BẢN TÓM TẮT LUẬN VĂN
ĐỀ TÀI: Xây dựng tài liệu giảng dạy hòa âm ứng dụng
Vũ Nam Thành
Hầu hết các hoạt động biểu diễn âm nhạc ở nước ta hiện nay
đều gắn liền với thể loại ca khúc. Các nhạc sỹ khi viết thể loại ca
khúc nghệ thuật bao giờ cũng viết cả giai điệu và phần đệm. Giai
điệu và phần đệm trong những tác phẩm thuộc thể loại này là một
thể thống nhất, hầu như không thể thay đổi, người dàn dựng, biểu
diễn chỉ cần thực hiện theo đúng tổng phổ của nhà soạn nhạc.
Ngược lại, đối với thể loại ca khúc phổ thông, các nhạc sỹ hoặc
người viết ca khúc chỉ sáng tác duy nhất giai điệu. Vì vậy, dù ở môi
trường chuyên nghiệp hay không chuyên thì việc trang bị cho người
học nhạc kiến thức hòa âm để ứng dụng đệm đàn và phối hòa âm
cho ca khúc đều rất cần thiết.
Để đệm đàn cho các ca khúc phổ thông này, người nhạc
công có thể chơi phần đệm (ở dạng đơn giản) theo kiểu ứng tấu hoặc
soạn phần đệm trên văn bản ký âm để tập dợt trước. Muốn đạt được
điều này, người học cần phải có kiến thức hòa âm và kỹ năng nhạc
cụ nhất định.
1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của địa phương và xã hội, nhằm
giúp người học vận dụng kiến thức hòa âm để đệm đàn và phối hòa
âm cho ca khúc phù hợp với chuyên ngành được đào tạo, trường
1
trung cấp Mỹ thuật – Văn hóa Bình Dương
1
đã giao trách nhiệm cho
chúng tôi biên soạn tài liệu giảng dạy môn Hòa âm ứng dụng cho hai
chuyên ngành thanh nhạc và sư phạm âm nhạc.
Nhận thức được tầm quan trọng của môn học này và được sự
hướng dẫn của TS. Văn Thị Minh Hương, chúng tôi đã chọn: Xây
dựng tài liệu giảng dạy hòa âm ứng dụng để làm đề tài nghiên cứu
cho chuyên ngành âm nhạc học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ sự hướng dẫn của TS. Văn Thị Minh Hương và những ý
kiến đóng góp của quý thầy cô, đồng nghiệp, kết quả của luận văn
này sẽ là cơ sở để chúng tôi biên soạn tài liệu giảng dạy môn hòa âm
ứng dụng được tốt hơn. Trong tương lai gần, chúng tôi hy vọng đề tài
sẽ được mở rộng nghiên cứu để có thể sử dụng cho nhiều chuyên
ngành và các bậc học khác nhau.
3. Lịch sử đề tài
Trong số tư liệu mà chúng tôi có được, đã có những tài liệu
đề cập đến cách đệm đàn và phối hòa âm cho ca khúc, nhưng để hệ
thống hoặc biên soạn thành tài liệu giảng dạy phù hợp với các
chuyên ngành, bậc học khác nhau thì chưa có tài liệu nào đề cập tới.
Dạo đầu, giãn tấu, kết và âm hình đệm… là những thành
phần không thể thiếu trong cấu trúc của một phần đệm, bên cạnh đó,
mối tương quan giữa hòa âm với giai điệu và hình thức là nội dung
quan trọng để người học hiểu rõ tính logic trong nối tiếp hợp âm.
1
Nơi người viết luận văn đang giảng dạy
2
Tuy nhiên, phần lớn các tài liệu hòa âm lại không hoặc ít khi đề cập
đến những vấn đề này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là cách vận dụng lý
thuyết hòa âm cổ điển (hòa âm chức năng) để đệm đàn và phối hòa
âm cho ca khúc phù hợp với bậc học trung cấp ngành thanh nhạc và
sư phạm âm nhạc .
Ngoài hòa âm cổ điển, chúng tôi cũng đề cập đến phong
cách hòa âm nhạc nhẹ và hòa âm trong điệu thức 5 âm. Tuy nhiên,
đây là hai khía cạnh có phạm vi nghiên cứu rộng, cho nên chúng tôi
chỉ đề cập những vấn đề cơ bản nhất với tính chất mở rộng, so sánh
chứ không chuyên sâu.
Dạo đầu, giãn tấu, nối câu … là những thành phần không thể
thiếu trong cấu trúc của phần đệm. Để phù hợp với đề tài, chúng tôi
không đi sâu về kỹ thuật sáng tác và kỹ năng biểu diễn nhạc cụ mà
chủ yếu tập trung vào khía cạnh hòa âm hoặc mối tương quan giữa
chúng với hòa âm.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Qua tổng hợp những vấn đề thuộc phương diện lý thuyết và
chứng minh chúng bằng các tác phẩm âm nhạc cụ thể, chúng tôi
muốn đề cập đến tính quy luật của hòa âm, mối quan hệ chặt chẽ
giữa hòa âm với hình thức và giai điệu. Lấy thực tế tác phẩm để
chứng minh lý thuyết, chúng tôi hy vọng học sinh bậc học trung cấp
sẽ hiểu và vận dụng tốt những kiến thức này để học đệm đàn và phối
hòa âm cho một tác phẩm âm nhạc cụ thể.
3
Chúng tôi đặt giả thiết rằng: Nếu có sự am hiểu về tác phẩm
và có kiến thức về hòa âm ứng dụng thì một học sinh cho dù kỹ năng
chơi nhạc cụ (theo kiểu ứng tấu) chưa tốt thì vẫn có thể thể tự mình
viết sơ đồ hòa âm trên văn bản ký âm để từ đó tập đệm đàn hoặc
soạn phần đệm cho tác phẩm này trên các phần mềm âm nhạc.
Chúng tôi cũng hy vọng kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là một
tài liệu tham khảo hữu ích đối với các thầy cô đang dạy đệm đàn.
