Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng liên doanh lào - việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.66 KB, 98 trang )

MỤC LỤC
Trang
3.1.2. Định hướng hoạt động kinh doanh của NHLD Lào - Việt đến năm 201571
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN
HÀNG LIÊN DOANH LÀO - VIỆT 73
3.3. KIẾN NGHỊ 85
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CSH : Chủ sở hữu
NĐ : Nghị định
NH : Ngắn hạn
NHLD : Ngân hàng liên doanh
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
NT : Ngoại tệ
NV : Nguồn vốn
QĐ : Quyết định
SX : Sản xuất
TCKT : Tổ chức kinh tế
TCTD : Tổ chức tín dụng
TDH : Trung, dài hạn
TDH : Trung, dài hạn
TG : Tiền gửi
TG : Tiền gửi
USD : Đồng đô la Mỹ
VNĐ : Tiền đồng Việt Nam
XH : Xã hội
DANH MỤC BẢNG
3.1.2. Định hướng hoạt động kinh doanh của NHLD Lào - Việt đến năm 201571
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN
HÀNG LIÊN DOANH LÀO - VIỆT 73
3.3. KIẾN NGHỊ 85


LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào phát triển của nền kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại chiếm
tỷ trọng lớn nhất về quy mô và tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng là một trong những các tổ chức trung gian tài chính quan
trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách
tiền tệ, vì vậy, là một kênh quan trọng nhất của Chính phủ nhằm ổn định kinh
tế. Hệ thống các ngân hàng có chức năng thu hút và tập trung nguồn vốn nhỏ
lẻ, không kỳ hạn thành nguồn vốn lớn để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển
của nền kinh tế. Trong nền kinh tế hiện đại việc thu hút nguồn vốn này có thể
được thực hiện thông qua hai kênh đó là thông qua ngân hàng thương mại và
thông qua thị trường tài chính. Ở Lào thị trường tài chính còn sơ khai và chưa
đáp ứng được vai trò của nó. Do vậy, sứ mạng này lại đặt lên vai các ngân
hàng thương mại. Điều này giúp ta xác định được vai trò to lớn của các ngân
hàng thương mại đối với sự phát triển nền kinh tế.
Tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế đều đặt lợi nhuận là mục tiêu
hàng đầu và là kết quả cuối cùng của các doanh nghiệp. Đối với các ngân
hàng thương mại nói chung và Ngân hàng liên doanh Lào - Việt nói riêng
muốn tồn tại phát triển và đóng vai trò kinh tế của Nhà nước, tất yếu phải
không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế trong khu vực và thế giới
đang diễn ra mạnh mẽ và gay gắt. Để thực hiện tốt quá trình hội nhập với khu
vực và thế giới, nhất là thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa Việt nam - Lào ngày
càng phát triển bền vững, đòi hỏi hệ thống các Ngân hàng thương mại, các tổ
1
chức tài chính và các doanh nghiệp Việt nam và Lào phải có sự kết hợp chặt
chẽ với nhau cũng như phải có hệ thống các ngân hàng, tài chính phù hợp với
yêu cầu và đổi mới nền kinh tế.

Với chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa
hai nước Việt - Lào, ngày 22/06/1999 Ngân hàng liên doanh Lào - Việt đã
chính thức được thành lập và đi vào hoạt động trên cơ sở hợp tác liên doanh
giữa hai ngân hàng thương mại của hai nước. Đến nay, đã được 9 năm, hoạt
động còn gặp khó khăn về vốn, uy tín đối với khách hàng chưa cao. Do vậy,
việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng là yếu tố khách quan cả về
phương diện lý luận cũng như thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ quan trọng
được Chính phủ hai nước giao là hỗ trợ, thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa hai
nước ngày càng phát triển. Từ những lý do trên, đề tài “Nâng cao hiệu quả
kinh doanh của Ngân hàng liên doanh Lào - Việt ” được chọn làm làm
luận văn cao học.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu hệ thống hoá lý luận về hiệu quả kinh doanh và nâng cao
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh
doanh, những yếu tố tác động đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng Liên
doanh Lào-Việt.
- Đề xuất kiến nghị và giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh của
Ngân hàng Liên doanh Lào-Việt.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về
hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
- Phạm vi không gian: Ngân hàng liên doanh Lào - Việt.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2006 - 2008
2
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên
cứu là: Phương pháp thu thập, tổng hợp số liệu, thống kê, so sánh và phân tích
kinh tế.

