Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

ĐỀ TÀI: TÍCH CỰC HÓA VIỆC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH QUA CÁC TIẾT HỌC VẬT LÝ THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.25 KB, 18 trang )

I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chúng ta đang sống trong thế kỷ của trí tuệ sáng tạo. Đất nước ta đang trong
thời kỳ đổi mới, đó là thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển giáo dục
và đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, là điều kiện phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Sự nghiệp giáo dục phải góp phần
quyết định vào việc bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tiềm năng trí tuệ, tư duy sáng tạo,
năng lực tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, năng lực giải quyết vấn đề thích ứng được với
thực tiễn cuộc sống, với sự phát triển của kinh tế tri thức. Mục tiêu đổi mới này
đòi hỏi ở người thầy phải phân tích và nhận thức được tầm quan trọng trong công
tác giảng dạy, ngay chính trong bản thân người thầy cũng phải đổi mới về phương
pháp giảng dạy cho phù hợp với thực tiễn đặt ra.
Dạy học trước kia mang tính chất “độc thoại thông báo, giảng giải áp đặt
của sự dạy và tính chất “thụ động chấp nhận, ghi nhớ, thừa hành, bắt buộc” sự
học của trò. Kiểu dạy học như thế không thể khích lệ, phát huy được hoạt động tự
chủ, tìm tòi, sáng tạo giải quyết vấn đề của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tri
thức. Cách thức dạy học đó ngày nay không còn phù hợp với xu thế thời đại. Kiểu
dạy học đó không thể tồn tại và chấp nhận được.
Trong chương trình Vật lý ở bậc học THPT, định luật vật lý là một trong
những nội dung cơ bản nhất, song song tồn tại với định nghĩa các đại lượng vật
lý mà người giáo viên cần truyền đạt cho học sinh. Vì vậy, việc giảng dạy các
định luật vật lý, định nghĩa các đại lượng vật lý theo phương pháp đổi mới là rất
cần thiết.
Từ đó, nảy sinh cho tôi câu hỏi “ Dạy học như thế nào để bồi dưỡng cho học sinh
tiềm năng trí tuệ sáng tạo, tư duy khoa học vật lý, năng lực giải quyết các vấn đề của vật
lý” .Với các vấn đề nêu trên, bài sáng kiến này đề cập vấn đề: TÍCH CỰC HÓA VIỆC
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH QUA CÁC TIẾT HỌC
NỘI DUNG
PHẦN MỘT: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Căn cứ vào mục tiêu của Giáo Dục&Đào Tạo “Nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề,


có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có đạo đức cách mạng, có
tinh thần yêu Nước, yêu CNXH”. Trong khi đó, môn học Vật lý trong trường
THPT là một trong những môn học cơ bản tạo điều kiện phát triển tư duy của học
sinh. Vật lý có mối quan hệ chặt chẽ với môn kỹ thuật, điều đó khẳng định tính
cần thiết của môn học. Tính chất cơ bản của các khái niệm vật lý, các định luật
vật lý là các luận cứ cơ bản của triết học mang tính khoa học biện chứng một cách
sâu sắc, điều đó càng khẳng định Vật lý có thế giới quan khoa học cho học sinh.
Là một người giáo viên giảng dạy bộ môn Vật lý, tôi nhận thức được nhiệm
vụ cơ bản của mình đó là:
• Cung cấp cho học sinh kiến thức phổ thông cơ bản có hệ thống và toàn diện
về vật lý. Hệ thống này phải thiết thực có tính kỹ thuật và phù hợp với quan
niệm hiện đại của vật lý học.
• Rèn luyện cho học sinh những kỹ năng chủ yếu sau:
- Quan sát.
- Đo lường.
- Sử dụng các dụng cụ máy đo phổ biến.
- Thực nghiệm, thí nghiệm vật lý đơn giản.
- Giải các bài vật lý phổ thông.
- Vận dụng các kiến thức vật lý để giải thích hiện tượng đơn giản và ứng
dụng của vật lý trong sản xuất.
- Sử dụng các thao tác tư duy lôgic và các phương pháp cơ bản về môn học
vật lý
• Góp phần phát triển năng lực tư duy lôgic cho học sinh.
• Góp phần xây dựng cho học sinh thế giới quan khoa học và giáo dục lòng
yêu Nước, yêu chủ nghĩa xã hội khoa học và tinh thần quốc tế vô sản.

PHẦN HAI: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
“ TÍCH CỰC HÓA VIỆC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH”
Theo lý thuyết hiểu theo nghĩa hẹp “Tích cực hóa việc học tập của học sinh”
là làm thế nào để học sinh thuộc làu tài liệu ngay trong giờ học trên lớp mà không