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu lý thuyết nhìn từ góc độ âm nhạc học và sử dụng phương
pháp lịch sử để nghiên cứu tư liệu. Khi nghiên cứu ứng dụng hòa âm
để đệm đàn và phối hòa âm cho ca khúc, chúng tôi cũng không tách
rời hòa âm như một đối tượng nghiên cứu độc lập mà đặt nó trong
mối tương quan với hình thức và các phương tiện diễn tả âm nhạc
khác.
Nguồn tư liệu tham khảo của chúng tôi là các tài liệu đã xuất
bản có trong tủ sách cá nhân, thư viện Nhạc viện tp. HCM, thư viện
Quốc gia và các ebook, các bài báo lưu hành trên internet.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành ba
chương:
Chương I: Tổng quan về chương trình hòa âm ứng dụng
Chương II: Hòa âm cổ điển và sự kế thừa, cách tân
Chương III: Sơ đồ hòa âm, phối bè và phần đệm
4
Chương I
TỔNG QUAN VỀ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
HÒA ÂM ỨNG DỤNG
Biên soạn, xây dựng tài liệu giảng dạy là một quá trình thiết
kế, điều chỉnh, sửa đổi dựa trên việc đánh giá, kiểm định có định kỳ.
Quá trình này sẽ lựa chọn, điều chỉnh hoặc thay thế những thành
phần trong chương trình đào tạo đã có nhằm phù hợp với sự phát
triển của khoa học, công nghệ và sự phát triển của xã hội, mang lại
sự tiến bộ hơn, đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp của người học.
Tính cấp thiết của việc xây dựng tài liệu hòa âm ứng dụng
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng khái niệm hòa âm ứng
dụng với ý nghĩa là vận dụng lý thuyết hòa âm để đệm đàn, phối bè
cho ca khúc, viết sơ đồ hòa âm và phần đệm cho một giai điệu diễn
tấu bởi giọng hát hoặc nhạc cụ.
Hầu hết các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp ở nước ta
hiện nay đều trang bị cho người học kiến thức về hòa âm và kỹ năng
về nhạc cụ, nhưng sau khi ra trường, khi công việc thực tế đòi hỏi
phải đệm đàn hoặc viết sơ đồ hòa âm cho ca khúc (ở mức độ đơn
giản) thì nhiều em vẫn chưa thực hiện được. Một số em có kỹ năng
nhạc cụ tốt thì lại không có kỹ năng đệm đàn ứng tấu.
Nguyên nhân của thực trạng này thì có nhiều, nhưng chủ yếu
là do các em còn thụ động trong quá trình học tập và cũng có một
phần không nhỏ là do chương trình đào tạo còn nặng về các môn đại
cương và các môn chuyên ngành chưa được quan tâm đúng mức.
Thời gian học các môn chuyên ngành không đảm bảo, tính ứng dụng
5
của các môn hòa âm và nhạc cụ ở một số trường hiện nay chưa thực
sự gắn bó với công việc mà thực tế xã hội đòi hỏi. Đa số các giáo
trình hòa âm hiện nay vẫn chỉ dạy hòa âm cổ điển theo phong cách
hợp xướng 4 bè. Vấn đề phối hòa âm theo phong cách nhạc nhẹ và
phối hòa âm cho các ca khúc mang âm hưởng dân ca ít được đề cập
hoặc nếu có thì cũng chỉ mang tính khái quát, chưa chuyên sâu.
Mục đích của môn học hòa âm ứng dụng
Người học hòa âm ứng dụng (bao hàm cả hòa âm) sẽ có ba
lợi ích cơ bản là: Hiểu về tư duy âm nhạc nhiều bè theo lối chủ điệu,
học các môn học khác tốt hơn và có kiến thức để vận dụng vào lĩnh
vực dàn dựng, biểu diễn và phối hòa âm cho tác phẩm âm nhạc.
Đối tượng, mục tiêu và nội dung hòa âm ứng dụng
Ngoài ngành sáng tác và biểu diễn nhạc cụ (chuyên về đệm)
thì thanh nhạc và sư phạm âm nhạc là hai chuyên ngành thường sử
dụng các kỹ năng đệm đàn và phối hòa âm cho ca khúc nhiều hơn cả.
Nhưng trên thực tế, hầu như tất cả các chuyên ngành đều cần đến các
kỹ năng đệm đàn và phối hòa âm. Bởi vì, âm nhạc không chỉ dành
riêng cho môi trường chuyên nghiệp và những người hoạt động trong
lĩnh vực âm nhạc hiện nay vẫn phải kiêm nhiệm những công việc mà
họ không được đào tạo chính quy.
Mục tiêu đối với đối tượng không chuyên là người học biết
vận dụng kiến thức hòa âm để đệm đàn và phối hòa âm cho những ca
khúc phổ thông một cách mạch lạc, chặt chẽ, phù hợp với logic phát
triển hòa âm trong mối tương quan với giai điệu và hình thức.
6
Để đệm đàn và phối hòa âm cho ca khúc thì chỉ có kiến thức
về hòa âm cổ điển là chưa đủ, bởi vì nhiều tác phẩm ca khúc phổ
biến hiện nay không viết theo thang âm trưởng thứ diatonic 7 âm của
Châu âu mà viết theo thang âm ngũ cung hay những thang âm có
nguồn gốc từ dân gian khác. Việc sử dụng một cách “máy móc” các
quy tắc, luật lệ của hòa âm cổ điển để phối hòa âm cho những ca
khúc này trong một số trường hợp sẽ không phù hợp hoặc không tạo
được sự thống nhất về mặt phong cách nghệ thuật. Mặt khác, sơ đồ
hòa âm cho ca khúc hay các tác phẩm viết cho nhạc cụ solo ngày nay
thường được ký hiệu theo ngôn ngữ nhạc nhẹ, không hiểu ngôn ngữ
âm nhạc này thì người đệm đàn hoặc viết phần đệm sẽ không thể
thực hiện được. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu xã hội, ngoài hòa
âm cổ điển, hòa âm ứng dụng cần phải đề cập đên hòa âm nhạc nhẹ
và hòa âm trong điệu thức 5 âm.