5. Nội dung đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, Luận văn được chia thành 3 chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng liên doanh
Lào-Việt.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh
của Ngân hàng Liên Doanh Lào-Việt.
3
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào phát triển của nền kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại chiếm
tỷ trọng lớn nhất về quy mô và tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và thanh toán và
thực hiện chức năng tài chính nhiều nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế. Ngân hàng là loại tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo
lập và cung cấp dịch vụ quản lý quỹ cho công chúng
Luật tổ chức tín dụng do Quốc hội Việt Nam khoá X thông qua vào
ngày 12 tháng 12 năm 1997, đưa ra khái niệm: Ngân hàng thương mại là một
loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
hoạt động khác có liên quan.
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động các loại hình ngân hàng gồm:
Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng
hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác. Do vậy, Ngân hàng thương mại chỉ

là một nhóm trong số các tổ chức tài chính trung gian, người ta gọi chung là
“Các định chế tài chính” có chức năng giống nhau là dẫn vốn từ nơi thừa vốn
đến nơi thiếu vốn. Trong các định chế tài chính, Ngân hàng thương mại là
định chế có kỳ hạn quan trọng nhất. Một số khái niệm Ngân hàng thương mại
4
khác được nêu ra như sau: Các nhà kinh tế định nghĩa: Ngân hàng thương mại
là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền
và mở các tài khoản tiền gửi, kể các loại tiền gửi mà dựa vào đó có thể dùng
các tờ séc.
Theo Luật ngân hàng thương mại của Nước CHDCND Lào ngày
26/12/2006: Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được thành lập theo Luật
này, hoạt động kinh doanh ngân hàng chủ yếu là huy động tiền gửi, cấp tín
dụng, mua bán ngoại tệ, cung cấp dịch vụ thanh toán và đầu tư.
Những định nghĩa này cho thấy một số chức năng cơ bản mà các ngân
hàng thương mại đảm nhận, phân biệt tương đối với các chức năng của các
trung gian tài chính khác.
Tóm lại, ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng, được thành
lập theo Luật, thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động khác có
liên quan.
1.1.1.2. Vị trí, vai trò của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu
dùng (cá nhân, hộ gia đình) và với hầu hết các cơ quan chính quyền địa
phương (thành phố, tỉnh…) Hơn nữa đối với các doanh nghiệp nhỏ ở đia
phương, từ người bán rau quả cho tới người kinh doanh ôtô, ngân hàng là tổ
chức cung cấp tín dụng cơ bản phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc
mua ôtô trưng bày. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho
các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, thẻ tín dụng hay
tài khoản điện tử. Và khi cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ
thường tìm đến ngân hàng để nhận được lời tư vấn.

Trên thế giới, ngân hàng là loại tổ chức trung gian tài chính cung cấp
các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất. Trong
5
mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị
trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ
cho các công trình công cộng, từ những hội trường, sân bóng, cho đến sân bay
và đường cao tốc. Ngân hàng cũng là tổ chức tài chính cung cấp vốn lưu động
quan trọng nhất cho các doanh nghiệp. Và trong thời gian gần đây, ngân hàng
đã tăng cường mở rộng cho vay dài hạn đối với các doanh nghiệp để hỗ trợ
việc xây dựng nhà máy hay mua sắm máy móc thiết bị.
Ngân hàng thực hiện nhiều vai trò mới để có thể duy trì khả năng cạnh tranh
và đáp ứng nhu cầu của xã hội, các ngân hàng ngày nay có những vai trò sau:
Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình
thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh tế và các thành phần khác để
đầu tư nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc
mua hàng hoá và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp
mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền giấy và tiền đúc).
Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng
mất khả năng thanh toán( chẳng hạn phát hành thư tín dụng).
Vai trò đại lý: Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát
hành hoặc chuộc lại chứng khoán (thường được thực hiện tại phòng uỷ thác).
Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của chính
phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mực tiêu xã hội.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Tạo lập nguồn vốn
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh trên những lĩnh vực tiền
tệ, cũng như các doanh nghiệp kinh doanh khác. Việc tạo lập vốn là nhân tố
để đáp ứng hoạt động kinh doanh.
Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:

6
a. Vốn của ngân hàng:
Vốn điều lệ:
Là vốn ban đầu được hình thành khi thành lập doanh nghiệp; Nhà nước
cấp nếu là ngân hàng thương mại Nhà nước, hoặc là cổ đông đóng góp khi là
ngân hàng thương mại cổ phần. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành
của loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất tài chính năng lực sở hữu của
chủ ngâng hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
Đây là nguồn vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên
trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng.
Nguồn vốn bổ sung:
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tuy thuộc vào điều kiện cụ thể. Nguồn vốn từ lợi
nhuận, nguồn vốn bổ sung từ phát hành cổ phần, góp thêm của cổ đông, cấp
thêm, nguồn vốn liên doanh liên kết …để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc
để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do
Ngân hàng nhà nước quy định.
Nguồn vốn từ các quỹ: quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ
thặng dư.
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: là các khoản vay trung
và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành cổ
phần có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân hàng do
nguồn này có đặc điểm là sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa đất đai,
và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
b. Huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và
quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Hoạt động này mang lại nguồn
vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động khác như cấp tín dụng và
7
cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Nhìn vào bảng cân đối tài