cần nghiên cứu tài liệu ngoài giờ học. Đồng thời, tích cực hóa việc học tập của
học sinh là tổ chức, theo dõi sự chú ý của học sinh ở tất cả các giai đoạn, ở các
kiểu khác nhau sao cho học sinh thu được kiến thức không phải thụ động mà là
trong quá trình làm việc tích cực tự lực muôn hình muôn vẻ.
Trên cơ sở lý thuyết và thực tế khi giảng dạy tại trường tôi nhận thấy để tích
cực hóa việc học tập của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức bộ môn Vật lý thì
người giáo viên cần làm những công việc sau:
I. CHUẨN BỊ THIẾT KẾ BÀI GIẢNG
1. Phải nghiên cứu kỹ tài liệu, xác định mục tiêu bài dạy, phần dạy, kiểu
bài dạy, kiến thức của bài dạy, nội dung trọng tâm cần truyền tải tới học sinh
Sau đây sẽ liệt kê một số kiểu bài dạy và phương pháp giảng dạy
1.1. Giảng dạy các khái niệm vật lý
Định nghĩa:
Khái niệm vật lý là sản phẩm phản ánh bởi bộ óc những tính chất chung về
bản chất của đối tượng và sự vật hiện tượng vật lý.
Đặc điểm:
+ Các khái niệm vật lý thường xuất hiện khi nghiên cứu các đại lượng vật lý
và được chia làm hai nhóm đó là khái niệm vật lý chỉ có đặc điểm định tính và
khái niệm vật lý chỉ có đặc điểm định lượng.
+ Khi giảng dạy các khái niện vật lý, giáo viên phải cho học sinh nắm thật
chắc các khái niệm vật lý vì học sinh có nắm chắc các khái niệm vật lý thì mới đi
sâu vào bản chất các hiện tượng vật lý và ứng dụng nó trong cuộc sống và trong
kỹ thuật.
Chú ý:
- Khi giảng dạy các khái niệm vật lý giáo viên phải chỉ rõ cho học sinh nhận
thức rõ được những yêu cầu sau
- Đại lượng có hướng hay đại lượng vô hướng
- Đại lượng đặc trưng cho tính chất gì của sự vật hiện
Đại lượng vật lý ấy là tượng vật lý.
- Mối liên hệ định lượng giữa nó với các đại lượng

khá thể hiện trong công thức nào.
- Đơn vị đo,cách đo đại lượng đó ra sao

Phương pháp giảng dạy các khái niệm vật lý
Khi giảng dạy các khái niệm vật lý người giáo viên cần làm theo các bước sau:
Bước 1: Vạch ra đặc điểm lý tính của khái niệm mới cần giảng dạy
Bằng các ví dụ gần gũi hàng ngày, thí nghiệm mở đầu đơn giản, bài kiểm tra
cũ giáo viên cho học sinh thấy trong hiện tượng vật lý hay trong các tính chất vật
thể đang nghiên cứu xuất hiện những đặc điểm mới mà kiến thức cũ không thể
đặc trưng hoặc giải thích được. Từ đó giáo viên cần xây dựng một định nghĩa mới
mà đặc tính của nó có trong ví dụ, thí nghiệm, nội dung kiểm tra ở trên.
Bước 2: Làm sáng tỏ đặc điểm định lượng của khái niệm mới
Các đại lượng vật lý có liên quan với nhau bằng nhiều cách khác nhau.
Trong sách giáo khoa mối liên hệ giữa các đại lượng vật lý thường được xác lập
bằng thực nghiệm hoặc biến đổi các biểu thức toán học tìm ra sự phụ thuộc định
lượng giữa đại lượng mới và đại lượng cũ. Trong bước này giáo viên cần vạch ra,
chỉ rõ cho học sinh tìm hiểu quan hệ định lượng giữa đại lượng mới và các đại
lượng cũ mà giáo viên đã tổng kết ở bước 1
Bước 3: Định nghĩa khái niệm mới
Giáo viên chỉ thực hiện bước này khi biết học sinh đã nắm chắc bước 2 tổng
kết của việc nghiên cứu đúc rút những tri thức đã thu được về khái niệm vào trong
một hình thức giản đơn dễ hiểu thông thường ta đưa ra khái niệm mới giản đơn
bằng lời.
Bước 4 : Xây dựng đơn vị đo
Đơn vị đo thường được suy ra từ công thức của định nghĩa. Trong bước này
giáo viên yêu cầu học sinh tự xây dựng và đặt câu hỏi về ý nghĩa, định nghĩa đơn
vị đo đó cũng là một hình thức giúp học sinh hiểu, nhớ, nắm vũng khái niệm mới.
Bước 5: Vận dụng khái niệm mới vào thực tiễn
Trong bước này giáo viên cho học sinh giải thích hiện tượng vật lý đơn giản hoặc
giải bài tập đơn giản ngay tại lớp học và cuối cùng giao bài tập về nhà cho học

sinh vận dụng.
Chú ý:
Đến bước 3 giáo viên chỉ cần học sinh hiểu, nhớ khái niệm mới chứ chưa cần đòi
hỏi ở học sinh nắm vững kiến thức đã học. Khi giảng dạy giáo viên hay bỏ qua bước 4,
bước 5 mà đã đòi hỏi ở học sinh nắm vững kiến thứclà một điều vô lý.
1.2. Giảng dạy các định luật vật lý
Đặc điểm:
+ Định luật vật lý là bước tiếp theo của việc phát triển cao hơn sau khái niệm
vật lý. Nó thiết lập mối quan hệ chặt chẽ sâu sắc các hiện tượng vật lý.
+ Định luật vật lý có tính tất yếu, phổ biến, tức là trong điều kiện nhất định nó
có tác dụng bất kỳ ở đâu và ở chỗ nào. Vì thế, mỗi khi loài người phát hiện ra một
định luật vật lý thì trình độ con người phát triển cao hơn.
+ Khác với các quy luật của thực tế khách quan không thay đổi và tồn tại độc
lập với ý thức con người, thì định luật vật lý là kết quả của tư duy khoa học khi
nhận thức về tự nhiên, nhận thức của con người cao hay thấp mà định luật vật lý
phản ánh đúng thực tế khách quan nhiều hay ít.
+ Thực nghiệm “Thí nghiệm, quan sát, đo lường” là phương tiện cơ bản của
vật lý, hầu hết các định luật vật lý đều rút ra từ thực nghiệm cho nên nó thể hiện
tính khoa học, tính thực tiễn cao.
Chính bởi các đặc điểm trên mà khi học sinh cần nắm vững một định luật vật
lý cần biết các yêu cầu sau
Định luật vật lý:
- Phản ánh được mối quan hệ giữa các hiện tượng ra sao.
- Nội dung định luật được phát biểu như thế nào.
- Biểu thức toán học của định luật (nếu có)
- Ứng dụng của định luật (nếu có)
- Giới hạn áp dụng định luật.
- Cách thức, quá trình hình thành định luật.
Phương pháp giảng dạy các định luật vật lý
Khi giảng dạy các định luật vật lý giáo viên cần thực hiện các bước sau