Phương pháp dạy và học hòa âm ứng dụng
Có thể dạy riêng hoặc lồng ghép hòa âm ứng dụng trong môn
học hòa âm nhưng để có sự linh hoạt, người dạy học cũng có thể kết
hợp cả hai phương pháp này đối với một nội dung cụ thể nào đó.
Đối với phương pháp dạy theo kiểu lồng ghép, sau mỗi phần
lý thuyết sẽ có phần ứng dụng minh họa, phương pháp này có ưu
điểm là tiết học sẽ sinh động và người học sẽ tiếp thu bài tốt hơn.
Tuy nhiên, nếu không trang bị nội dung mối tương quan giữa hòa âm
với hòa âm với giai điệu và hình thức thì phương pháp này có nhược
điểm là người học sẽ không thấy được tổng thể về hòa âm trong mối
tương quan với cấu trúc hình thức tác phẩm.
Đối với phương pháp dạy riêng biệt hòa âm ứng dụng,
7
phương pháp này có ưu điểm là dễ phân bố thời gian giảng dạy, có
khả năng giúp người học khái quát tổng thể về hòa âm. Nhược điểm
của phương án này là phải học riêng lẻ, học xong lý thuyết hòa âm
(hòa âm cổ điển) rồi mới học ứng dụng, như vậy, các tiết học lý
thuyết sẽ khô khan, ít sinh động hơn
Việc dạy và học hòa âm ứng dụng tốt nhất là kết hợp giữa lý
thuyết và thực hành. Trước tiên là trên văn bản ký âm sau đó là trên
nhạc cụ đàn phím hoặc đàn guitar. Trường hợp kỹ năng nhạc cụ chưa
tốt thì phương án sử dụng các phần mềm âm nhạc cũng mang lại hiệu
quả cao. Ngoài ra, người học cũng nên dành thời gian nghe nhạc để
học hỏi về hòa âm và đệm đàn, đây cũng là phương pháp rèn luyện
tai nghe để có thể đệm theo kiểu ứng tấu một cách hiệu quả nhất.
Kế hoạch giảng dạy
Để học tốt hòa âm ứng dụng thì người học cần phải học
trước đó môn lý thuyết âm nhạc cơ bản và hình thức âm nhạc. Đồng
thời, người học cũng phải có những kỹ năng nhất định về nhạc cụ
hoặc các phần mềm âm nhạc.
Để phù hợp với khả năng tiếp thu của bậc học trung cấp,
chúng tôi dự kiến số tiết tối thiểu của môn Hòa âm ứng dụng là 60 và
phù hợp nhất là 90 tiết, chia thành hai học kỳ và được phân bố vào
năm học cuối (học kỳ 5 và 6 đối với hệ 3 năm hoặc học kỳ 7, 8 đối
với hệ 4 năm) với lịch học là 2 hoặc tối đa là 4 tiết / tuần.
Tiểu kết chương I
Hòa âm ứng dụng là môn học có giá trị thực tiễn cao, đáp
ứng được nhu cầu xã hội, đặc biệt là đối với những người hoạt động
8
phong trào, văn nghệ quần chúng ở cấp cơ sở.
Nhìn chung, vấn đề dạy và học hòa âm ứng dụng ở các địa
phương còn gặp rất nhiều khó khăn. Có rất nhiều nguyên nhân nhưng
khó khăn nhất đó là thời gian đào tạo môn hòa âm ứng dụng (bao
gồm cả hòa âm) và nhạc cụ ở các trường trung cấp và cao đẳng quá
ngắn so với yêu cầu của môn học.
Để phần nào khắc phục những khó khăn này thì cả người dạy
và người học cần có nhiều nỗ lực, đặc biệt là cần khai thác thế mạnh
của khoa học công nghệ thông tin trong lĩnh vực đổi mới phương
pháp dạy và học.
Chương II
NGÔN NGỮ HÒA ÂM CỔ ĐIỂN VÀ SỰ KẾ THỪA, CÁCH TÂN
Về mặt lý thuyết, ngôn ngữ hòa âm cổ điển (hòa âm chức
năng) được hoàn thiện từ thế kỷ XVII, XVIII. Sự ra đời của ngôn
ngữ hòa âm này là kết quả của sự tổng kết lý thuyết và thực hành của
các thời kỳ trước. Mặt khác, nó gắn bó chặt chẽ với sự ra đời của
luật bình quân và quá trình hình thành điệu thức trưởng, thứ diatonic
7 âm từ thế kỷ XVII.
Cơ sở hình thành điệu thức và tên gọi chức năng T, S, D
trong hòa âm cổ điển được xuất phát từ sức hút âm học. Để nối tiếp
hợp âm và điệu tính, ngôn ngữ hòa âm cổ điển sử dụng các kiểu tiến
hành chính cách, biến cách và các thủ pháp hòa âm ly điệu, chuyển
điệu, mô tiến, âm nền v.v…Quá trình này có nhiều quy tắc, luật lệ
9
như: quy luật nối tiếp chức năng, quy luật tiến hành bè, quy luật giải
quyết nốt nghịch, quy luật tăng đôi âm, điều kiện về nhịp phách
Kể từ khi hình thành đến nay, hòa âm cổ điển đã có nhiều
mở rộng, cách tân cả trong lý thuyết và thực hành âm nhạc.
Những cách tân trong âm nhạc kinh viện
Thế kỉ XIX, các nhà soạn nhạc quan niệm rằng hòa âm
không phải là phần đệm cho giai điệu mà nó mang hình tượng âm
nhạc rõ ràng. Nét đặc trưng của thời kì này là quan điểm coi hòa âm
như là phương tiện truyền cảm mạnh mẽ nhất trong sự kết hợp với
các phương tiện diễn tả âm nhạc khác. Khuynh hướng chung là sự kế
thừa tính khoa học, logic trong hệ thống công năng từ thời kì cổ điển
nhưng tăng cường khả năng biểu hiện của màu sắc, vai trò màu sắc
của hòa âm được đặt lên vị trí hàng đầu.
Đến cuối thế kỉ XIX, quan điểm thuận nghịch đã có nhiều
thay đổi, ngôn ngữ hòa âm có khuynh hướng nhấn mạnh vai trò chức
năng không ổn định. Các thủ pháp âm ngoài hợp âm, ly điệu, ellipsis,
hợp âm biến âm thường nhằm mục đích làm mờ nhạt vai trò của hợp
âm chủ, tạo nên những trung tâm ổn định tạm thời hoặc ẩn dấu.