sản của ngân hàng thương mại chúng ta thấy rằng nghiệp vụ huy động vốn
được phản ánh bên phần tài sản nợ. Do vậy, huy động vốn còn gọi là nghiệp
vụ tài sản nợ.
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất, ngày càng cao trong tổng
nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. Các ngân hàng thương mại tiến hành
huy động vốn bằng nhiều hình thức như: Huy động vốn qua tài khoản tiền
gửi, huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá, Huy động vốn từ các tổ chức
tín dụng khác và các ngân hàng thương mại khác.
- Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi
Huy động vốn qua tài khoản là hình thức huy động vốn cổ điển và mang
tính đặc thù riêng có của ngân hàng thương mại. Do vậy, đây cũng là điểm khác
biệt giữa ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Do nhu cầu và động thái gửi tiền của khách hàng rất đa dạng và khác
nhau nên để thu hút được nhiều khách hàng tiền gửi, ngân hàng thương mại
phải thiết kế và phát hành nhiều loại sản phẩm tiền gửi khác nhau.
+ Tiền gửi thanh toán
Là hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại bằng cách mở
cho khách hàng tài khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Tài khoản này
mở cho đối tượng khách hàng, cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu thực hiện
thanh toán qua ngân hàng.
+ Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi không kỳ hạn.
Đối với với các ngân hàng thương mại Việt Nam huy động vốn tiền gửi
không kỳ hạn có 2 hình thức chính: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của dân
cư và tiền gửi trên tài khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế- xã
hội và cá nhân.
8
Sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn được thiết kế dành cho đối
tượng khách hàng cá nhân hoặc tổ chức có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi
ngân hàng với mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không thiết lập được kế

hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối với khách hàng khi chọn lựa hình
thức này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu sinh lợi.
Đối với ngân hàng vì loại tiền gửi này khách hàng muốn rút bất cứ lúc nào
cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và khó lên kế
hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Do vậy, ngân hàng thường trả lãi rất
thấp cho loại tiền gửi này.
Với số tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng có thể gửi tiền và
rút tiền vào bất cứ lúc nào trong giờ giao dịch. Tuy nhiên khác với hình thức
tiền gửi cá nhân mỗi lần giao dịch khách hàng phải xuất trình sổ tiền gửi và
chỉ có thể thực hiện được các giao dịch ngân quỹ như gửi tiền và rút tiền chứ
không thể thực hiện được các giao dịch thanh toán như trường hợp tài khoản
tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn bao gồm đối tượng khách hàng là cá nhân, tổ
chức có nhu cầu gửi tiền vì mục đích an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch
sử dụng tiền trong tương lai. Các cá nhân muốn có thu nhập ổn định và thường
xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng tháng hoặc hàng quý. Đa số khách hàng
thích lựa chọn hình thức gửi tiền này là công nhân, viên chức hưu trí. Mục tiêu
quan trọng của họ khi chọn lựa hình thức gửi tiền này là lợi tức có được theo
định kỳ. Do vậy, lãi suất đóng vai trò quan trọng để thu hút đối tượng khách
hàng này. Dĩ nhiên, lãi suất gửi cho loại tiền định kỳ cao hơn lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn. Ngoài ra mức lãi suất còn thay đổi tuỳ theo từng loại kỳ hạn gửi
(3,6,9 hay 12 tháng), tuỳ theo đồng tiền gửi tiết kiệm (VND, USD, EUR hay
vàng) và tuỳ theo uy tín và rủi ro của ngân hàng nhận tiền gửi.
9
Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn có thể phân chia thành nhiều loại. Căn cứ vào
thời hạn có thể chia thành tiền gửi kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng,
12 tháng và trên 12 tháng. Căn cứ vào phương thức trả lãi có thể chia thành :
Tiền gửi kỳ hạn trả lãi đầu kỳ
Tiền gửi kỳ hạn trả lãi cuối kỳ

Tiền gửi kỳ hạn trả lãi theo định kỳ (tháng hoặc quý).
Việc phân chia tiền gửi kỳ hạn thành nhiều loại khác nhau làm cho sản
phẩm tiền gửi của ngân hàng trở nên đa dạng và phong phú có thể đáp ứng
được nhu cầu gửi tiền đa dạng của khách hàng.
- Các loại tiết kiệm khác
Ngoài hai loại tiền gửi tiết kiệm chính là tiết kiệm không kỳ hạn và tiết
kiệm có kỳ hạn hầu hết các ngân hàng thương mại đều có thiết kế những loại
tiền gửi khác nhau như tiết kiệm tiện ích, tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm an
khang với nét đặc trưng riêng nhằm làm cho sản phẩm của mình luôn được
đổi mới theo nhu cầu khách hàng và tạo ra rào cản rị biệt để chống lại sự bắt
chước của các đối thủ cạnh tranh.
- Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá.
Các ngân hàng thương mại phát hành kỳ phiếu và trái phiếu, đặc điểm là
có kỳ hạn và lãi suất hay khoản lãi được hưởng khi đáo hạn thanh toán được ghi
ngay trên bề mặt của kỳ phiếu hay trái phiếu. Hình thức huy động vốn này được
thực hiện với mục đích sử dụng vốn rõ ràng, số lượng và thời gian phát hành nhất
định. Do hoạt động cạnh tranh và đảm bảo lợi ích cho khách hàng có tiền gửi,
khách hàng rút vốn trước hạn đều được các ngân hàng thương mại Việt Nam trả
lãi không kỳ hạn.
- Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng và các ngân hàng nhà nước
Chủ yếu vay vốn của các ngân hàng thương mại là vay chiết khấu với
Ngân hàng Nhà Nước, khi dòng tiền thanh toán vượt mức dự trữ thanh toán,
10
như trong thanh toán bù trừ và thanh toán các khoản tiền gửi rút ra khỏi ngân
hàng. Vay vốn các Ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng thương mại cho
vay lẫn nhau khi nhu cầu tài trợ vốn cho khách hàng đòi hỏi, trong khi chưa
tạo lập được nguồn vốn bằng các hình thức khác. Cũng qua hình thức này
ngân hàng có thêm khả năng thanh khoản mà không nhất thiết phải bán các tài
sản khác, có thể làm thiệt hại cho ngân hàng vì có thể phải gia tăng chi phí.
Đặc điểm của vốn vay là lãi suất cao nên các ngân hàng thương mại chỉ tham

