TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA CÔNG NGHỆ SAU THU HOẠCH
Tiểu luận :
“LÚA”-
THỰC TRẠNG SAU THU HOẠCH &
PHƯƠNG PHÁP LÀM KHÔ Ở ĐBSCL
Môn: Công nghệ sau thu hoạch 1
Sinh viên thực hiện:
1.Nguyễn Ngọc Diệp
2.Đặng thị Kiều
3. Phạm Thị Muội
4.Nguyễn Ngọc Phương Trâm
5.Nguyễn Thị Thanh Tú
Lớp 11CS
Thành phố Hồ Chí Minh,20 tháng 6 năm 2013.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Thực trạng sản xuất nông nghiệp theo quy mô nhỏ lẻ làm ảnh hưởng đến chất
lượng nông sản nói chung và tình hình sản xuất lúa gạo nói riêng. Bên cạnh đó, giá cả bấp
bênh gây không ít khó khăn đến đời sống bà con nông dân. Công tác thu hoạch và bảo
quản theo cách làm truyền thống chưa được cải tiến cũng đã làm suy giảm đáng kể năng
suất và chất lượng lúa gạo, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam
trong tình hình mới. Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải tìm ra biện pháp giúp nâng cao
năng suất và chất lượng lúa gạo nhằm đảm bảo lợi ích, gia tăng thu nhập và cải thiện đời
sống nông dân cũng như nâng cao tính cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam trên thị trường
quốc tế. Thu hoạch và bảo quản là một trong những khâu quan trọng góp phần nâng cao
sản lượng và chất lượng lúa trong một mùa vụ của những người nông dân. Từ trước tới
nay, việc thu hoạch và bảo quản lúa của nông dân nước ta phần lớn phụ thuộc vào
phương pháp thủ công. Lúa được làm khô chủ yếu nhờ ánh nắng mặt trời nên người
nông dân chỉ có thể cất giữ được trong một thời gian nhất định. Ở quy mô lớn hơn, tuy
lúa được cất giữ trong những nhà kho nhưng chất lượng của thóc gạo cũng sẽ không cao
bởi điều kiện bảo quản còn quá đơn giản. Với một lượng gạo xuất khẩu hằng năm khá
cao, Việt Nam cần có những quy trình cải tiến trong bảo quản sản phẩm lương thực.
Nhằm giúp người nông dân có giải pháp cân bằng độ ẩm giảm tỷ lệ hao hụt và nâng cao
chất lượng bảo quản trong thu hoạch lúa, nhóm chúng tôi đã tổng hợp một số thông tin
về thực trạng hiện tại về lúa ở đồng bằng sông cửu long cũng như một số phương pháp
làm khô lúa nhằm hỗ trợ việc kéo dài thời gian bảo quản lúa sau thu hoạch.
CHƯƠNG I :
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH SẢN XUẤT LÚA
1. Giới thiệu chung
Lúa là cây trồng thân thiết, lâu đời
nhất của nhân dân ta và nhiều dân tộc khác
trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc ở Châu
Á, là nguồn năng lượng chính cho cuộc sống
hằng
ngày
của họ.
Hình 1: Lúa gạo Việt Nam
2. Giá trị kinh tế của lúa gạo
2.1 Giá trị dinh dưỡng
Gạo là thức ăn giàu dinh dưỡng. So
với lúa mì, gạo có thành phần tinh bột và
protein thấp hơn nhưng năng lượng tạo ra
nhiều hơn do chứa nhiều chất béo hơn. Nếu
tính trên đơn vị hecta, gạo cung cấp nhiều
calo hơn lúa mì do năng suất lúa cao hơn
nhiều so với lúa mì.
Hình 2: Giá trị dinh dưỡng
2.2 Giá trị sử dụng
Ngoài cơm ra, gạo có thể dùng để làm bánh, làm môi trường nuôi cấy vi sinh, chưng
cất rượu, cồn….rất nhiều công dụng mà không thể kể hết được.
2.3 Giá trị thương mại
Trên thị trường thế giới, giá trị xuất khẩu gạo cao hơn nhiều so với nhiều loại lương
thực khác và nó là một nguồn thu quốc doanh khổng lồ của nước ta.
