ nền kinh tế.
1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh.
a. Hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư phát triển
Các chỉ tiêu cơ bản thường được sử dụng để đánh giá hoạt động đầu tư ở cấp
độ ngành, điạ phương bao gồm:
- Mức tăng của giá trị sản xuất so với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng
trong kỳ nghiên cứu (ký hiệu H
Iv(GO)
).
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh giữa mức tăng của giá trị sản
xuất với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của địa phương.
( )Iv GO
PHTD
GO
H
Iv
∆
=
Trong đó: ΔGO là giá trị sản xuất tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của địa
phương.
Iv
PHTD
: Vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của địa phương.
Công thức này cho biết một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ
nghiên cứu đã tạo ra được bao nhiêu đơn vị mức tăng của giá trị sản xuất trong kỳ
17
nghiên cứu của địa phương.
- Mức tăng của tổng sản phẩm quốc nội so với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác
dụng trong kỳ nghiên cứu (ký hiệu H
Iv(GDP)
).
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh giữa mức tăng của tổng sản
phẩm quốc nội với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của
địa phương.
( )Iv GDP
PHTD
GDP
H
Iv
∆
=
Trong đó: ΔGDP: Mức tăng của tổng sản phẩm quốc nội trong kỳ nghiên cứu
của địa phương.
Công thức này cho biết 1 đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ
nghiên cứu đã tạo ra được bao nhiêu đơn vị mức tăng tổng sản phẩm quốc nội trong
kỳ nghiên cứu cho địa phương.
- Mức tăng của giá trị tăng thêm so với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng
trong kỳ nghiên cứu (ký hiệu H
Iv(VA)
).
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh giữa mức tăng của giá trị tăng
thêm so với toàn bộ vốn đầu tư phát huy trong kỳ nghiên cứu của từng nghành.
( )Iv VA
PHTD
VA
H
Iv
∆
=
Trong đó: ΔVA: Mức tăng của giá trị tăng thêm trong kỳ nghiên cứu tính cho
từng ngành
PHTD
Iv
: Vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của từng ngành
Công thức này được sử dụng để đánh giá hiệu quả đầu tư cho từng ngành. Nó cho
biết 1 đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu đã tạo ra được bao
nhiêu đơn vị mức tăng của giá trị tăng thêm trong kỳ nghiên cứu cho từng ngành
- Mức tăng của tổng sản phẩm quốc nội so với giá trị tài sản cố định huy động
trong kỳ nghiên cứu (ký hiêu H
F(GDP)
).
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh giữa mức tăng của tổng sản
phẩm quốc nội so với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của
địa phương.
18
( )F GDP
GDP
H
F
∆
=
Trong đó: F là giá trị tài sản cố định huy động trong kỳ nghiên cứu của
địa phương.
Công thức này cho biết 1 đơn vị tài sản cố định huy động trong kỳ đã tạo ra
được bao nhiêu mức tăng của tổng sản phẩm quốc nội cho các địa phương.
- Mức tăng của giá trị tăng thêm so với giá trị tài sản cố định huy động trong
kỳ nghiên cứu (ký hiệu H
F(VA)
).
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh giữa mức tăng của giá trị tăng
thêm so với giá trị tài sản cố định huy động trong kỳ nghiên cứu của nghành.
( )F VA
VA
H
F
∆
=
Công thức này được sử dụng để đánh giá hiệu quả đầu tư cho từng ngành.
Nó phản ánh 1 đơn vị TSCĐ huy động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu mức tăng của
giá trị tăng thêm.
- Suất đầu tư cần thiết để làm tăng thêm 1 đơn vị tổng sản phẩm quốc nội (tính
cho 1 tỉnh) hoặc 1 đơn vị giá trị tăng thêm (tính cho từng ngành trong tỉnh).
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra 1 đơn vị tổng sản phẩm quốc nội tăng thêm
hoặc 1 đơn vị giá trị tăng thêm cần bao nhiêu vốn đầu tư.