Bước 1: Ôn tập những khái niệm cũ có mặt trong định luật
Trong bước này giáo viên cần kiểm tra nhận thức của học sinh về các khái
niệm cũ có mặt trong định luật mà học sinh đã học. Tuy nhiên không phải ôn lại
tất cả những gì có liên quan tới nội dung của định luật mà người giáo viên cần
hướng học sinh vào những nội dung khái niệm cơ bản. Nếu khái niệm đó là quá
khó hoặc học sinh đã học ở THCS mà học sinh chưa nhớ thì giáo viên có thể dành
hẳn một khoảng thời gian củng cố lại các khái niệm đó trước khi vào mục mới.
Chỉ sau khi biết chắc học sinh hiểu rõ bản chất của khái niệm liên quan, giáo
viên mới bước vào giảng phần đó.
Bước 2: Định hướng sự chú ý của học sinh vào mối liên hệ các hiện tượng, sự
vật trong tự nhiên cần nghiên cứu, vạch rõ các đại lượng sắp nghiên cứu
Để thực hiện bước này giáo viên cần lấy các ví dụ đơn giản về các hiện
tượng vật lý gần gũi với đời sống hàng ngày hoặc các thí nghiệm định tính đơn
giản
Chú ý: Trong bước này khi phân tích các hiện tượng, các ví dụ đã chọn,
giáo viên cần hướng học sinh vào phạm vi giới hạn của các đại lượng liên quan
tới định luật vì giữa các mặt của sự vật hiện tượng cũng có nhiều mối quan hệ
qua lại phức tạp, nếu không hạn chế phạm vi học sinh sẽ không hiểu mục đích
nghiên cứu. Mục đích cuối cùng của bước này là học sinh chỉ ra được các đại
lượng liên quan tới định luật và mối quan hệ qua lại định tính giữa chúng.
Bước 3: Tìm nội dung định luật hay tìm mối liên hệ qua lại giữa các đại lượng
Trong SGK nhìn chung các định luật vật lý được xây dựng từ thí nghiệm, hoặc
các bài toán định lượng. Đối với kiểu bài xây dụng bằng thí nghiệm, giáo viên cần
chú ý chuẩn bị thí nghiệm kỹ vì khi tiến hành trên lớp cần chính xác thành công
ngay. Từ nội dung kết quả của thí nghiệm, giáo viên hướng dẫn cho học sinh phân
tích hoặc dẫn dắt học sinh biện luận tìm mối quan hệ định lượng giữa các đại
lượng, khái niệm liên quan trong thí nghiệm và kết thúc bằng việc học sinh tự
tổng kết phát biểu thành nội dung của định luật cần học, biểu thức liên quan.
Bước 4: Vận dụng định luật vào giải các bài tập liên quan, giải thích các hiện
tượng trong tự nhiên

Trong bước này giáo viên cho học sinh giải bài tập đơn giản hoặc giải thích
một số hiện tượng vật lý xẩy ra trong cuộc sống hàng ngày mục đích của bước
này giúp học sinh củng cố lại nội dung định luật, hiểu và nắm vững định luật.
Bước 5: Nêu vị trí, giới hạn áp dụng của định luật
Với các định luật cần thiết, giáo viên cho học sinh thấy vai trò của định luật
và phạm vi áp dụng của định luật, giới hạn của định luật. Điều này chứng minh
cho học sinh thấy khoa học là vô tận, tri thức của con người không ngừng nâng
cao, từ đó giúp học sinh nhìn nhận khoa học vật lý một cách đúng đắn hơn.
1.3. Giảng dạy các bài có thí nghiệm
Đặc điểm:
+ Thí nghiệm vật lý là con đường ngắn nhất để học sinh tiếp thu kiến thức vật
lý một cách nhanh nhất.
+ Thí nghiệm vật lý giúp học sinh biết cách quan sát hiện tượng, biết cách đo
lường, sử dụng các dụng cụ đo từ thí nghiệm và áp dụng vào cuộc sống hàng
ngày.
+ Vật lý là một bộ môn khoa học thực nghiệm gắn liền với bộ môn kỹ thuật, vì
vậy từ các thí nghiệm học sinh hiểu sâu sắc hơn về các hiện tượng, các khái niệm,
các định luật vật lý.
+ Thí nghiệm vật lý là môi trường, là chân lý kiểm nghiệm các định luật vật lý.
Phương pháp giảng dạy
Khi giảng dạy các bài có thí nghiệm vật lý giáo viên cần thực hiện các bước sau
Bước 1: Giới thiệu dụng cụ làm thí nghiệm
Trong bước này giáo viên vừa ôn tập, kiểm tra học sinh trên các dụng cụ làm
thí nghiệm học sinh đã biết và giới thiệu tác dụng của các dụng cụ mới, cách đo.
Đồng thời nhắc nhở học sinh các điểm chú ý về việc an toàn trong khi làm thí
nghiệm.
Bước 2: Tiến hành thí nghiệm
Khi tiến hành thí nghiệm, giáo viên cần chú ý làm chậm, làm mẫu, khi đã tiến
hành xong giáo viên yêu cầu học sinh mô tả lại, sau đó yêu cầu học sinh tự làm.
Việc tiến hành thí nghiệm ở đây cần trình tự từ việc lắp các dụng cụ thí nghiệm,