3 Tình hình sản xuất lúa gạo ở nước ta
Với nền văn minh lúa nước rất lâu đời , diện tích và năng suất lúa nước ta tăng lên
nhanh chóng từ nhiều năm qua. Với diện tích gieo trồng đứng thứ 6 và đứng thứ 5 về sản
lượng lúa đã đảm bảo yêu cầu về an ninh lương thực trong nước và còn góp phần rất quan
trọng trong thị trường gạo thế giới
Bảng 1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa Việt Nam qua các năm
Năm Diện tích ( Triệu ha) Năng suất ( t/ha ) Sản lượng( triệu tấn )
2000 7,67 4,24 32,53
2001 7,49 4,29 32,11
2002 7,50 4,59 34,45
2003 7,45 4,64 34,57
2004 7,45 4,86 36,15
2005 7,33 4,89 35,79
2006 7,35 4,90 35,89
2007 7,40 4,93 36,5
2008 7,40 4,91 39
2009 7,45 5,34 38,9
2010 7,5 5,47 39,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2005, FAO, 2006
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG SAU THU HOẠCH LÚA
1. Thực trạng sau thu hoạch lúa ở đồng bằng sông Cửu Long
- Cơ giới hóa trong thu hoạch lúa ở đồng bằng sông Cửu Long
Hiện tại ĐBSCL có khoảng 5.000 chiếc máy gặt đập liên hợp (GĐLH) đang được sử
dụng, chỉ đáp ứng được 30% diện tích gieo sạ của toàn vùng. Do vậy, phần lớn người
nông dân đều phải gặt lúa bằng tay, dẫn tới tình trạng thiếu nhân công ở một số khu vực
nên việc gặt lúa bị đẩy lùi tới khi lúa đã quá chín gây thất thoát lớn. Đặc biệt, trong vụ lúa
hè thu thời tiết bất lợi nên thất thoát vật chất của vụ này cao hơn 2 - 3% so với các vụ
khác.
- Tổn thất sau thu hoạch
Theo khảo sát của Phân viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, tổn
thất sau thu hoạch lúa gạo từ 13 đến 14%, tương đương mỗi năm thiệt hại khoảng 635
triệu USD (khoảng 12.700 tỷ đồng). Dẫn đầu là khâu phơi sấy mất 4,2%, thu hoạch mất
3%, xay xát 3%, bảo quản 2,6%, vận chuyển 0,9%. Ngoài ra, tổn thất các phụ phẩm khác
của lúa gạo cũng lên đến 50%. Do chưa cơ giới hóa đồng bộ sau thu hoạch, cho nên chất
lượng lúa gạo của Việt Nam phần lớn thuộc cấp thấp, giá bán thường thấp hơn gạo của
Thái Lan từ 80 đến 100 USD/tấn. Riêng khâu phơi sấy và tồn trữ lúa gạo chưa đáp ứng
quy trình đã làm giảm giá trị hạt gạo Việt Nam xuất khẩu khoảng 200 triệu USD/năm.
- Mất mùa mất giá
+ Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá lúa gạo tại khu vực đồng bằng sông
Cửu Long tiếp tục giảm từ 50-100 đồng/kg tùy loại trong vụ Hè Thu năm nay. Cụ thể, giá
lúa khô tại kho khu vực đồng bằng sông Cửu Long loại thường dao động từ 4.850-4.950
đồng/kg, lúa dài khoảng 5.100-5.200 đồng/kg.
+ Bên cạnh đó với tình hình mưa dông kéo dài như hiện nay, hàng ngàn ha lúa chín
không thể thu hoạch được, gây nhiều thiệt hại cho bà con nông dân.
2. Biện pháp khắc phục
Biện pháp đầu tiên để khắc phục tình trạng thất thoát trong thu hoạch mà các nhà chuyên
môn khuyến cáo là nông dân nên thu hoạch lúa đúng độ chín, khi quan sát đồng ruộng thấy
lúa chín từ 80 – 85% là có thể thu hoạch được. Không nên để lúa chín hết bông mới cắt, khi
cắt lúa cũng phải nhẹ nhàng, có như thế mới giảm được rơi rụng hạt. Bên cạnh đó cũng nên
theo dõi thời tiết để chọn ngày thu hoạch thích hợp. Đó là lúc trời nắng tốt để có điều kiện
thuận lợi trong các khâu bó gom, tuốt, vận chuyển và phơi, sấy.