gia vay vốn khi thực sự cần thiết.
1.1.2.2. Sử dụng vốn
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là tài trợ khách hàng trên
cơ sở tín nhiệm (tín dụng). Hình thức tín dụng truyền thống của ngân hàng
thương mại là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng
mua hàng hoá, nguyên, nhiên, vật liệu; sau đó mở thành nhiều hình thức khác
nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoản, bằng
giấy tờ lưu kho hoặc không cần thế chấp. Các ngân hàng thương mại lớn hiện
nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng từ cho vay ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn, bảo lãnh cho khách hàng, mua các tài sản để cho thuê…Các hình
thức tín dụng này một mặt mang lại thu nhập mặt khác chứa đựng rủi ro cho
ngân hàng. Để mở rộng tín dụng có hiệu quả, các ngân hàng thương mại , bên
cạnh phải xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng đúng đắn, phải không
ngừng đa dạng hoá các hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị
hiếu của khách hàng.
a. Hoạt động cho vay
Cho vay là việc ngân hàng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền vay với nguyên tắc có hoàn trả. Căn cứ vào thời gian có thể phân
thành 2 hình thức cho vay: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn.
+ Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay bổ xung thiếu hụt về vốn
lưu động cho khách hàng vay hoạt động sản xuất kinh doanh và vay vốn tiêu
dùng. Cho vay ngắn hạn là các khoản vay tối đa 12 tháng.
11
+ Cho vay trung và dài hạn: Được thực hiện đối với những dự án đầu tư
cơ bản, dự án xây dựng hạ tầng cơ sở phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội,
mua sắm tài sản cố định, thay đổi và chuyển giao công nghệ của các doanh
nghiệp các đối tượng có chu kỳ sản xuất, kinh doanh dài ngày, để cho vay
trung và dài hạn bắt buộc các ngân hàng thương mại phải có nguồn vốn dài
hạn. Nguồn vốn dài hạn hiện nay đối với các ngân hàng thương mại rất thiếu
cho nên tỷ trọng cho vay trung và dài hạn chưa tương xứng với nhu cầu đầu

tư của các thành phần kinh tế.
Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn vay từ 12 tháng đến 60
tháng. Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn vay từ 60 tháng trở lên.
b. Đầu tư
Sau hoạt động cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chính cho ngân
hàng, thì đầu tư được xếp hàng thứ hai. Hoạt động đầu tư của các ngân hàng
thương mại vừa làm đa dạng loại hình vốn sử dụng vừa mang lại thu nhập,
đồng thời còn là khoản dự trữ thứ cấp với các chứng khoán ngắn hạn chất
lượng cao. Đầu tư bao gồm các hoạt động chính như:
+ Mua các chứng khoán, trái phiếu Chính phủ: Các chứng khoán Chính
phủ được các ngân hàng thương mại xem như không có rủi ro. Trong năm qua
và hiện tại ở Việt Nam, trái phiếu kho bạc Nhà nước (trái phiếu ngắn hạn)
qua các đợt phát hành hầu hết là do các ngân hàng thương mại mua thông qua
phiên đấu giá do NHNN chủ trì. Hoạt động này đối với ngân hàng vừa mang
lại thu nhập bằng lãi trái phiếu, vốn đầu tư có tính an toàn cao, có khả năng
tạo ra các công cụ thanh toán cho các ngân hàng thương mại khi cần thiết.
+ Các chứng khoán khác: Bao gồm các công cụ vay nợ vì ngân hàng
thương mại không được phép nắm giữ cổ phiếu. Trong hoạt động đầu tư ngân
hàng quan tâm nhiều nhất đến chất lượng và kỳ hạn của các chứng khoán, bởi
các chứng khoán có thể không có rủi ro, nhưng lại thay đổi đáng kể về giá cả
12
khi lãi suất thay đổi, từ đó ảnh hưởng đến lợi tức hoặc thiệt hại khi phải bán
chứng khoán. Kỳ hạn đầu tư cho phép có thể tái đầu tư vào các chứng khoán
khác phù hợp hơn.
c. Cho thuê tài chính
Thuê tài chính là hình thức vay vốn, ký kết hợp đồng thuê tài chính
giống như đi vay tiền. Khi một hợp đồng tài chính được ký kết, người thuê lập
tức có một luồng tiền vào, do người thuê không phải bỏ tiền ra mua tài sản.
Nhưng người thuê cũng phải cam kết trả các khoản phí thuê được quy định cụ
thể trong hợp đồng thuê. Người sử dụng lẽ ra có thể đi vay toàn bộ số tiền với