tiến hành thí nghiệm.
Bước 3: Kết quả thí nghiệm
Kết quả thí nghiệm, hiện tượng xảy ra hoặc số liệu của phép đo bằng sự
quan sát của mắt thường thông qua các dụng cụ đo hoặc kết quả của phép đo trực
tiếp giáo viên cho học sinh quan sát, đo lường và rút ra hiện tượng, hay đọc kết
quả đo qua dụng cụ đo.
Bước 4: Phân tích kết quả thí nghiệm
Từ kết quả thí nghiệm với kiến thức học sinh đã có trong phần trước đó, giáo
viên dẫn dắt học sinh suy nghĩ tìm mối quan hệ qua lại, sự phụ thuộc lẫn nhau
trong nội dung bài học để phân tích định tính hay định lượng rút ra định nghĩa
mới hoặc nội dung của một định luật nào đó.
2. Xây dựng phương án dạy học kiến thức cụ thể
2.1. Lập sơ đồ mô phỏng tiến trình khoa học giải quyết vấn đề xây dựng kiến
thức vật lý cần dạy
Bước tiếp theo sau khi xác định được mục tiêu bài dạy, ta cần thiết kế tiến trình
hoạt động dạy học cho một kiến thức vật lý cụ thể. Chúng ta phải lập một sơ đồ
mô phỏng tiến trình khoa học giải quyết vấn đề, xây dựng hoặc kiểm nghiệm, vận
dụng kiến thức Vật lý cụ thể. Hiểu theo một cách đơn giản là chúng ta cần xây
dựng một con đường của sự lôgic để học sinh tiếp cận kiến thức mới nhanh nhất,
dễ hiểu nhất và có sự lôgic với nhau trong mọi quá trình của bài dạy.
Để làm được việc này người giáo viên phải phân tích được tiến trình khoa
học xây dựng kiến thức mới đó là:
- Kiến thức cần xây đựng là điều gì ?
- Kiến thức đó được diễn đạt thế nào ?
- Nó là câu trả lời rút ra được từ việc giải bài toán cụ thể nào ?
- Kiến thức đó xuất phát từ câu hỏi nào ?
- Tính hợp thức khoa học của câu trả lời có không ?
Dạng khái quát của sơ đồ mô phỏng tiến trình khoa học giải quyết vấn đề khi xây
dựng, kiểm nghiệm/ ứng dụng một tri thức mới như sau
2.2. Phương án dạy học kiến thức cụ thể

Phương án dạy học một kiến thức cụ thể có thể mô phỏng theo các bước sau
1.SƠ ĐỒ CẤU TRÚC NỘI DUNG VÀ TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG KIẾN THỨC
1.1: Câu hỏi cơ bản và kết luận tương ứng cần xây dựng
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Bµi to¸n
Vấn đề
(đòi hỏi xây dựng kiến
thức)
Điều kiện cần sử dụng để tìm câu trả lời
cho vấn đề đặt ra
Giải quyết bài toán
KẾT LUẬN/ NHẬN ĐỊNH
Bµi to¸n
Vấn đề
(đòi hỏi kiểm nghiệm/ứng
dụng thực tiễn kiến thức)
Điều kiện cần sử dụng để tìm câu trả lời cho vấn
đề đặt ra một mặt nhờ suy luận, mặt khác nhờ thí
nghiệm quan sát
Giải bài toán
bằng suy luận lý
thuyết
Giải bài toán nhờ
thí nghiệm, quan
sát
Kết luận
(nhờ suy luận lý
thuyết )
Kết luận
(nhờ thí nghiệm

quan sát)
1.2: Đề kiểm tra kết quả học
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
2.MỤC TIÊU DẠY HỌC VÀ ĐỀ KIỂM TRA KẾT QUẢ HỌC
2.1: Mục tiêu dạy học
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
2.2: Đề kiểm tra kết quả học
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
3.PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
3.1: Giáo viên: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
3.2: Học sinh: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
4. NỘI DUNG TRÌNH BÀY BẢNG
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
5. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC KIẾN THỨC CỤ THỂ
HOẠT ĐỘNG I
I.1: Định hướng mục tiêu hoạt động
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
I.2: Định hướng giải quyết nhiệm vụ
- Xác định giải pháp:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
- Thực hiện giải pháp:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
I.3: Tổng kết củng cố kết quả
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
HOẠT ĐỘNG II
II.1: Định hướng mục tiêu hoạt động
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II.2: Định hướng giải quyết nhiệm vụ
- Xác định giải pháp:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
- Thực hiện giải pháp:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II.3: Tổng kết củng cố kết quả