Đối với biện pháp thu hoạch thủ công hoặc sử dụng máy cắt xếp dãy, khi cắt lúa xong
phải đem tuốt ngay, không nên phơi mớ ngoài đồng. Bởi tác hại của việc phơi lúa mớ sẽ làm
cho hạt lúa bên trên mặt quá khô. Ngược lại, lúa ở bên dưới khô ít. Cho nên lúa khô không
đồng đều. Ngoài ra, hạt lúa ở phía trên chịu sự tác động của nhiệt độ cao do ánh nắng mặt
trời vào ban ngày nhưng lại hút sương ẩm, chịu nhiệt độ thấp vào ban đêm nên khi xay chà
dễ bị gãy, tỷ lệ gạo nguyên đạt thấp.
Tốt nhất nên thu hoạch lúa bằng máy để rút ngắn các công đoạn như bó, gom, tuốt…
giúp cho tỷ lệ lúa bị hao hụt do rơi vãi ít hơn. Việc cơ giới hóa trong khâu thu hoạch lúa, mà
nhất là việc sử dụng máy gặt đập liên hợp đã trở nên rất phổ biến trong cả khu vực Đồng
Bằng Sông Cửu Long. Thực tế đã cho thấy, việc cắt lúa bằng máy gặt đập liên hợp giúp cho
bà con nông dân rút ngắn được thời gian thu hoạch lúa khá nhiều, bỏ qua nhiều công đoạn
như gom, bó và tuốt lúa; nhất là không phơi lúa mớ ngoài đồng, nên hạt lúa sẽ ít bị hao hụt
do rơi rụng.
Ngoài các yếu tố về kỹ thuật để làm hạn chế sự thất thoát trong lúc thu hoạch lúa; thì việc
làm khô hạt lúa cũng rất quan trọng. Bởi trong giai đoạn này, nếu không thực hiện tốt thì tỷ
lệ lúa bị mất mát cũng sẽ rất lớn, chiếm từ 1,5 – 2 % do rơi vãi.
Theo các chuyên gia nông nghiệp, lúa mới thu hoạch có độ ẩm cao nên một số giống lúa
có thể nẩy mầm, lên men và nấm bệnh dễ phát triển, làm hư hạt. Thông thường độ ẩm của
lúa khi vừa thu hoạch từ 20 – 25% . Do đó, sau khi thu hoạch trong vòng 48 giờ phải làm
khô lúa ngay, trong quá trình làm khô lúa phải đảm bảo cho độ ẩm thoát ra. Hiện có 2 biện
pháp làm khô hạt lúa cơ bản. Đó là phơi nắng và sấy lúa. Song, tất cả phải đảm bảo thực
hiện đúng kỹ thuật thì mới đạt hiệu quả cao, giảm bớt sự tổn thất cả về số lượng lẫn chất
lượng lúa. Độ ẩm an toàn của lúa để bảo quản từ 2 – 3 tháng là 13 – 14%, nếu hơn 3 tháng
thì độ ẩm tốt nhất là 12%.
Nói chung, thất thoát trong thu hoạch lúa sẽ làm giảm đáng kể thu nhập của nông dân.
Do vậy, để hạn chế sự tổn thất này, bà con cần phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp từ
khâu chọn giống ít đổ ngã để gieo sạ, áp dụng tốt kỹ thuật canh tác; đến lúc thu hoạch và
làm khô hạt lúa cũng phải đảm bảo đúng đúng kỹ thuật. Điều cần lưu ý là khi thu hoạch
không nên cắt lúa sớm và cũng không quá trễ mà phải cắt đúng độ chín của bông lúa, để hạn
chế sự hao hụt do rơi rụng hạt ngoài đồng. Bên cạnh đó, nên tăng cường đầu tư hơn nữa
khoa học công nghệ vào trong canh tác lúa và từng bước cơ giới hóa khâu thu hoạch lúa.
Mặt khác, cũng cần thay đổi thói quen cũ và thay vào đó là tư duy khoa học, áp dụng tiến bộ
kỹ thuật vào sản xuất. Đây là những việc làm cần thiết nên thực hiện để giảm bớt sự thất
thoát hạt lúa trong quá trình thu hoạch và sau thu hoạch.