giá trị ngang với giá tài sản bằng một hợp đồng vay phải trả cả gốc và lãi cho
chủ nợ. Chính vì vậy, ngân lưu của hợp đồng thuê tài chính và vay nợ cũng
tương tự nhau.
d. Bảo lãnh ngân hàng
Là cam kết bằng văn bản của các tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng, khi khách hàng không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh, khách
hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Cam kết bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín
dụng hoặc văn bản thoả thuận giữa tổ chức tín dụng, khách hàng được bảo
lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã
cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Bảo lãnh là công cụ bảo đảm: Bằng việc cam kết chi trả bồi thường khi
xảy ra sự cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, các ngân hàng phát
hành bảo lãnh đã tạo ra một sự đảm bảo chắc chắn cho người nhận bảo lãnh.
Chính sự bảo đảm này tạo ra sự tin tưởng khiến cho các hợp đồng được ký kết
một cách dễ dàng và thuận lợi.
13
Bảo lãnh là công cụ tài trợ: Bảo lãnh còn là công cụ tài trợ cho người
được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh, người được bảo lãnh không cần xuất quỹ,
được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được kéo dài thời gian thanh toán
tiền hàng, dịch vụ…Do vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn như trong tín
dụng nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp cho khách hàng được hưởng những
thuận lợi về ngân quỹ như trong trường hợp cho vay.
1.1.2.3. Dịch vụ trung gian
Các dịch vụ trung gian được các ngân hàng thương mại rất coi trọng,
bởi hoạt động có tính an toàn, lợi nhuận cao. Ngoài việc mang lại lợi nhuận
trực tiếp qua thu phí dịch vụ trung gian còn góp phần tạo lập nguồn vốn,
thông qua các hoạt động thanh toán ký gửi.

- Trung gian thanh toán
Là việc Ngân hàng cung cấp cho khách hàng các dịch vụ thanh toán.
Thông qua các hoạt động này, tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện các
khoản thanh toán với nhau, mà không phải mang theo một lượng tiền mặt
bằng hai hình thức:
- Thanh toán không dùng tiền mặt (Thanh toán chuyển khoản) đối với
các khách hàng có mở tài khoản tại ngân hàng. Nghiệp vụ này được thực hiện
từ các phương thức thanh toán do Ngân hàng cung cấp như: Séc, uỷ nhiệm
thu, uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán khách hàng sử dụng các phương thức thanh
toán trên để trả tiền cho người thụ hưởng hay đòi tiền cung cấp hàng hoá hay
dịch vụ thông qua Ngân hàng.
- Chuyển tiền thanh toán: Là việc khách hàng có thể trả một khoản tiền
ở bất kỳ chi nhánh ngân hàng thương mại nào mà người nhận tiền có hay
không có tài khoản tại Ngân hàng.
Hiện nay, với công nghệ thanh toán rất phát triển, hoạt động trung gian
thanh toán của Ngân hàng đã thực sự đóng vai trò quan trọng trong hoạt động
kinh tế, tiêu dùng của xã hội.
14
- Dịch vụ ngân quỹ
Ở các nước phát triển, dịch vụ ngân quỹ rất đa dạng và hiện đại như các
hoạt động ký gửi, thuê kho két, thu hộ và chi hộ tiền mặt Đối với các ngân
hàng thương mại Việt Nam hoạt động ngân quỹ chiếm một tỷ trọng lớn về lao
động và chi phí bởi nhu cầu thanh toán và chuyển tiền thanh toán quan hệ tín
dụng bằng tiền mặt rất lớn và không có hạn chế, trong khi đó dịch vụ ngân
quỹ lại chưa thực sự phát triển, sự xâm nhập vào hoạt động kinh tế- xã hội
còn rất khiêm tốn.
- Dịch vụ cho các nhà xuất nhập khẩu.
Hoạt động của các nhà xuất nhập khẩu gắn liền với các dịch vụ, nghiệp
vụ ngân hàng như: Nhận và xử lý chứng từ, ứng trước tiền, thanh toán và
chuyển tiền quốc tế, tư vấn về mậu dịch, các quy định và quản lý ngoại hối.