Ngôn ngữ hòa âm chromatic được sử dụng rộng rãi.
Đến thế kỉ XX, ngôn ngữ hòa âm chủ yếu sử dụng các hợp
âm nghịch. Nét điển hình là sử dụng các hợp âm nghịch không chuẩn
bị và không giải quyết, các hợp âm bảy, chín, mười một có thể xuất
hiện trên tất cả các bậc, hợp âm nghịch có thể sử dụng dưới dạng
thêm hoặc bớt âm (kể cả bớt âm 3). Việc sử dụng chồng hợp âm 5, 6,
7 âm đã dẫn đến tính chất đa chức năng của hợp âm và làm mờ dần
10
tính công năng. Ngôn ngữ hòa âm thời kì này còn thể hiện dưới các
hình thức khác nhau như hòa âm đa tầng, hòa âm đa điệu thức và hòa
âm chromatic. Đôi khi các nhà soạn nhạc sử dụng nhiều hình thức
khác nhau hoặc kết hợp chúng trong một tác phẩm. Thời kỳ này cũng
xuất hiện các kỹ thuật hòa âm mang đặc điểm riêng của nhà soạn
nhạc, ví dụ hòa âm của Béla Bartók, Prokofiev và Paul Hindemith …
2.3.2. Những cách tân trong ngôn ngữ nhạc nhẹ
Về mặt điệu thức, ngôn ngữ nhạc nhẹ sử dụng hầu hết các
dạng điệu thức khác nhau, kể cả trưởng thứ diatonic 7 âm và các điệu
thức có nguồn gốc từ âm nhạc dân gian v.v Hệ thống điệu thức
diatonic 7 âm sử dụng trong nhạc nhẹ được gọi là modes bao gồm
trung tâm điệu thức xây dựng ở bậc I và các modal được xây dựng ở
các bậc còn lại. Bảy âm thuộc mỗi modal được chia thành những nốt
thuộc hợp âm, nốt căng (tension note) và nốt tránh (avoid note).
Trong đa số trường hợp, các âm 9, 11, 13 ở các modal được
gọi là những nốt “căng” (tension note), có thể coi chúng là những âm
“nghịch không hoàn toàn” hoặc là những âm ngoài hợp âm được
thêm vào cấu trúc hợp âm cơ bản (hợp âm 3 hoặc hợp âm 7) để tạo
màu sắc. Khi ở giai điệu, những nốt “căng” (melodic tension) này
không cần phải ghi vào cấu trúc hợp âm. Khi thuộc hợp âm ở phần
đệm (không tính ở bè giai điệu chính), các âm “căng” này (harmonic
tension) được coi như âm thuộc hợp âm (9, 11, 13).
Nốt “tránh” (avoid note) được coi là những nốt nghịch trong
hợp âm. Trong đa số trường hợp, nốt “tránh” là nốt cao hơn nốt hợp
âm (1, 3, 5 và 7) kế nó nửa cung hoặc nó tạo thành với âm thuộc hợp
âm quãng 9 thứ (tuy nhiên quãng 9 thứ trong cấu trúc tự nhiên của
11
thang âm lại được phép sử dụng, ví dụ thang âm phrygian).
Trong nhạc nhẹ, hợp âm bảy được gọi là cấu trúc hợp âm cơ
bản. Yếu tố chức năng hợp âm trong nhạc nhẹ chỉ được thể hiện rõ
nét nhất ở bè trầm. Trung tâm điệu thức trong nhạc nhẹ sử dụng cả
hợp âm 7, hợp âm có âm phụ và các hợp âm có cấu trúc mở rộng
khác (hợp âm 9,11,13).
Trong nhạc nhẹ, theo “Nguyên lý tương hợp giữa hợp âm và
thang âm” thì các âm của một hợp âm có thể ở các thang âm khác
nhau. Đây là cơ sở cho việc thay thế hợp âm, nhạc nhẹ thường sử
hợp âm II
b
7
để thay thế cho hợp âm V
7,
bởi vì II
b
7
cũng có quãng 3
cung giống như V
7
.
Mỗi hợp âm trong nhạc nhẹ hàm chứa một thang âm (hoặc
modal) tương ứng, cho nên, trong một số trường hợp, giai điệu
không cần nằm trong cấu trúc hợp âm chính (là hợp âm ba và hợp âm
bảy) mà chỉ cần nằm trong thang âm tương ứng của hợp âm.
Về tiến trình hòa âm, nhạc nhẹ không hạn chế theo quy tắc T
– S – D – T, những những cách nối tiếp hợp âm ngược công năng
vẫn được phép sử dụng. Trên cơ sở các hợp âm diatonic ở dạng
nguyên vị sẽ có 4 dạng chuyển động cơ bản là: 1. Chuyển động theo
sức hút âm học D – T ; 2. Chuyển động ngược sức hút âm học T – D;
3. Kết hợp các dạng chuyển động theo kiểu bậc thang (quãng 2)
trong phạm vi quãng 4 hoặc quãng 5; và 4. Kết hợp các dạng chuyển
động quãng 3 đi lên và xuống. Tiến trình hòa âm nhạc nhẹ còn sử
dụng các hợp âm đa chức năng (Compound, Hybrids, Polychords)
hoặc các hợp âm mà chức năng của nó không thể hiện rõ ràng, không
xác định được cấu trúc, trưởng, thứ (Ambiguous Chord Types) và cả
12
kỹ thuật nối tiếp hợp âm không sử dụng chức năng hòa âm (Non –
Functional Harmony).