CHƯƠNG III:
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP LÀM KHÔ LÚA Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
1. Nguyên tắc cơ bản của việc phơi sấy
Cũng như các hạt ngũ cốc khác, hạt lúa là một loại vật liệu ưa nước, cho nên ẩm độ
hạt sẽ rất dễ dàng thay đổi tuỳ theo nhiệt độ và ẩm độ tương đối của không khí xung quanh
nó. Tiến trình phơi sấy cơ bản là quá trình truyền nhiệt bằng cách biến nước trong hạt thành
hơi và chuyển ra ngoài không khí.Nhiệt được truyền tới hạt bằng luồng khí đối lưu, bức xạ
mặt trời hoặc sự truyền dẩn. Phương pháp đối lưu khí thường được sử dụng nhất. Phương
pháp nầy đòi hỏi phải sưởi nóng không khí để làm giảm ẩm độ tương đối của không khí
xuống đủ thấp để có thể hút ẩm từ hạt ra.
Để bảo đảm bảo phẩm chất của hạt không bị giảm sút trong quá trình phơi sấy cần
chọn lựa nhiệt độ sấy thích hợp, bao gồm nhiệt độ không khí và nhiệt độ tối đa của khối hạt
trong thời gian sấy; khoảng thời gian phơi bày hạt lúa trong điều kiện nhiệt độ cao thích ứng
với các mức ẩm độ hạt thay đổi và độ tác động đồng đều trong khối hạt.Việc chọn lựa điều
kiện phơi sấy tốt nhất còn tuỳ thuộc vào giống lúa và ẩm độ ban đầu của hạt. Khi hạt khô,
phần ngoài hạt bị mất nhanh quá và không đồng đều thì sẽ gia tăng hạt rạng nứt và bạc bụng.
Hình 8.12 cho thấy xu hướng và hiệu quả tương đối của phương pháp phơi nắng và sấy ở
các ẩm độ khác nhau lúc thu hoạch trên năng suất và chất lượng hạt. Nghiên cứu cho thấy rõ,
thời điểm thu hoạch tốt nhất để bảo đảm năng suất và phẩm chất hạt khi ẩm độ hạt từ 21-
24%. Có sự khác biệt về tỉ lệ gạo nguyên giữa 2 phương pháp phơi và sấy, trong đó sấy đúng
phương pháp làm tăng tỉ lệ gạo nguyên khi xay xát.
2. Làm khô bằng ánh nắng mặt trời – phơi lúa
Làm khô lúa bằng ánh nắng mặt trời vẫn còn là phương pháp phổ biến hiện nay ở
Đồng Bằng Sông Cửu Long. Lúa thường được cào trải ra sân hay trên một tấm lót mềm
và dày với bề dày lớp lúa khoảng 5-10 cm và được cày đảo lớp trên xuống lớp dưới
khoảng 7-8 lần trong ngày. Điều này giúp cho lúa khô nhanh và đều hơn. Công việc đảo
hạt rất quan trọng trong quá trình phơi sấy, nó làm giảm tối thiểu sự chênh lệch về nhiệt độ
giữa các hạt trong đống và ngay trong từng hạt, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự rạn nứt của
hạt gạo.Một vấn đề khác có thể ảnh hưởng đến sự rạn nứt của hạt gạo là nếu vì điều kiện
mưa nắng bất thường phải phơi lúa trong nhiều ngày, quá trình khô rồi ẩm xen kẻ nhau do
không khí ẩm ướt khi mưa và ban đêm, cũng làm cho hạt gạo rạn nứt và dễ bị gãy vụn khi
xay xát. Vì vậy, để giảm nguy cơ rạn nứt hạt cần phải có những biện pháp làm giảm nhiệt
độ của hạt như che bớt ánh nắng chẳng hạn.
Hình 3: Phơi lúa
3. Làm khô lúa bằng máy sấy
2.1 Máy sấy tĩnh vỉ ngang
Máy sấy tĩnh vỉ ngang sử dụng lò đốt trấu là loại máy sấy đang được sử dụng phổ
biến nhất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Các máy sấy này thường có năng suất từ 6 đến 50
tấn/mẻ, với thời gian sấy dao động từ 12 đến 48 giờ tùy theo độ ẩm ban đầu và cuối cùng
của lúa được sấy. Một số năm gần đây, để giảm sự chênh lệch độ ẩm của lúa sau khi sấy,
lúa hoặc dòng không khí sấy được đảo chiều ở giai đoạn cuối của quá trình sấy.