( )
V
I
ICOR
GDP VA
=
∆ ∆
- Hệ số huy động TSCĐ ( ký hiệu H
TSCĐ)
)
Chỉ tiêu này biểu thị mối quan hệ tỷ lệ giữa giá trị TSCĐ huy động ở cấp độ
ngành, địa phương, vùng và toàn bộ nền kinh tế trong kỳ nghiên cứu với tổng số
vốn đầu tư thực hiện trong kỳ nghiên cứu.
TH
TSCD
V
F
H
I
=
Trong đó: F là giá trị TSCĐ huy động trong kỳ nghiên cứu của nghành,
địa phương.
19
TH
V
I
:
Vốn đầu tư thực hiện trong kỳ nghiên cứu của ngành, địa phương.
Trị số của chỉ tiêu này càng cao phản ánh việc thi công dứt điểm xây dựng
công trình, các công trình nhanh chóng được huy động và sử dụng trong từng
ngành, địa phương, làm tăng năng lực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của ngành,
vùng, địa phương.
Ngoài các chỉ tiêu cơ bản trên, để đánh giá hiệu quả kinh tế đầu tư còn có thể
sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế khác như: Mức tăng thu nhập quốc dân, mức
tăng thu ngân sách, mức tăng thu ngoại tệ hay mức tăng kim ngạch xuất khẩu so với
vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu; tác động của đầu tư phát triển
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các hoạt động khác.
- Mức đóng góp cho ngân sách tăng thêm tính trên 1 đơn vị vốn đầu tư phát
huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của địa phương.
- Mức tiết kiệm ngoại tệ tăng thêm tính trên 1 đơn vị vốn đầu tư phát huy tác
dụng trong kỳ nghiên cứu của địa phương
b. Hiệu quả xã hội của hoạt động đầu tư phát triển
Các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả xã hội của hoạt động đầu tư phát
triển ở địa phương, như sau:
- Số lao động có việc làm do đầu tư và số lao động có việc làm tính trên một
đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu.
- Mức giá trị gia tăng phân phối cho các nhóm dân cư và vùng lãnh thổ tính
trên một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu.
- Các tác động khác như: Chi tiêu cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho
người dân, cải thiện chất lượng hàng tiêu dùng và cơ cấu hàng tiêu dùng của xã hội,
cải thiện điều kiện làm việc, cải thiện môi trường sinh thái, phát triển giáo dục, y tế,
văn hóa và sức khỏe
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh
1.4.1. Các yếu tố kinh tế vĩ mô chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư phát triển.
Môi trường kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến ý tưởng đầu tư và chi phối hoạt
động đầu tư của dự án. Điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi không những tạo điều kiện
20
cho các dự án ra đời, hoạt động có hiệu quả mà nó còn có thể làm xuất hiện các ý
tưởng đầu tư.
- Ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh: Động thái và xu thế tăng
trưởng kinh tế của quốc gia hay vùng miền có thể ảnh hưởng đến tình hình đầu tư
và phát triển của một ngành, một lĩnh vực, và sau đó là kết quả và hiệu quả đầu tư
của một dự án cụ thể.
- Ảnh hưởng của lãi suất: Lãi suất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sử dụng
vốn và sau đó là hiệu quả đầu tư. Lãi suất có thể đươc xem là chi phí bỏ ra khi sử
dụng vốn vì vậy lãi suất thấp hay cao sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án do đó sẽ
tác động đến tình hình đầu tư. Lãi suất tăng kích thích người dân gửi tiết kiệm nhiều
hơn nhưng xu hướng đầu tư lại giảm. Ngược lại, lãi suất thấp thì nó kích thích đầu
tư nhưng lại khó khăn trong huy động vốn. Nếu lãi suất cao hơn, cũng sẽ có ít dự án
hơn thõa mãn tiêu chuẩn hiệu quả khi đánh giá cơ hội đầu tư nên sẽ có ít dự án đầu
tư được thực hiện và ngược lại lãi suất thấp hơn thì chi phí sử dụng vốn sẽ nhỏ hơn
và nhiều dự án thõa mãn tiêu chuẩn hiệu quả do đó sẽ khuyến khích các nhà đầu tư
bỏ vốn ra đầu tư.