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
HOẠT ĐỘNG III. IV. . . . . .
Sau khi lập sơ đồ tiến trình giải quyết vấn đề xây dựng kiến thức cần dạy trên cơ sở đó
giáo viên có thể soạn bài theo ý đồ mà mình xây dựng.
3. Soạn bài
Soạn bài là công việc bắt buộc của một người thầy, mọi hoạt động trên lớp có tốt
hay không được thể hiện ở nội dung bài soạn.
- Mục tiêu dạy học phải nêu được nhiệm vụ của học sinh cần tiếp thu kiến thức trọng
tâm của bài, nhiệm vụ về kỹ năng của học sinh, mục tiêu giáo dục đạo đức của học sinh
qua bài học, mục tiêu phát triển tri thức khoa học là gì.
- Phương tiện dạy học giáo viên phải định hình được sự chuẩn bị của mình về tri
thức cần dạy, dụng cụ thí nghiệm cần chuẩn bị , hay phương tiện dạy học là gì ? Đối với
học sinh, giáo viên cần học sinh chuẩn bị những gì.
- Tiến trình hoạt động dạy học cụ thể ở đây là nội dung cơ bản của bài soạn là kịch
bản mà giáo viên trình diễn trước lớp học. Nội dung này phải nêu được các vấn đề liên
quan bài dạy các vấn đề đó phải có sự lôgic của sơ đồ mô phỏng tiến trình khoa học
giải quyết vấn đề khi xây dựng, kiểm nghiệm ứng dụng một tri thức mới mà giáo
viên đã lập ở mục 2. Đối với giáo viên mới nội dung trình bày bảng rất cần thiết.
Trong sáng kiến này mục đích không phải trình bày thiết kế một bài soạn vì vậy
tôi không đi sâu vào nội dung của một bài soạn nhưng theo tôi bài soạn ta có thể
làm theo mẫu sau.
MẪU TỔNG QUÁT BÀI SOẠN
I:MỤC TIÊU.
+ Kiến thức ( Nội dung trọng tâm bài học sinh cần nắm)
+ Kỹ năng (Rèn luyện cho học sinh những ký năng gì?)
+ Giáo dục( Giáo dục thế giới quan, khoa học như thế nào, giáo dục đạo đức học
sinh ở mục nào).
II PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC.
+ Giáo viên ( Giáo viên cần chuẩn bị những gì ?)
+ Học sinh ( Yêu cầu học sinh chuẩn bị gì về dụng cụ học, về tri thức )

III TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC
Hoạt động 1 ( nội dung, thời gian )
Trợ giúp của giáo viên Hoạt động của học sinh

Hoạt động 2 ( nội dung, thời gian )
Trợ giúp của giáo viên Hoạt động của học sinh
Hoạt động 3.4 . .

II. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TRÊN LỚP.
Tổ chức hoạt động trên lớp là khâu quan trọng quyết định chất lượng của một giờ
học. Để tích cực hóa hoạt động học của học sinh trên lớp học giáo viên phải thực hiện
đúng các bước trên lớp, thể hiện rõ vai trò của người thầy . Theo ý kiến của tôi để tích
cực hóa hoạt động của học sinh trên lớp thì giáo viên cần thực hiện tốt cáccông việc
sau:
1. Lời nói của giáo viên
Vai trò của lời nói trên lớp.
Để nhận biết được sự vật hiện tượng phải thông qua hai con đường đó là các giác
quan và ngôn ngữ lời nói. Lời nói là nguồn chính cung cấp tri thức cho học sinh, quyết
định tới sự nhận thức tri thức của học sinh cũng thông qua lời nói.
Lời nói là phương tiện, công cụ mà nhờ nó con người giao tiếp với nhau, trao đổi ý
kiến, hiểu biết nhau. Thầy hiểu trò và trò hiểu thầy thông qua lời nói.
Trong phương pháp trình bày tài liệu bằng lời, giáo viên chỉ sử dụng lời nói nhưng
hầu hết các giác quan khác, phương tiện dạy học khác đã có sự giúp đỡ đắc lực của lời
nói.
Yêu cầu của lời nói
Đối với một một giáo viên vật lý giảng dạy bộ môn tự nhiên lời nói phải: Chính
xác, rõ ràng, rành mạch, đầy đủ.
Khi nói phải rõ ràng, đủ nghe, nhịp điệu vừa phải. Học sinh phải đủ nghe rõ lời
nói của giáo viên, học sinh chỉ có thể nghe nhanh ở kiến thức cũ hoặc học sinh đã biết
khi đề cập vấn đề mới giáo viên cần bình tĩnh nói chậm đủ cho học sinh hiểu lời nói của