Hình 4: Máy sấy tĩnh vỉ ngang, 6 tấn/mẻ Hình 5: Sấy tĩnh vỉ ngang có đảo chiều gió
Do phải gieo sạ đồng loạt để “né rầy”, một lượng lúa rất lớn, khoảng 6 đến 7 triệu
tấn, cần phải được làm khô trong một khoảng thời gian khá ngắn, chỉ 25-30 ngày vào mỗi
vụ thu hoạch. Điều này đã gây ra một áp lực rất lớn cho công đoạn phơi sấy lúa, nhất là
vụ Hè-Thu hằng năm. Bên cạnh đó, các ghe tàu vận tải lúa trong vùng thường có tải trọng
từ 30 tấn trở lên.Vì vậy, vùng này đang có xu hướng trang bị các loại máy sấy tĩnh vỉ
ngang cỡ lớn, từ 30 đến 50 tấn/mẻ.
So với loại máy sấy tháp, ngoài ưu điểm chung của các loại máy sấy tĩnh vỉ ngang
là có chi phí đầu tư ban đầu thấp, có thể sấy lúa có độ ẩm ban đầu rất cao, thậm chí ướt
sủng; ưu điểm nổi bật của máy sấy tĩnh vỉ ngang cỡ lớn này là có thể “sấy chạy mọng” một
cách hiệu quả nên giảm thiểu được tổn thất trong khâu làm khô lúa, đặc biệt đối với vụ
lúa Hè-Thu. Thay vì phải chờ đợi lâu để sấy từng mẻ nhỏ đối với các máy sấy cỡ nhỏ, đây
là nguy cơ lớn làm nẩy mầm hạt và làm giảm nghiêm trọng chất lượng lúa gạo; máy sấy
cỡ lớn có thể đưa vào sấy cùng lúc với lượng lúa lớn hơn nhiều để khắc phục nguy cơ nói
trên.
Để giảm lao động thủ công đang ngày càng khan hiếm và đắt đỏ nhằm giảm chi
phí sấy, nhiều máy sấy cỡ lớn đã được trang bị thêm các thiết bị cơ giới như băng tải, xích
cào và gàu tải (bộ đài) để nạp và tháo liệu khỏi máy sấy (Hình 4). Các máy sấy cỡ lớn này
thường do thương lái quản lý để phục vụ cho việc làm khô lúa tập trung ngay sau khi thu
mua lúa tươi từ nông dân. Một số chủ cơ sở xay xát gần đây cũng đã tự trang bị các máy
sấy cỡ lớn này để nâng cao chất lượng làm khô lúa nhằm tăng độ thu hồi gạo trắng và
gạo nguyên trong xay xát.
Hình 6: Máy sấy lúa tĩnh vỉ ngang, cỡ 30 tấn/mẻ tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng tháp
2.2 Máy sấy tháp
Hai năm trở lại đây, một số cơ sở chế tạo máy trong nước đã cố gắng thiết kế,chế
tạo và cung cấp một lượng giới hạn máy sấy tháp có năng suất 40-50 tấn/mẻ sử dụng lò
đốt với nhiên liệu là trấu. Các máy sấy tháp này đều có nguyên lý làm việc là tuần hoàn
theo mẻ, với tháp sấy được cấu tạo bởi nhiều đường dẫn hình chóp để dẫn khí nóng vào
buồng sấy và thoát khí ẩm ra khỏi buồng sấy. So với các loại máy sấy tĩnh vỉ ngang, các
máy sấy tháp này có ưu điểm là chất lượng sấy cao hơn như tăng độ đồng đều độ ẩm của
lúa sau khi sấy và tiết kiệm được nhiều lao động thủ công hơn.
Tuy nhiên, nhiều máy sấy tháp không thể sấy được lúa có độ ẩm cao và còn lẫn
nhiều tạp chất. Hoạt động của gàu tải (bộ đài) và sự tuần hoàn của khối lúa xuyên qua
các đường dẫn khí nóng hình chóp trong buồng sấy trở nên kém hiệu quả và không đồng
đều khi lúa có độ ẩm cao và còn lẫn nhiều tạp chất. Kết quả là độ ẩm của lúa sau khi sấy
không được đồng đều. Để cố gắng giải quyết khó khăn trên, một vài doanh nghiệp ở Đồng
Bằng Sông Cửu Long gần đây đã nhập ngoại một kiểu máy sấy tháp tuần hoàn theo mẻ
nhưng buồng sấy có kết cấu thành các kênh dẫn rộng rãi theo hướng thẳng đứng. Vì vậy,
nó sấy được lúa có độ ẩm khá cao. Máy sấy này cũng sử dụng lò đốt trấu. Bên cạnh đó,
nhờ có hệ thống kiểm soát chặt chẽ nhiệt độ của lúa trong quá trình sấy nên chất lượng
lúa được đảm bảo và độ ẩm của lúa sau khi sấy được đồng đều hơn.