- Ảnh hưởng của lạm phát tới hoạt động đầu tư: Trong một nền kinh tế, lạm
phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Tỷ lệ lạm phát có
ảnh hưởng lớn đến sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng đến hành
động của nhà đầu tư.
- Ảnh hưởng của thu nhập và tiết kiệm tới đầu tư: Tiết kiệm trong nước là
nguồn tài trợ quan trọng cho đầu tư. Tuy nhiên, không phải tiết kiệm càng nhiều thì
càng tăng đầu tư và thu nhập. Trong dài hạn, tỷ lệ tiết kiệm trong nước có quan hệ
mật thiết với tỷ lệ vốn đầu tư. Do đó, mổi địa phương cần có chính sách thúc đẩy
tiết kiệm, khơi thông các nguồn vốn, chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
- Ảnh hưởng của chi tiêu công và chính sách thuế tới đầu tư: Chính quyền địa
phương với tư cách là nhà cung cấp hàng hóa công cộng và tạo điều kiện cần thiết,
thúc đẩy, dẫn dắt đầu tư tư nhân. Chính quyền địa phương cũng là khách hàng đặt
21
hàng các hàng hóa dịch vụ của khu vực tư nhân từ đó kích thích doanh nghiệp đầu
tư sản xuất hàng hóa dịch vụ đó.
Chính sách thuế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư. Thuế có liên quan
đến chi phí và là một trong những yếu tố rủi ro của công cuộc đầu tư (thay đổi thuế
suất, đối tượng chịu thuế, cách tính thuế ).
1.4.2. Môi trường chính trị, luật pháp
Sự ổn định về chính trị cũng như đảm bảo về mặt pháp lý liên quan đến quyền
sở hữu tài sản và có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến ý định và hành vi của
nhà đầu tư.
Sự ổn định chính trị ở địa phương mà nhà đầu tư bỏ vốn hấp dẫn các nhà đầu
tư rủi ro của hoạt động đầu tư thấp.
Sự ổn định, hoàn thiện và minh bạch của hệ thống pháp luật cũng như chính
sách thu hút đầu tư có vai trò quan trọng trong việc thu hút và khai thác các nguồn
vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Ngoài ra, năng lực quản lý, các thủ tục hành chính cũng như sự trong sạch của
bộ máy nhà nước đều ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư. Nhà nước hoạch định ra các
chính sách, nếu việc hoạch định chính sách yếu kém sẽ gây những định hướng sai
lệch và lãng phí nguồn lực đầu tư và định hướng đúng sẽ góp phần dẫn dắt đầu tư
theo hướng có lợi cho nhà đầu tư và xã hội. Để nắm bắt được cơ hội đầu tư nhiều
khi không cho phép sự chậm trễ, kéo dài trong việc xin phép, ra quyết định đầu tư
cũng như giải quyết các thủ tục hành chính trong quá trình đầu tư.
Các nhà đầu tư luôn tìm cơ hội đầu tư vào những nơi ít chịu rủi ro và lợi
nhuận cao. Vì vậy, chính trị ổn định thì các hoạt động đầu tư có cơ hội tiến triển
thuận lợi đem lại nhiều lợi nhuận cho chủ đầu tư hơn. Do vậy, các nhà đầu tư cần phải
nghiên cứu các căn cứ pháp lý cụ thể liên quan đến hoạt động của dự án, cụ thể là:
- Chứng cứ pháp lý về tư cách pháp nhân của các cá nhân hoặc tổ chức tham
gia đầu tư.
- Các chứng từ pháp lý về khả năng huy động vốn và năng lực kinh doanh của
22