thầy.
Giọng nói phải trầm tĩnh êm tai không gay gắt và đơn điệu phải biết nhấn mạnh chỗ
quan trọng, ngừng lại trước hoặc sau câu cần chú ý.
2. Kiểm tra học sinh
Trước tiên khi bước vào lớp giáo viên cần kiểm tra, bao quát chung toàn bộ lớp học
từ việc nhỏ nhất đó là bảng viết của giáo viên, bàn ghế học tập của học sinh, vệ sinh lớp
học, thái độ học tập của học sinh. Công việc này giúp học sinh có thái độ nghiêm túc
trong học tập. Khi có hiện tượng bất thường xẩy ra giáo viên cần uốn nắn kịp thời rồi
mới bắt đầu vào giờ học.
Việc kiểm tra bài cũ của học sinh cũng là một công việc cần thiết, qua đó giáo viên
nhận biết được sự chuẩn bị của học sinh ở nhà và sự tiếp thu kiến thức cũ. Công việc
kiểm tra bài cũ không cần nhất thiết phải thực hiện vào đầu tiết học tùy theo nội dung
bài học giáo viên có thể kiểm tra đầu giờ và cũng có thể xen kẽ trong giờ học. Để tích
cực việc học tập của học sinh ở lớp cũng như ở nhà khi kiểm tra bài cũ tôi thường áp
dụng các câu hỏi khác nhau cho các đối tượng học sinh. Đối với học sinh yếu, trung
bình yếu chỉ cần học sinh nắm vững, thuộc nội dung trong sách giáo khoa là đủ, sau khi
học sinh nâng dần kiến thức ta kiểm tra ở hình thức cao hơn. Đối với học sinh khá tôi
không chỉ kiểm tra nội dung trong sách giáo khoa mà bao giờ cũng đặt lần lượt các câu
hỏi lôgic từ dễ đến khó, liên tục đòi hỏi ở học sinh không chỉ thuộc nội dung bài mà cơ
bản học sinh hiểu bài tới đâu. Khi học sinh không thuộc bài tôi thường yêu cầu học sinh
về nhà chép lại nội dung bài kiểm tra từ 10 đến 20 lần tùy theo đối tượng hoặc có thể
yêu cầu học sinh học ngay trên lớp cho thuộc khi học sinh kiểm tra lại thuộc tôi thường
đông viên bằng các câu hỏi “ học bài cũ khó hay dễ ? em học bằng cách nào thì chóng
thuộc bài cũ ?”
Kiểm tra dụng cụ học tập của học sinh trên lớp. Điều kiện đảm bảo cho học sinh
học, hiểu nội dung bài học trên lớp thì bắt buộc học sinh phải chuẩn bị đủ dụng cụ học
tập đối với tôi cần ở học sinh trong các giờ học phải có sách giáo khoa, sách bài tập, vở
ghi chép không phải giờ học nào cũng kiểm tra mà giáo viên có thể yêu cầu học sinh
chuẩn bị từ đầu năm học và đột xuất trong giờ học giáo viên kiểm tra dụng cụ học tập
của học sinh. Những học sinh không mang sách giáo khoa hoặc sách bài tập trong các

giờ bài tập, hôm sau tôi kiểm tra ngay nội dung bài cũ học sinh đó.
Kiểm tra ghi chép của học sinh trong các giờ học. Khi kiểm tra miệng hoặc giờ bài
tập giáo viên kiểm tra ghi chép của học sinh trong tiết trước. Trong giờ học tôi không
quan tâm tới việc học sinh ghi chép như thế nào nhưng không hẳn là học sinh chỉ ngồi
nghe và tham gia vào tiết học là đủ. Mà điều tôi quan tâm tới học sinh ghi chép những
gì, những nội dung cơ bản của bài học học sinh phải tự ghi lại theo cách hiểu của mình
hoặc về nhà học sinh có thể tự ghi lại bài học. Khi kiểm tra học sinh phải có trong vở lý
thuyết của mình. Vì cùng một buổi, học sinh tiếp thu các kiến thức của nhiều bộ môn ,
nhiều kiến thức mới và có kiến thức mà sách giáo khoa không có nhưng rất quan trọng
đối với sự phát triển tri thức của học sinh và nội dung trọng tâm bài học, trong khi đó
học sinh THPT đang trong độ tuổi tâm lý phát triển nhân cách nên không thể nhớ lâu, vì
vậy vở lý thuyết là dụng cụ học tập thứ ba của học sinh sau SGK và sách bài tập, rất tốt
cho học sinh học trên lớp cũng như ở nhà.
Kiểm tra định hướng hành động học của học sinh. Khi giáo viên giao nhiệm vụ, đưa
ra vấn đề tri thức thì giáo viên cần kiểm tra. Thể hiện ở chỗ giáo viên phải bao quát
được toàn bộ lớp học. Kiểm soát, theo dõi toàn bộ hoạt động học của học sinh. Khi phát
hiện học sinh không tập chung bài học tôi thường gọi ngay học sinh đó trả lời kiến thức
phần trước đó học sinh đã học, ngay trong bài học mới. Từ việc rất nhỏ của học sinh
đến việc học sinh nói truyện không phải vấn đề bài học giáo viên cần nhắc nhở ngay.
3. Đề suất vấn đề nhận thức
Đề suất vấn đề nhận thức là đặt vấn đề, nêu mục đích bài học, xét hiện tượng gì,
nghiên cứu các vấn đề giữa các hiện tượng phụ thuộc vào các đại lượng nào. Chú ý ở
đây giáo viên mới chỉ là đề suất chứ chưa nói tới kết quả của việc giải quyết vấn đề.
Đề suất vấn đề nhận thức là một yêu cầu sư phạm vì nó có tính chất kích thích tính
tích cực, phát triển tư duy của học sinh, sự tò mò của học sinh cần khám phá. Nó có tác
dụng thực sự khi gặp tình huống có vấn đề.
Theo tôi để tạo tình huống có vấn đề giáo viên có thể tạo ra như sau:
- Liên hệ với đời sống hàng ngày gần gũi với học sinh. đây là cách phổ biến nhất để
tạo ra tình huống giáo viên có thể kể ra ý nghĩa, ứng dụng của khoa học kỹ thuật và xác
định chúng.