Về cách tiến hành bè, quy tắc tiến hành bè bình ổn trong hòa
âm cổ điển vẫn được giữ lại, các âm hợp âm ở cùng một bè thường
giữ lại âm chung hoặc chuyển động trong phạm vi quãng 2 hoặc
quãng 3. Điểm khác biệt là các âm căng 9, 11, 13 không phải bắt
buộc tiến hành đi xuống như trong hòa âm cổ điển, từ âm căng của
hợp âm này có thể nhảy tới âm căng của hợp âm khác:
2.3.3. Hòa âm trong các điệu thức có nguồn gốc dân gian
Về mặt điệu thức, nếu không tính yếu tố “non”, “già” trong
cấu tạo thang âm mang tính đặc thù của mỗi dân tộc, địa phương
riêng biệt thì có 2 dạng điệu thức phổ biến là diatonic 7 cổ âm và
điệu thức 5 âm. Điệu thức diatonic cổ 7 âm hình thành từ thời trung
cổ và được sử dụng rộng rãi ở thời kỳ lãng mạn. Điệu thức 5 âm thì
có nguồn gốc lâu đời trong âm nhạc dân gian.
Về mặt cấu trúc hợp âm, đối với điệu thức 5 âm thì nhiều hợp
âm được hình thành không theo cấu trúc quãng 3. Chúng được hình
thành theo cấu trúc quãng 4, quãng 2 hoặc được hình thành từ sự kết
hợp các âm của điệu thức theo chiều dọc (chồng âm).
Về tiến trình hòa âm, do không chịu sức hút âm học và trung
tâm điệu thức không rõ ràng như trong điệu trưởng tự nhiên và thứ
hòa âm chức năng nên cách nối tiếp hợp âm và tiến hành bè trong
các dạng điệu thức này khá tự do.
Tiểu kết chương II
Ngôn ngữ hòa âm chức năng được hoàn thiện từ thời kỳ cổ
13
điển. Ngày nay, không chỉ sử dụng trong dòng nhạc kinh viện, hòa
âm chức năng còn được mở rộng, cách tân để phù hợp với ngôn ngữ
nhạc nhẹ và các tác phẩm viết ở điệu thức có nguồn gốc dân gian.
Đây là điều tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Tuy
nhiên, trước khi vận dụng, sáng tạo, cách tân trong lĩnh vực phối hòa
âm những người thực hiện cần phải có nền tảng hòa âm vững chắc.
Chương III
SƠ ĐỒ HÒA ÂM, PHỐI BÈ VÀ PHẦN ĐỆM
Có rất nhiều phương án phối hòa âm khác nhau, tuy nhiên
nếu hiểu rõ mối tương quan giữa hòa âm với giai điệu và hình thức,
người phối hòa âm sẽ tạo được sự logic trong nối tiếp hợp âm.
3.1. Mối tương quan giữa hòa âm với hình thức và giai điệu
Mối quan hệ giữa hòa âm trong phần đệm với giai điệu và
hình thức là một dạng quan hệ “mở”, chúng ràng buộc nhau bởi mối
quan hệ điệu thức và quy luật của sự phát triển, hình thành hình thức,
nhưng chúng lại không bắt buộc phải phải chính xác và có một “đáp
án” duy nhất như trong khoa học tự nhiên.
Trong hòa âm chức năng, mỗi cao độ của giai điệu có thể là
âm thuộc hợp âm hoặc âm ngoài hợp âm. Trường hợp cao độ của
giai điệu không nằm trong hợp âm thuộc phần đệm được gọi là thủ
pháp âm ngoài hợp âm. Thủ pháp này có hai mục đích, một là tạo
màu sắc hòa âm nhằm tạo hiệu quả đặc biệt nào đó, hai là giai điệu
phải “nhượng bộ” cho logic nối tiếp hợp âm nhằm phù hợp với điều
kiện nhịp phách (tiết tấu hòa âm) và công năng hòa âm.
14
Trong phần đệm các ca khúc phổ thông, hòa âm chủ yếu thay
đổi theo từng ô nhịp. Đặc biệt là trong các thể loại mà giai điệu có
tiết tấu (tốc độ) nhanh thì vài ô nhịp mới có sự thay đổi hợp âm. Sự
thay đổi hợp âm thường tương ứng với chu kỳ 2, 4, 6 hoặc 8 phách
trong nhịp chẵn (2/4, 4/4) và 3, 6 phách trong nhịp lẻ (3/4, 3/8)
v.v… Thông thường, nếu giai điệu ở tốc độ chậm thì hợp âm có thể
thay đổi cả nhanh và chậm nhưng nếu giai điệu ở tốc độ nhanh thì
hợp âm thường ít thay đổi hơn.
Trong nối tiếp hòa âm, để phù hợp với giai điệu và hình thức,
một hợp âm nào đó sẽ được nhấn mạnh về màu sắc và công năng hòa
âm, do đó nó phải được đặt ở vị trí nhấn mạnh hơn các hợp âm còn
lại. Trừ trường hợp tạo hiệu quả đặc biệt, việc sử dụng hợp âm không
đúng về điều kiện nhịp phách sẽ tạo nên hiện tượng syncope hòa âm.
Mỗi một hợp âm đều có màu sắc và “độ căng” mang động
lực phát triển khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện nhịp phách, vị trí
của nó trong hình thức và cách sắp xếp hợp âm (rộng, hẹp; dày,
mỏng; nguyên vị hoặc đảo). Ở vị trí mở đầu và kết thì chức năng hợp
âm thường thuộc nhóm chủ nhằm tạo sự ổn định, khẳng định điệu
tính. Ở những vị trí cao trào thì hợp âm thường có âm hưởng “căng”
nhất, nó thường là hợp âm nhóm hạ át, át hoặc hợp âm nghịch. Khái
niệm cao trào trong một số trường hợp, không chỉ đơn giản là vị trí
có âm thanh cao nhất mà nó còn được hiểu là một quá trình phát
triển. Vì vậy, để hợp logic thì màu sắc và độ “căng” của hòa âm cũng
phải phù hợp, tương ứng với sự phát triển này.