+ Xử lý các chứng từ: ngân hàng thương mại giúp các khách hàng hoạt
động xuất nhập khẩu xử lý các bộ chứng từ hàng hoá. Các chứng từ buôn bán
quốc tế rất quan trọng, chúng kiểm soát sự vận động của hàng hoá, phải được
lập đúng lúc, đúng chỗ, đầy đủ và hợp lệ, chỉ một điểm nhỏ không rõ ràng
trong chứng từ sẽ dẫn đến việc tranh chấp trong thanh toán.
+ Thư tín dụng: Người mở thư tín dụng thường là người nhập khẩu
(người mua), người mua xin ngân hàng phục vụ mình (Ngân hàng phát hành
thư tín dụng) mở một khoản tín dụng cho bên xuất khẩu (người bán) theo các
điều khoản của thư tín dụng, Ngân hàng phát hành cam kết rằng người bán sẽ
được thanh toán cho hàng hoá của mình, với điều kiện người bán phải tuân
thủ các điều khoản đã nêu trong hợp đồng được thể hiện bằng nội dung thư tín
dụng. Thư tín dụng có lợi thế cho các nhà xuất khẩu vì hàng hoá chắc chắn
được thanh toán bằng đảm bảo của Ngân hàng phát hành, đồng thời cũng đảm
bảo lợi ích của người nhập khẩu.
15
+ Uỷ thác thu: Là quá trình đòi một khoản tiền ở ngoài thực hiện, hay
người thu lệnh chi trả. Uỷ thác thu phụ thuộc vào chứng từ có thể dùng cho cả
nhập khẩu, xuất khẩu và có thể dưới hình thức các hối phiếu thanh toán ngay
hay có kỳ hạn.
+ Dịch vụ về ngoại hối: Thanh toán quốc tế đòi hỏi việc chuyển đổi loại
tiền vay sang loại tiền khác là cần thiết và thường xuyên diễn ra. Các nhà
nhập khẩu thường phải mua ngoại tệ cho các nhu cầu thanh toán hàng nhập và
các nhà xuất khẩu có thu về ngoại tệ phải bán ngoại tệ theo quy định về quản
lý ngoại hối của Nhà nước. Để cung cấp các dịch vụ về ngoại hối, các ngân
hàng thương mại phải dự trữ tiền gửi dưới các hình thức, tiền gửi của Ngân
hàng nước ngoài , mua bán trên thị trường ngoại hối liên ngân hàng , mua bán
của cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội có thu ngoại tệ.
Thông qua trung gian là các ngân hàng thương mại, các nhà xuất nhập
khẩu còn hạn chế được rủi ro do tỷ giá gây ra, bằng các hợp đồng mua bán
ngoại tệ có kỳ hạn với ngân hàng (Forward).

1.1.3. Quản lý tài sản của Ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Tài sản của ngân hàng thương mại.
Để khái quát tài sản của ngân hàng thương mại một cách có hệ thống,
chúng ta nghiên cứu bảng tổng kết tài sản của ngân hàng . Dưới đây là việc
dẫn bảng tổng kết tài sản của một ngân hàng thương mại:
16
Bảng 1.1: Bảng quyết toán tài sản của ngân hàng thương mại
Khoản Mục
1. Tổng tài sản Có:
 Tiền mặt và tương đương tiền mặt
 Tiền gửi tại NHNN
 Tiền gửi tại các TCTD
 Cho vay
 Nợ khoanh và nợ chờ xử lý
 Đầu tư vào chứng khoán
 Góp vốn mua cổ phần
 Tài sản cố định
 Các khoản phải thu
 Tài sản có khác
2. Tổng tài sản Nợ và vốn:
 Tiền gửi của khách hàng
 Tiền gửi của các tổ chức tài chính
 Phát hành kỳ phiếu , trái phiếu
 Vay NHNN và các TCTD
 Các khoản phải trả
 Tài sản nợ khác
3. Tổng tài sản Nợ:
 Vốn điều lệ
 Các quỹ và vốn khác
 Lãi chưa phân phối

4. Tổng vốn
a. Tài sản Nợ:
Là một tổ chức trung gian tài chính ngân hàng thương mại đóng vai trò
quan trọng trong việc khơi nguồn đến những người vay tiền có cơ hội đầu tư
sinh lời. Việc khơi nguồn vốn thông qua các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng.
- Các khoản tiền gửi có thể phát hành séc: Các tổ chức kinh tế- xã hội,
các tổ chức tín dụng khác, cá nhân mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng
thương mại. Thông qua tài khoản người sở hữu chúng có quyền phát hành séc
cho người thực hiện thứ 3. Đây là loại tiền gửi được ngân hàng thanh toán
theo yêu cầu khách hàng, nghĩa là chủ tài khoản chỉ cần viết ra và gửi đến
17
ngân hàng nơi mở tài khoản một lệnh thanh toán (Séc, uỷ nhiệm chi ) ngân
hàng lập tức thanh toán theo yêu cầu và theo lệnh thanh toán đã nhận được.
Tiền gửi trên tài khoản thanh toán là tài sản có đối với người gửi,
ngược lại đối với ngân hàng là người có nghĩa vụ thanh toán số vốn đó theo
yêu cầu của người gửi, nên số vốn đó với ngân hàng là tài sản nợ. Vốn tiền
gửi loại này đối với hoạt động ngân hàng là loại vốn có chi phí thấp nhất và
với những người gửi tiền, họ thường không quan tâm đến số lãi mà chỉ quan
tâm đến tính lỏng có thể dùng trong quan hệ thanh toán, chi trả ở các nước
kinh tế phát triển gửi loại này thường không được hưởng lãi.
- Tiền gửi định kỳ và tiền gửi tiết kiệm: Đây là nguồn vốn quan trọng
nhất của ngân hàng, nó có đặc tính là được hưởng lãi, loại tiền gửi này thường
nhạy cảm với lãi suất các ngân hàng huy động như: Tiền gửi tiết kiệm, kỳ
phiếu, trái phiếu, trái phiếu ngân hàng
- Các khoản tiền vay:
Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng thương mại cũng như các
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, không phải lúc nào cũng biến
tạo cho mình có được nguồn vốn thoả mãn nhu cầu kinh doanh và thanh toán,
mà thường diễn ra hiện trạng thừa vốn, thiếu vốn tạm thời. Quan hệ vay vốn
giữa các TCTD với nhau và NHNN nhằm bình đẳng sự thiếu hụt và thừa vốn