- Giáo viên có thể sử dụng những thí nghiệm gợi mở kỳ lạ trái với dự đoán của học
sinh.
Ví dụ: Trong bài sự rơi tự do trong SGK vật lý lớp 10 giáo viên đặt câu hỏi cho học
sinh ( 1 Viên sỏi và 1 mẩu giấy vật nào rơi nhanh hơn khi ta thả từ cùng một độ cao so
mặt đất? ). Cho học sinh nhận xét nhiều học sinh sẽ cho rằng viên sỏi rơi nhanh hơn
tiếp đó giáo viên làm thí nghiệm cho học sinh quan sát học sinh thấy ở thí nghiệm
chúng rơi như nhau từ đó giáo viên đặt câu hỏi yếu tố nào ảnh hưởng tới tốc độ rơi của
các vật ?. Bằng thí nghiệm đòi hỏi ở học sinh phải suy nghĩ lại bằng sự quan sát bằng
kiến thức đã học để học sinh khám phá nhận định lại sự rơi của các vật trong không khí.
- Giáo viên có thể sử dụng các bài tập gợi mở kích thích tư duy của học sinh.
Ví dụ: Khi giảng dạy bài ngẫu lực giáo viên cho học sinh giải bài tập đơn giản về tổng
hợp hai lực song song ngược chiều tác dụng lên vật rán yêu cầu học sinh tìm lực tổng
hợp xác định trạng thái của vật khi có lực tác dụng. Rõ ràng khi học sinh áp dụng quy
tắc hợp lực của 2 lực song song ngược chiều thấy lực tổng hợp F = 0, tổng mô men hai
lực cũng bằng không vật ở trạng thái đứng yên trên thực tế vật lại chuyển động. Hiện
tượng này ta giải thích thế nào ?
4. Thường xuyên cho học sinh vận dụng kiến thức cũ đã học để xây dựng kiến
thức mới
Biện pháp này tích cực hóa tư duy của học sinh và đảm bảo kiến thức học sinh chiếm
lĩnh sâu sắc, vững chắc vì “ tiếp thu là hòa lẫn sản phẩm kinh nghiệm của người khác
với kiến thức của chính mình” .
Học sinh được vận dụng kiến thức cũ chứng minh kiến thức mới từ đó học sinh một
lần nữa ôn tập lại kiến thức cũ mà học sinh đã hiểu và từ đó tư duy của học sinh cũng
được phát phiển theo một mức độ mới.
Khi dạy các tri thức vật lý điều tối kỵ ở giáo viên là sử dụng những kiến thức mà học
sinh chưa biết để chứng minh những kiến thức mới.
Sử dụng nhiều thí nghiệm biểu diễn vật lý theo phương pháp biểu diễn kích thích học
sinh tò mò, hiếu kỳ, lôi cuốn học sinh vào bài mới nhanh hơn học sinh học tập hăng hái
hơn.
5. Tổ chức các tình huống học tập có vấn đề

Biện pháp này giúp học sinh luôn luôn suy nghĩ,tích cực, tự chủ, phải tìm hiểu
nhưng không nhàn chán.
Tình huống học tập có vấn đề thể hiện ra ở chỗ Giáo viên phải soạn thảo được những
nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề tương ứng với tri thức cần dạy để giao cho học sinh. Sao
cho nhiệm vụ đó học sinh hăng hái đảm nhận thực hiện theo suy nghĩ, giải pháp của
mình.
Khi giáo viên đưa ra các tình huống học tập có vấn đề phải chú ý tới sự chuyển tiếp
các kiểu tình huống có vấn đề vừa sức với sự nhận thức của học sinh không quá khó.
Giữa các tình huống đó phải có sự lôgic giúp học sinh không nhàm chán mà luôn luôn
suy nghĩ.
6. Định hướng khái quát hành động học, thể chế hóa tri thức cần học
Để định hướng được hành động học của học sinh một cách tích cực, tự chủ giáo viên
không đơn thuần bày sẵn cho người học những kết quả cần có, có sẵn trong sách giáo
khoa. Để người học chỉ việc chấp nhận, ghi nhớ, làm theo mà giáo viên phải giúp đỡ để
người học tự chủ suy nghĩ, hành động hướng tới cái cần có mà chưa biết cụ thể, để nắm
bắt làm chủ cái cần có đó, bổ sung vào vốn hiểu biết của mình. Giáo viên không nên đặt
câu hỏi mà kiến thức đó học sinh chỉ đọc sách là có mà cần đặt câu hỏi về kiến thức
trong sách nói gì ? Vận dụng kiến thức cũ, hiểu biết của mình để giải đáp kiến thức đó
như thế nào ? giáo viên cần đưa ra các câu hỏi gọi mở dẫn dắt học sinh hiểu dần ra vấn
đề của tri thức. Ở đúng lúc cần thiết giáo viên mới cung cấp cho học sinh những thông
tin bổ sung, thông báo, giảng giải để chuẩn xác hóa tri thức cần nắm vững. Từ đó định
hướng cho học sinh tự hoàn thiện tiếp tri thức của mình lúc này giáo viên dành một
khoảng thời gian để học sinh tự ghi lại kiến thức đó theo cách hiểu của học sinh vào vở.
Chú ý kiến thức đó Giáo viên không đọc cho học sinh ghi mà tự học sinh viết lại, Tri
thức đó phải đảm bảo học sinh đã hiểu và họ chỉ tái tạo lại bằng ngôn ngữ của chính
người học.
7. Củng cố bài học, định hướng phương pháp học tập ở nhà của học sinh
Củng cố bài học là công việc gần cuối cùng của giáo viên trên quan điểm trong giờ
học giáo viên nhận biết học sinh học, tiếp thu như thế nào, bên cạnh đó giúp học sinh ôn
tập củng cố lại tri thức vừa học giáo viên có thể đưa ra các bài tập trắc nghiệm yêu cầu