3.2. Ứng dụng viết sơ đồ hòa âm
Sơ đồ hòa âm là dàn bài hòa âm của tác phẩm, được hình
15
thành từ các kỹ thuật (thủ pháp) tiến hành nối tiếp hợp âm khác nhau,
nó thể hiện ý đồ nghệ thuật của bản phối ở mức độ cơ bản nhất. Từ
sơ đồ hòa âm, người đệm đàn hoặc phối hòa âm sẽ căn cứ vào thể
loại, phong cách và tính chất âm nhạc của giai điệu để phối bè hoặc
triển khai âm hình đệm phù hợp. Có thể chia các kỹ thuật nối tiếp
hợp âm thành hai dạng là:
1. Cách tiến hành hợp âm theo công thức và
2. Cách tiến hành hợp âm không theo công thức
Trong giai đoạn học tập, trước khi viết sơ đồ hòa âm người
thực hiện cần phải phân tích tác phẩm. Sau đó, căn cứ vào tính chất
âm nhạc để chọn mạch đập hòa âm và phác thảo hòa âm cho mở đầu,
kết, và cao trào. Từ những điểm quan trọng này, dựa vào sự phát
triển của giai điệu để lựa chọn hợp âm hoặc các thủ pháp hòa âm phù
hợp cho các ô nhịp còn lại.
Cách nối tiếp hợp âm theo công thức (hòa âm vòng) có điểm
chung là dễ nhớ, dễ thuộc, mang tính chất mẫu mực, phổ biến, có thể
áp dụng cho nhiều tác phẩm khác nhau. Tuy nhiên, nếu lạm dụng các
công thức thì tính sáng tạo sẽ hạn chế, đồng thời khó có thể tạo nên
đặc điểm, phong cách hòa âm riêng cho từng tác phẩm.
Ưu điểm của cách tiến hành hợp âm không theo công thức là
tránh được “lối mòn”, hiệu quả hòa âm bất ngờ, độc đáo, có thể tạo
được phong cách, đặc điểm riêng trong từng tác phẩm. Những kiểu
tiến hành hòa âm không theo công thức là vô cùng phong phú, đa
dạng, nó là kết quả của sự sáng tạo trong hòa âm. Việc sử dụng các
hợp âm của giọng cùng tên, giọng song song, giọng quan hệ quãng 3
16
cùng với việc khai thác các thủ pháp ly điệu, âm ngoài hợp âm, âm
nền, tiến hành bất ngờ (ellipsis) … đã tạo điều kiện cho hòa âm phát
triển phức tạp. Bên cạnh đó, việc sử dụng điệu thức thứ tự nhiên và
các điệu thức diatonic cổ 7 âm cũng tạo điều kiện cho hòa âm phát
triển tự do hơn.
Viết sơ đồ hòa âm là nội dung cơ bản nhưng có vai trò quan
trọng, làm nền tảng cho phối bè và viết phần đệm hoặc đệm đàn.
3.3. Ứng dụng phối bè cho ca khúc
Nếu không có sơ đồ hòa âm, việc phối bè tự do trong một số
trường hợp có thể dẫn đến sai hòa âm, trung tâm điệu thức hoặc mối
quan hệ giữa giai điệu với hòa âm của tác phẩm bị phá vỡ.
Để bè có tính giai điệu, dễ hát và tôn lên được vẻ đẹp của tác
phẩm thì quá trình phối bè phải có sự phối hợp các quãng khác nhau.
3.4. Ứng dụng đệm đàn và viết phần đệm
Phần đệm là phần âm nhạc đi kèm với giai điệu (do giọng
hát hoặc nhạc cụ diễn tấu), nó tăng cường sức biểu hiện, làm sáng tỏ
nội dung cho giai điệu, đồng thời hỗ trợ cho người biểu diễn được dễ
dàng hơn. Bản chất của phần đệm là sự biến tấu nhiều kiểu khác
nhau của hòa âm, là một chuỗi các tiến trình hòa âm đã được tiết tấu
hóa, giai điệu hóa theo một cách thức nào đó. Cấu trúc của một phần
đệm đầy đủ đối với ca khúc phổ thông thường gồm các phần: Nhạc
dạo đầu, nhạc đệm cho giai điệu, nhạc giãn tấu và kết.
Đối với phần đệm kèm giai điệu, bè giai điệu trong hòa âm
của phần đệm cũng là giai điệu chính của tác phẩm, ở mức độ nào
đó, nó giống như cấu tạo của một bản độc tấu.
17
Đối với phần đệm độc lập, một mặt hòa âm phải có sự thống
nhất, hài hòa với giai điệu chính nhưng mặt khác nó cũng có tuyến
giai điệu riêng. Vì vậy, so với phần đệm kèm giai điệu, phần đệm
độc lập sẽ không bị hạn chế về kỹ thuật và tư duy sáng tác.
Âm hình đệm
Âm hình đệm có sự gắn bó chặt chẽ với thể loại và tính chất
âm nhạc của tác phẩm. Trong nhạc nhẹ, ta thường gặp điểm thay đổi
hợp âm rơi vào đầu của một chu kỳ âm hình đệm. Điều này có ý
nghĩa hết sức quan trọng để tránh hòa âm bị ngược nhịp.
Đối với thể loại ca khúc phổ thông, có thể sử dụng một âm
hình đệm duy nhất để đệm cho tác phẩm. Tuy nhiên để có sự phong
phú hơn thì cần có ít nhất hai dạng âm hình khác nhau, một cho đoạn
phiên khúc và một cho đoạn điệp khúc. Khi chuyển câu hoặc chuyển
đoạn, cũng cần có những âm hình đệm khác để “báo” cho người biểu
diễn chuẩn bị vào nhịp được tốt hơn.
Dạo đầu, giãn tấu, kết và đệm lót
Dạo đầu có chức năng chuẩn bị cho sự xuất hiện giai điệu
chính của tác phẩm. Nó thường được xây dựng từ chất liệu âm nhạc
của bài, nhưng ở mức độ đơn giản hơn thì nó có thể chỉ là một vài
hợp âm hoặc một vài nét nhạc với vai trò chuẩn bị cho người biểu
diễn giai điệu về trung tâm điệu thức, nhịp độ để họ không bị lạc
giọng, sai tốc độ. Âm nhạc của phần dạo đầu thường mang tính chất
“mở” để dẫn dắt người nghe tới phần tiếp theo. Xét về mặt hòa âm,
phần này cần phải được khẳng định về mặt trung tâm điệu tính, kết
18
dạo đầu thường ở T hoặc D, có thể sử dụng kết hòan toàn hoặc
không hoàn toàn.