tạm thời trên. Ưu điểm của quan hệ này là giảm chi phí cho các ngân hàng
thương mại do phải tìm kiếm nguồn vốn bổ xung.
- Vốn của ngân hàng thương mại:
Vốn tự có của Ngân hàng tức là tài sản thực của ngân hàng đó, nó được
tạo ra bằng cách bán cổ phần (phát hành cổ phiếu mới), lợi tức giữ lại. Vốn tự
có là thành phần quan trọng trong tổng tài sản Nợ của ngân hàng, lãi được coi
như phần đệm an toàn để chống đỡ rủi ro trong kinh doanh.
- Tài sản Nợ khác:
18
Các khoản kết dư về thanh toán giữa các ngân hàng, chủ yếu là kết dư
thanh toán chưa chuyển tiền giữa các chi nhánh trong hệ thống ngân hàng
thương mại, tài sản tạm giữ chờ xử lý, nguồn ký quỹ trong quan hệ thanh
toán, thuế chưa nộp, các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước chưa nộp.
b. Tài sản Có:
Tài sản Có của ngân hàng thương mại là kết quả của việc sử dụng vốn
của ngân hàng đó. Trong đó có những tài sản có đưa lại thu nhập tạo ra lợi
nhuận cho ngân hàng.
- Các khoản tiền dự trữ:
+ Tiền mặt tại ngân hàng : Là khoản dự trữ quá mức có tính lỏng nhất
hay là tỉ lệ an toàn thanh toán, được sử dụng chi trả nhanh chóng cho các
đồng tiền rút ra khỏi ngân hàng, các khoản thanh toán khác.
+ Dự trữ bắt buộc : Là khoản dự trữ theo luật định, theo quy định các
ngân hàng thương mại đều phải giữ lại và gửi các cơ quan dự trữ Việt Nam,
các ngân hàng thương mại gửi tiền dự trữ bắt buộc vào NHNN. Tỷ lệ dự trữ bắt
buộc được xác định trên tổng nguồn vốn huy động và theo kỳ hạn của từng loại
tiền gửi.
+ Tiền gửi ngân hàng khác.
Tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước, tại các ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng thương mại, NHNN có
quan hệ thanh toán với nhau, thanh toán bù trừ qua NHNN. Xuất phát từ nhu

cầu thực tế nhằm giảm chi phí, giảm thời gian trong quan hệ thanh toán, các
chi nhánh của các ngân hàng thương mại mở tài khoản thanh toán với nhau.
- Tiền cho vay.
Là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng
thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tiền cho vay là
khoản nợ của các doanh nghiệp, cá nhân nhưng là tài sản có của ngân hàng, vì
19
nó mang lại thu nhập cho ngân hàng. Tiền cho vay có tính kém lỏng, rủi ro
cao, bởi nó khó chuyển thành tiền mặt trước khi mãn hạn.
- Những tài sản Có khác:
Nhà cửa và trang thiết bị, phương tiện do các ngân hàng sở hữu phục vụ
cho quá trình kinh doanh của ngân hàng và cho thuê. Toà nhà ngân hàng là tài
sản cố định lớn nhất của ngân hàng. Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản
song các tài sản này ảnh hưởng tới vị thế, năng suất lao động của ngân hàng.
1.1.3.2. Mục tiêu quản lý tài sản của ngân hàng thương mại
- Lợi nhuận: Mục tiêu lớn nhất của hoạt động kinh doanh ngân hàng là
lợi nhuận. Ngân hàng thương mại với tư cách là những tổ chức kinh doanh vì
lợi nhuận vậy có thể cho rằng lợi nhuận là mục tiêu của quản lý tài sản sử
dụng trong hoạt động kinh doanh.
- Phát triển nền kinh tế: Ngân hàng nói chung là một ngành kinh tế
quan trọng có tác động rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế mỗi nước,
vậy xác định mục tiêu là cơ sở xây dựng mô hình quản lý, điều hành hoạt
động của chúng . Việc phân tích các quan hệ, triển khai hoạt động, kiểm tra
sự hoạt động của các nhân tố trong mô hình đều hướng tới mục tiêu xác
định và để đạt mục tiêu phải tuân theo những nguyên tắc nhất định; đó là
nguyên tắc quản lý, trên nguyên tắc này xây dựng, lựa chọn phương pháp
quản lý.
- Mở rộng uy tín và đảm bảo an toàn (an toàn thanh khoản, an toàn tín
dụng và an toàn khác): Hoạt động ngân hàng là một loại hình hoạt động phức
tạp, có tính nhạy cảm cao đối với mọi hoạt động kinh tế- xã hội nói chung,