học sinh chọn đáp án đúng và dựa vào kiến thức trọng tâm bài học học sinh tự giải thích
đáp án mình vừa chọn. Giáo viên cũng có thể yêu cầu học sinh nhắc lại bằng lời nội
dung bài học. Hoặc giáo viên ra bài tập yêu cầu học sinh đưa ra lời giải nhanh trên cơ
sở đó giáo viên tổng kết lại nội dung cơ bản bài học, gạch chân những nội dung cơ bản
bài học, dùng phấn khác màu đóng khung các công thức vận dụng.
Định hướng phương pháp học tập ở nhà của học sinh là giáo viên có thể giao cho
học sinh các bài tập, các bài tập đó phải đảm bảo có tính chọn lọc nội dung các bài tập
giao từ dễ đến khó, bài tập vừa mang tính áp dụng củng cố tri thức bài học, vừa mang
tính sáng tạo đòi hỏi học sinh khá giỏi phải suy nghĩ. Sau các tiết bài tập, lý thuyết có
công thức vận dụng làm bài tập tôi thường nhắc nhở học sinh về nhà ghi lại toàn bộ
công thức, phương pháp giải bài tập vào một quyển riêng, phương pháp này giúp học
sinh vừa ôn tập tri thức vùa có cẩm nang bổ ích cho học sinh học về sau.
PHẦN BA: KẾT QUẢ ĐIỀU TRA KHẢO SÁT THỰC TIỄN
I. MỤC ĐÍCH.
+ Khảo sát vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm
+ Xem xét việc học sinh nắm vững nội dung tri thức mới
+ Tìm hiểu nguyên nhân của việc học sinh tiếp thu kiến thức
+ Trên cơ sở khảo sát cần bổ sung kiến thức cho học sinh.
II. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT.
Tác giả tiến hành khảo sát trên các lớp 10 của ban cơ bản và ban nâng cao,gồm các
lớp 10B1, 10B3, 10B5, 10C2, 10A1, 10A2, 11A4, 11A6, 11B1,11B3.
Đặc điểm của đối tượng khảo sát:
Nhìn chung học sinh trên các lớp phần lớn là các học sinh trung bình,số lượng học
sinh khá chiếm tỉ lệ thấp.riêng lớp 10A1, 10A2 11A4 số học sinh khá chiếm tỉ lệ cao
hơn so với các lớp còn lại.
III. KẾT QUẢ
+ Trong quá trình giảng dạy tác giả đều đưa ra các câu hỏi gợi mở, phân tích tổng
hợp đi thẳng vào vấn đề trọng tâm của bài và cuối tiết đều có các câu hỏi trắc nghiệm và
bài tập định lượng trắc nghiệm thì thấy kết quả là: 90% học sinh hiểu ngay lý thuyết sau
tiết dạy, 60% học sinh biết vận dụng làm bài tập đơn giản.

IV. GIẢI PHÁP
1 Phân tích hiện tượng
Qua việc khảo sát thấy về lý thuyết học sinh hiểu ngay vấn đề nhưng vẫn còn tồn tại
sau:
- Kiến thức toán học của học sinh còn hạn chế, đặc biệt là kiến thức véc tơ, hàm số,
biến đổi biểu thức toán học, tính số dẫn đến sự biến đổi các đại lượng vật lý còn
yếu
- Học sinh đưa ra được nội dung lý thuyết nhưng vận dụng vào thực tế còn lúng
túng, chưa giải thích được một số các hiện tượng vật lý xảy ra.
- Sau các bài học, học sinh nhận thức được ngay nội dung bài học nhưng đến hôm
sau khi kiểm tra thì học sinh còn lúng tứng
2 Giải pháp
- Trong các tiết học giáo viên cần củng cố kiến thức toán học nhất là kiến thức về véc
tơ.
- Trong các tiết bài tập giáo viên cần rèn luyện cho học sinh cách biến đổi các đơn vị
vật lý.
- Tăng cường kiểm tra việc học bài cũ của học sinh ở nhà.
KẾT LUẬN.
Trong thời gian ngắn và điều kiện nội dung chương trình SGK nói chung, SGK môn vật
lý nói riêng mới được cải cách, nhiều kiến thức còn mới với cả thầy và trò, tác giả làm
đề tài này trong phạm vi nội dung hẹp, phạm vi khảo sát ít. Tác giả rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến chân tình của các đồng nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện,
phương pháp giảng dạy ngày càng đổi mới nâng cao hơn.




×