Giãn tấu (hoặc gian tấu) là phần âm nhạc nối tiếp sau khi kết
thúc một đoạn nhạc hay kết thúc toàn bài. Mục đích của đoạn nhạc
này thường là để cho người hát nghỉ ngơi nhưng cũng có thể nhằm
mục đích tạo nên dạng cấu trúc: nhạc cụ “thi tài” với giọng hát
(thường gặp trong thể loại nhạc chơi theo lối ứng tấu). Đôi khi khái
niệm giãn tấu cũng được sử dụng như là nét nhạc nối câu trong
trường hợp giai điệu chính ngưng nghỉ một vài ô nhịp.
Về mặt âm nhạc, giãn tấu có thể lấy chất liệu từ giai điệu
chính hoặc xuất hiện chất liệu mới. Chúng ta cũng có thể gặp giãn
tấu được lấy nguyên dạng từ âm nhạc của phần mở đầu hoặc có thay
đổi đôi chút. Trong lối chơi theo kiểu ứng tấu thì phần này có thường
tính chất như một đoạn biểu diễn ngón của nhạc công. Để ứng tấu
được dễ dàng, các nhạc công thường quy ước phần này chơi theo
một vòng (sơ đồ) hòa âm nào đó. Kết thúc phần này cũng phải mang
tính chất mở, giống như phần dạo đầu, nó thường kết hòa âm chính
cách ở T hoặc D.
Kết (coda) là nét nhạc để kết thúc tác phẩm, đối với những
tác phẩm ở quy mô nhỏ thì nó thường có độ dài một vài ô nhịp. Về
mặt hòa âm, nó thường được tiến hành theo các công thức kết,
thường là kết trọn hoàn toàn nhưng cũng có thể sử dụng vòng kết kết
biến cách với tính chất là kết bổ sung.
Đệm lót là những nét nhạc trong phần đệm nhằm “phụ họa”
hoặc “hòa ca” cùng với giai điệu. Thủ pháp này giúp cho bản nhạc
thêm sinh động, giàu hình ảnh và truyền cảm hơn.
19
Nhìn ở khía cạnh hòa âm, đây là thủ pháp âm hình giai điệu,
một bè hòa âm nào đó được “giai điệu hóa” từ sự kết hợp giữa các
âm thuộc hợp âm và các âm ngoài hợp âm. Nhưng bản chất thì nó là
thủ pháp sáng tác xây dựng âm hình (facture) theo lối bè tòng, ít
nhiều nó mang tính chất phức điệu ở dạng đơn giản. Ở trường hợp
khác, khi giai điệu dừng ở những âm có trường độ ngân dài hoặc khi
hết một ý nhạc (có thể là một câu hay một tiết nhạc), đệm lót cũng có
thể là nét nhạc để nối câu tính chất như “đối đáp”.
Viết phần đệm thường sử dụng trong các hoạt động biểu diễn
âm nhạc chuyên nghiệp, đối âm nhạc không chuyên thì ca khúc phổ
thông chủ yếu được đệm đàn theo kiểu ứng tấu.
Đệm đàn ứng tấu
Nhìn từ góc độ hòa âm, đệm đàn ứng tấu quan trọng nhất là
sự phản ứng nhanh, nhạy, đặc biệt là đối với các tác phẩm mà người
đệm chưa từng được nghe. Bên cạnh sự rèn luyện tai nghe hòa âm thì
các bài tập chuyển hợp âm theo công thức ở các điệu tính và tiết tấu
khác nhau sẽ vừa hỗ trợ kỹ năng nhạc cụ vừa phát triển tai nghe hòa
âm được tốt hơn.
Ở trong phạm vi đoạn nhạc, nếu có sự nhắc lại thì lần đầu
nên sử dụng mạch hòa âm chậm (ít thay đổi hợp âm) lần sau có thể
thay đổi hợp âm nhiều hơn. Đối với âm hình đệm, lần đầu sử dụng
tiết tấu đơn giản, lần sau sẽ sử dụng những tiết tấu phức tạp hơn.
Phần điệp khúc bao giờ cũng có tính chất âm nhạc nổi bật hơn phiên
khúc. Vì vậy, hợp âm sử dụng màu sắc cũng cần nổi bật, ấn tượng
hơn, mạch đập hòa âm có thể nhanh hơn và tiết tấu cũng sôi động
hơn. Đối với lần nhắc lại (tái hiện), để tránh sự lặp lại nguyên dạng
20
(nhằm tạo màu sắc hòa âm phong phú hơn hoặc tránh sự nhàm chán),
phần đệm cần có đôi chút khác biệt so với lần trình diễn đầu.
Một vài cách biến tấu hòa âm đơn giản mà người mới học có
thể áp dụng là: 1. Thay đổi công năng hòa âm; 2. Thay đổi hợp âm át
V
7
bằng hợp âm át (giả) II
7
b
; 3. Thay đổi cấu trúc hợp âm; 4. Mượn
hợp âm của giọng khác; 5. Kết hợp thay đổi mạch đập hòa âm và
công năng hòa âm. Và không cần thay đổi sơ đồ hòa âm, ở cách đơn
giản nhất, chỉ cần thay đổi âm vực, cách sắp xếp hợp âm và âm hình
đệm là hiệu quả âm thanh đã có nhiều thay đổi khác biệt.
Ngày nay, với sự hỗ trợ của tin học và các phần mềm âm
nhạc, những người không chuyên về sáng tác hoặc không có kỹ năng
nhạc cụ vẫn có thể sử dụng phần mềm âm nhạc để viết phần đệm
Ứng dụng tin học để làm nhạc nền cho ca khúc
Nếu như người phối bài có tư duy sáng tác nhưng kỹ năng
nhạc cụ chưa tốt thì có thể sử dụng các phần mềm chép nhạc
(Encore, Finale, Sibelius v.v…) để viết phần đệm. Nhờ các phần
mềm này, người viết có thể nghe được hiệu quả âm thanh, nếu sai thì
hiệu chỉnh một cách dễ dàng mà nếu chép trên giấy thì sẽ không thể
thực hiện được. Ở mức độ thấp hơn, nếu người phối hòa âm chưa thể
viết phần đệm thì chỉ cần viết sơ đồ hòa âm, phần mềm Band in a
box hoặc Jammer Pro v.v… sẽ giúp họ tạo ra phần đệm hoàn chỉnh.