mặt khác có tính dây chuyền vì hoạt động ngân hàng trên nền tảng là lòng tin.
Nếu một chi nhánh của ngân hàng thương mại mất khả năng thanh toán, sự an
toàn bị đe doạ dẫn đến mất lòng tin đối với khách hàng, lập tức các dòng tiền
được rút ra khỏi ngân hàng, tạo nguy cơ mất khả năng thanh toán cao chi phí
(thất bại) lớn cho ngân hàng vay, lan truyền trong hệ thống.
20
Những biến động trong quá trình hoạt động, làm cho các mục tiêu đạt
được trên thực tế không như chu trình.( Gọi chung là rủi ro); Rủi ro cơ chế, lãi
suất, tín dụng, thanh toán làm thay đổi vị thế của Ngân hàng, tính an toàn hệ
thống không được đảm bảo.
Để đạt mục tiêu lợi nhuận các ngân hàng thương mại phải đảm bảo khả
năng thanh toán, quản lý rủi ro, có được những tài sản Có với mức rủi ro chấp
nhận. Dành được những nguồn vốn có chi phí thấp là các mục tiêu cơ bản của
mục tiêu quản lý tài sản của Ngân hàng.
1.1.3.3. Nguyên tắc quản lý tài sản của ngân hàng thương mại
Quản lý damh mục tài sản của ngân hàng thương mại là việc phân chia
nguồn vốn của ngân hàng thương mại vào các loại đầu tư giữa tiền mặt,
chứng khoán, tín dụng hay các loại tài sản khác một cách tối ưu.
Qua việc phân chia vốn vào các tài sản này, ngân hàng thương mại sẽ
thu được lợi nhuận, nhưng vấn đề cơ bản ở đây là làm sao vừa đảm bảo tối đa
hoá lợi nhuận vừa đảm bảo được khả năng thanh khoản (tức vấn đề an toàn
của ngân hàng) và tối thiểu hoá được rủi ro.
Với các biện pháp nghiệp vụ, Ngân hàng sẽ thẩm định, xem xét và
quyết định các khoản cho vay trên nhiều khía cạnh khác nhau nhằm hạn chế
rủi ro nhưng không vì thế mà làm mất cơ hội kinh doanh của mình.
Ngoài hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại còn có các khoản đầu
tư khác như đầu tư vào chứng khoán, đầu tư vào bất động sản.
Nhiệm vụ quản lý của các nhà quản lý ngân hàng là phải thường xuyên xác
định sự biến động của tài sản của ngân hàng, bởi vì hoạt động kinh doanh của
NHTM chủ yếu được đánh giá thông qua chất lượng của tài sản. Ngân hàng phải

đề ra được phương thức và tỷ lệ phân chia thích hợp của các tài sản nhằm đạt
được các mục tiêu của ngân hàng trong quản lý hoạt động kinh doanh nâng cao uy
tín trên thương trường tài chính, đem lại lợ nhuận tối đa và rủi ro tối thiểu.
21
Xét trên phương diện tổng quát thì an toàn tín dụng sẽ đảm bảo thu
nhập tối ưu cho ngân hàng: Bởi vì một tỷ lệ nợ xấu luôn gắn liền với một mức
chi phí cao hơn cho ngân hàng, một sự biến động lớn trong cơ cấu nguồn vốn
cũng sẽ tăng chi phí cho ngân hàng. Do đó, việc đảm bảo an toàn tín dụng sẽ
mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
Đảm bảo an toàn tín dụng cần phải được đặt ra như là một trong những
giải pháp giảm thiểu chi phí, tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Dù mở rộng cho
vay nhưng không kiểm soát tốt chất lượng tín dụng và với tỷ lệ nợ quá hạn
luôn ở mức cao thì cũng không mang lại hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng
như mong muốn. Mặt khác song song với việc đẩy mạnh quy mô cho vay
cùng với việc phải đảm bảo quy mô nguồn vốn hợp lý giảm thiểu chi phí sẽ
tạo điều kiện rất thuận lợi cho ngân hàng thương mại có mức tăng trưởng
đáng kể về lợi nhuận và đạt hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh.
1.2. HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân
hàng thương mại
Hiệu quả kinh doanh là kết quả chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh trình độ sử
dụng các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, là sự đối chiếu so sánh
giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là thước đo tổng hợp
phản ánh kết quả kinh doanh cả về số lượng, cũng như chất lượng. Hiệu quả
kinh doanh một mặt nó kích thích các ngân hàng thương mại sử dụng hợp lý
các nguồn lực, mặt khác nó tạo cho ngân hàng uy tín vững chắc, nâng cao
năng lực cạnh tranh
Khi đã có uy tín và thương hiệu thì bản thân ngân hàng sẽ có cơ hội
tiếp cận với nhiều khách hàng và đối tác nhiều hơn, có cơ hội phục vụ với giá

22

×