Hình 7: Máy sấy tháp, 50tấn/ngày Hình 8: Máy sấy lúa Suncue hay Takayam
2.3 Máy sấy SRA ( Đảo chiều không khí)
Máy sấy đảo chiều SRA 1.5: có buồng sấy dạng hình hộp với các vách đủ cao chứa
các lớp lúa dày từ 0,5 – 0,6m và các cửa thoát gió, các nắp đậy.Riêng ống gió hông gồm 2
tầng nhằm liên kết với bộ đảo gió để cung cấp khí sấy theo chiều từ dưới lên trên xuyên qua
lớp hạt hoặc ngược lại từ trên xuống.
Nguyên tắc hoạt động: vật liệu sấy được đổ lên trên sàn, không khí
sấy được nung nóng lên đến nhiệt độ sấy nhờ lò đốt. Vào giai đoạn đầu
nhờ quạt hút nhiệt và thổi từ dưới lên trên xuyên qua lớp hạt mang hơi
ẩm thoát ra ngoài. Giai đoạn hai, khi lớp dưới gần đạt độ ẩm yêu cầu,
nhờ bộ phận đảo gió đảo chiều khí sấy thổi ngược từ trên xuống dưới.
Do có đảo chiều khí sấy, nên không cần đảo lúa mà hạt vẫn khô đều.
Máy sấy đảo chiều SRA 10: bao gồm bể sấy và ống gió thông với các cửa lúa ra vào
và thoát gió được xây bằng gạch, buồng đốt hinh trụ, công suất khoảng 50kg/h, nguyên lý
hoạt động tương tự máy SRA 1.5
Máy sáy đảo chiều di động SRA – 3.M: được thiết kế theo hướng chồng 2 tầng sàn:
gồm buồng sấy dạng hình hộp, gồm 2 tầng sàn chồng lên nhau với các vách đủ cao để chứa
lớp lúa dày 0.5m và các cửa thoát gió, các nắp đậy
Máy sấy đảo chiều SRA – TN: Cấu tạo gồm
một buồng sấy dạng hình trụ tròn với hệ thống cung
cấp khí sấy có thể thay đổi chiều thổi từ dưới lên
xuyên qua lớp hạt hoặc ngược lại, và các van lỗ để
có thể khống chế và xác định lưu lượng khí sấy
Các loại máy trên đã cho thấy khả năng ưu việt, chỉ cần 2 người với 7 – 12 phút là
hoàn tất việc đậy nắp và đảo sấy có thể sấy các loại luá với độ ẩm 25 -30% xuống còn 14-
15 %
2.4 Máy sấy tầng sôi
Thời gian sấy hạt trung bình 2- 3 phút, giảm độ ẩm
của hạt từ 31 xuống 21 % với năng suất 700 - 1000 kg/h tùy
theo độ tạp chất của hạt. Nhiệt độ sấy là 115
o
C. Lò đốt trấu
hoạt động ổn định với khả năng điều khiển tự động nhiệt độ
sấy sai biệt trong khoảng ± 5
0
C. Độ rạn nứt hạt qua xay xát so với phơi trong bóng râm là
không khác biệt, độ trắng của gạo cũng như nhau. Ước tính chi phí sấy (kể cả khấu hao)
khoảng 62 đồng/kg.
Nhược điểm: kết quả khuyến nông không thành công lắm, vì giá máy khá đắt (150
triệu đồng với STS-5); nông dân chưa sẵn sàng tiếp nhận, còn doanh nghiệp lúa gạo chưa
sắp xếp được máy này trong hệ thống của họ.