Nếu sử dụng phần mềm để phối hòa âm (tự động) cho ca
khúc mang âm hưởng dân ca thì người phối hòa âm cần phải kết hợp
giữa nghe và nhìn để có sự điều chỉnh, thay thế hợp âm tương đương
để đạt được hiệu quả tốt nhất trong khả năng có thể. Bởi vì những
21
phần mềm này được lập trình cho những dòng nhạc phổ biến chứ
không chuyên về hòa âm cho điệu thức ngũ cung hoặc âm nhạc Việt
Nam. Để đáp ứng được thì người sử dụng phần mềm phải can thiệp,
chỉnh sửa nhịp điệu, các mẫu âm hình đệm và đổi nhạc cụ. Đây cũng
là công việc không hề đơn giản nếu không có kiến thức về tin học,
phần mềm và cả kiến thức về âm nhạc.
3.5. Hòa âm trong điệu thức 5 âm
So với những giai điệu viết theo ngôn ngữ âm nhạc Châu âu
thì những ca khúc mang âm hưởng âm nhạc Việt Nam đòi hỏi người
phối hòa âm cần phải có sự tinh tế và sáng tạo nhiều hơn.
Trong một số trường hợp, chúng ta có thể sử dụng hợp âm
theo cấu trúc quãng 3 để phối cho những ca khúc mang âm hưởng
dân ca mà không làm mất đi vẻ đẹp của giai điệu. Tuy nhiên, để màu
sắc âm nhạc dân tộc được đậm đặc hơn thì người phối hòa âm cần
nghiên cứu cách sử dụng hợp âm thiếu âm 3, hợp âm có âm phụ, hợp
âm hình thành từ hệ thống thang 5 âm khác (do chuyển hệ) và cả
những chồng âm không theo quãng 3. Sự phối hợp các dạng cấu trúc
hợp âm, chồng âm này sẽ tạo điều kiện cho người phối hòa âm có
nhiều phương án hơn để từ đó chọn lựa ra phương án đạt hiệu quả
nghệ thuật cao nhất.
Tiểu kết chương III
Trong lĩnh vực phối hòa âm thì có thể nói giai đoạn viết sơ
đồ hòa âm là quan trọng nhất. Sơ đồ hòa âm sẽ là cơ sở, nền tảng cho
việc đệm đàn ứng tấu, phối bè và viết phần đệm. Để hòa âm được
mạch lạc, chặt chẽ và đạt hiệu quả nghệ thuật cao thì người thực hiện
22
phải đặt hòa âm trong mối tương quan với giai điệu và hình thức của
tác phẩm.
Việc sử dụng các công thức tiến hành hòa âm và các âm hình
đệm theo mẫu để đệm đàn và phối hòa âm là điều cần thiết trong giai
đoạn đầu học tập, nhưng khi đã thành thục thì người phối hòa âm cần
có sự sáng tạo để hòa âm của tác phẩm có dấu ấn riêng.
Việc sử dụng phần mềm để phối hòa âm tự động không thể
coi là cứu cánh. Nó chỉ là phương tiện giúp con người làm việc và tư
duy hoặc khi kỹ năng nhạc cụ của người phối hòa âm không đáp ứng
được công việc đệm đàn hoặc thu âm. Nếu có tư duy sáng tạo nhưng
kỹ năng nhạc cụ chưa tốt thì việc sử dụng phần mềm chép nhạc để
phối hòa âm sẽ là phương án tối ưu nhất.
KẾT LUẬN
Để ứng dụng lý thuyết hòa âm chức năng trong việc đệm đàn
hoặc phối hòa âm cho ca khúc, trong giai đoạn đầu học tập, những
vấn đề thiết yếu nhất cần quan tâm là:
- Các quy tắc luật lệ và sự kế thừa cách tân trong các dòng
nhạc khác nhau.
- Các kỹ thuật nối tiếp hợp âm và tiến hành bè (bao gồm cả
các kiểu tiến hành theo công thức và không theo công thức).
- Mối tương quan giữa hòa âm với giai điệu và hình thức để
tiến hành hòa âm đạt được sự chặt chẽ, mạch lạc phù hợp với logic
phát triển trong nghệ thuật âm nhạc.
23
Khi nắm vững những kiến thức này, sự sáng tạo mang tính
cách tân mới thực sự có nền tảng vững chắc.
Đối với lĩnh vực đệm đàn và phối hòa âm, điều quan trọng là
khai thác kỹ thuật hợp lý chứ không phải là sử dụng nhiều kỹ thuật.
Rất nhiều ca khúc chỉ được phối với những hợp âm đơn giản, kỹ
thuật đơn giản nhưng lại đạt hiệu quả nghệ thuật cao.
Hướng phát triển hòa âm ứng dụng trong tương lai
Hiện tại hòa âm ứng dụng mới chỉ được áp dụng cho bậc học
cao đẳng sư phạm âm nhạc. Chúng tôi hy vọng môn học này có thể
tiếp tục được nghiên cứu ở quy mô lớn hơn để có thể áp dụng cho
nhiều chuyên ngành và bậc học khác nhau. Theo chúng tôi, một số
vấn đề quan trọng thuộc lĩnh vực hòa âm ứng dụng cần nghiên cứu
trong tương lai đó là:
1. Tính liên thông giữa các bậc học, ngành học khác nhau.
2. Đặc điểm hòa âm của một thể loại (hoặc một dòng nhạc);
3. Kỹ thuật thay thế hợp âm (biến tấu hòa âm);
4. Kỹ thuật nối tiếp hợp âm mang đặc điểm công năng ẩn
dấu, không rõ ràng (Ambiguous Chord);
5. Kỹ thuật hòa âm đa công năng (Compound chords,
Hybrids chords, Polychords) và; 6. Kỹ thuật nối tiếp hợp âm không
sử dụng chức năng hòa âm (Non – Functional Harmony).
24