Mặc dù đã có một số tiến bộ như vậy, nếu nhìn rộng ra toàn chuỗi cung ứng lúa gạo
của Đồng Bằng Sông Cửu Long thì sấy là một trong hai công đoạn yếu kém nhất so với tất
cả các công đoạn khác từ làm đất đến xay xát. So sánh mức độ đáp ứng nhu cầu trang bị máy
móc trong canh tác lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long như làm đất (chiếm 95-100%), bơm
nước (95-100%), gieo sạ (85-90%), thu hoạch (chiếm 75%; trong đó, máy gặt đập liên hợp
chiếm 45-50%), bảo quản (13-15%) và xay xát (~100%) thì công đoạn ở giữa là sấy lúa
đang chiếm tỉ lệ rất thấp (chỉ 38,7%) (số liệu thống kê sơ bộ từ báo cáo của 13 tỉnh thành
trong vùng ĐBSCL). Sự yếu kém về công nghệ sấy, sự thiếu thốn về thiết bị sấy lúa, thiếu
mô hình sấy hiệu quả và sự lỏng lẻo trong việc quản lý chất lượng lúa gạo là cội nguồn làm
giảm nghiêm trọng chất lượng và uy tín của hạt gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Để
giảm tổn thất trong khâu phơi sấy lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long một cách hiệu quả, đặc
biệt là vụ lúa Hè-Thu, cần phải có các giải pháp đồng bộ để khắc phục các yếu kém kể trên.
Diện tích đất trung bình cho mỗi nông hộ trồng lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long chỉ
khoảng 1,1 ha. Với quy mô sản xuất nhỏ lẻ này, đầu tư máy sấy cho cấp nông hộ sẽ không
đem lại hiệu quả. Mặc dù thiết bị sấy tĩnh vỉ ngang trông khá đơn giản, để đảm bảo được
hiệu quả của quá trình sấy và chất lượng của lúa sau khi sấy, người nông dân phải có những
kiến thức nhất định về sinh lý của hạt lúa sau thu hoạch, đặc tính của quá trình sấy nông sản,
đặc tính kỹ thuật của thiết bị sấy và cách vận hành thiết bị sấy phù hợp. Hiểu không đúng
bản chất của đối tượng sấy và quá trình sấy; hay vận hành thiết bị sấy không phù hợp (như
nhiệt độ sấy quá cao hay tốc độ sấy quá nhanh), thậm chí còn gây ra những tổn thất lớn hơn
so với trường hợp làm khô lúa bằng ánh nắng mặt trời đúng cách. Để trang bị đầy đủ các
kiến thức này cho tất cả các hộ nông dân ở Đồng Bằng Sông Cửu Long là một sự đầu tư lớn
và không cần thiết. Hơn nữa, việc quản lý chất lượng lúa sấy từ hàng triệu đầu mối nhỏ lẻ là
điều không hề dễ dàng. Đó cũng là lý do tại sao các cơ sở xay xát lúa gạo hiện nay ở Đồng
Bằng Sông Cửu Long không thể mua lúa khô của nông dân bằng với giá lúa khô do chính cơ
sở sấy lúa mà họ tin tưởng và kiểm soát được. Mặt khác, xét về khía cạnh quản lý và hiệu
quả kinh tế sử dụng của thiết bị sấy; hầu hết nông dân không thể cùng lúc vừa lo sản xuất lúa
2-3 vụ/năm vừa lo kinh doanh dịch vụ sấy lúa. Vì vậy, dù đầu tư máy sấy cỡ nhỏ (4-6
tấn/mẻ) cho cấp hộ nông dân chỉ để sấy có 8-9 tấn/ha.vụ x 3 vụ/năm = 24-27 tấn/năm, tương
đương khoảng 5-6 ngày sấy/năm, là không hiệu quả kinh tế. Kinh nghiệm của dự án
DANIDA trước đây đã chứng minh điều đó.
Do đó, để nâng cao chất lượng sấy lúa và hiệu quả kinh tế trong sử dụng máy sấy,
việc sử dụng máy sấy phải được chuyên môn hóa và máy sấy lúa phải làm việc được nhiều
ngày trong năm. Vì vậy, việc sấy lúa cần được giao trách nhiệm cho trước hết là các doanh
nghiệp xay xát, sau đó là Hợp tác xã, các thương lái làm dịch vụ sấy lúa thuê, và cuối cùng
là các tổ hợp tác sản xuất hay cụm hộ nông dân.
KẾT LUẬN
Việc áp dụng các công nghệ sau thu hoạch là một biện pháp rất quan trọng, nhằm hạn
chế đến mức thấp nhất tình trạng lúa rơi vãi ngoài đồng ruộng cũng như trong việc vận
chuyển, tồn trữ. Mang lại lợi ích thiết thực cho người dân. Từng bước cải thiện, nâng cao đời
sống, vật chất, tinh thần cho người dân, nhất là các bà con nông dân ở vùng nông thôn hẻo
lánh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Trần Ngọc Đệ - Giáo trình cây lúa – NXB Đại học Quốc Gia TPHCM,2008
/>