Tiểu luận Máy điện di
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Máy điện di dùng để phát hiện và xác định ADN trong tế bào vi sinh vật, thực
vật và động vật.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp khác nhau để có thể sử dụng để
phân tích AND và ARN nhưng phương pháp điện di trên gel vẫn được sử
dụng nhờ ưu điểm nhanh gọn và tương đối đơn giản. Điện di hay điện di
trên gel (electrophoresis hay gel electrophoresis) áp dụng trong sinh học
phân tử là một kĩ thuật để phân tích các phân tử DNA, RNA hay protein
dựa trên các đặc điểm vật lý của chúng như kích thước, hình dạng hay
điểm đẳng điện tích (isoelectric point). Kĩ thuật này sử dụng một dung
dịch đệm (buffer) để dẫn diện và tạo điện trường đều, một bản gel (thường
là agarose hay polyacrylamide) đóng vai trò là thể nền để phân tách các
phân tử, và các chất nhuộm khác nhau (ethidium bromide, bạc, xanh
Coomassie) để phát hiện vị trí các phân tử trên gel sau khi điện di.
1
II. NỘI DUNG
1. Axit deoxyribonucleic (AND) và nguyên tắc xác định
1.1. Axit deoxyribonucleic (AND)
1.1.1. Định nghĩa.
- Acid Deoxyribo Nucleic (viết tắt ADN theo tiếng pháp
hay DNA theo tiếng Anh ) là một phân tử acid nucleic mang thông tin
di truyền mã hóa cho hoạt động sinh trưởng và phát triển của các dạng
sống bao gồm cả một số virus.
- ADN thường được coi là vật liệu di truyền ở cấp độ phân tử tham gia
quyết định các tính trạng. Trong quá trình sinh sản, phân tử ADN được
nhân đôi và truyền cho thế hệ sau.
1.1.2. Cấu trúc hoá học của AND.
- ADN tồn tại chủ yếu trong nhân tế bào, cũng có mặt ở ti thể, lạp thể.
ADN là một loại axit hữu cơ có chứa các nguyên tố chủ yếu C, H, O, N và P
(hàm lượng P có từ 8 đến 10%)
- ADN là đại phân tử, có khối lượng phân tử lớn, chiều dài có thể đạt
tới hàng trăm micromet, khối lượng phân tử có từ 4 đến 8 triệu, một số có thể
đạt tới 16 triệu đơn vị cacbon.
- ADN cấu tạo theo nguyên tắc đa phân, mỗi đơn phân là một loại
nuclêôtit, mỗi nuclêôtit có 3 thành phần, trong đó thành phần cơ bản là bazơ –
nitric. 4 loại nuclêôtit mang tên gọi của các bazơ – nitric, trong đó A và G có
kích thước lớn, T và X có kích thước bé.
- Trên mạch đơn của phân tử các đơn phân liên kết với nhau bằng liên
kết hoá trị là liên kết hình thành giữa đường C
5
H
10
O
4
của nuclêôtit này với
phân tử H
3
PO
4
của nuclêôtit bên cạnh, (liên kết này còn được gọi là liên kết
photphodieste). Liên kết photphodieste là liên kết rất bền đảm bảo cho thông
tin di truyền trên mỗi mạch đơn ổn định kể cả khi ADN tái bản và phiên mã.
- Từ 4 loại nuclêôtit có thể tạo nên tính đa dạng va` đặc thù của ADN ở
các loài sinh vật bởi số lượng, thành phần, trình tự phân bố của nuclêôtit.
1.1.3. Cấu trúc không gian của ADN
- Mô hình ADN theo J.Oatxown và F.Cric có đặc trưng sau:
+ Là một chuỗi xoắn kép gồm 2 mạch pôlinuclêôtit xoắn đều quanh
một trục theo chiều từ trái sang phải như một thang dây xoắn, mà 2 tay thang
2
là các phân tử đường (C
5
H
10
O
4
) và axit phôtphoric sắp xếp xen kẽ nhau, còn
mỗi bậc thang là một cặp bazơ nitric đứng đối diện và liên kết với nhau bằng
các liên kết hiđrô theo nguyên tắc bổ sung, nghĩa là một bazơ lớn (A hoặc G)
được bù bằng một bazơ bé (T hoặc X) hay ngược lại. Do đặc điểm cấu trúc,
ađenin chỉ liên kết với timin bằng 2 liên kết hiđrô và guanin chỉ liên kết với
xitôzin bằng 3 liên kết hiđrô.
+ Do các cặp nuclêôtit liên kết với nhau theo nguyên tắc bổ sung đã
đảm bảo cho chiều rộng của chuỗi xoắn kép bằng 20 Å , khoảng cách giữa
các bậc thang trên chuỗi xoắn bằng 3,4Å, phân tử ADN xoắn theo chu kỳ
xoắn, mỗi chu kỳ xoắn có 10 cặp nuclêôtit có chiều cao 34Å .
1.2. Nguyên tắc xác định
1.2.1. Điện di là gì?
Điện di là hiện tượng dịch chuyển của các vật thể mang điện tích dưới
tác động của điện trường.
Điện di hay điện di trên gel áp dụng trong sinh học phân tử là một kĩ
thuật để phân tích các phân tử AND,ARN hay protein dựa trên các đặc điểm
vật lý của chúng như kích thước, hình dạng hay điểm đẳng điện tích.
3
Kĩ thuật này sử dụng một dung dịch đệm (buffer) để dẫn diện và tạo
điện trường đều, một bản gel (thường là agarose hay polyacrylamide) đóng
vai trò là thể nền để phân tách các phân tử, và các chất nhuộm khác nhau
(ethidium bromide, bạc, xanh Coomassie) để phát hiện vị trí các phân tử trên
gel sau khi điện di.
1.2.2. Nguyên tắc của phương pháp
Có nhiều phương pháp khác nhau có thể được sử dụng để phân tích
ADN và ARN, nhưng cho đến nay điện di trên gel là phương pháp được sử
dụng phổ biến hơn cả nhờ ưu điểm nhanh và tương đối đơn giản.
Nguyên tắc của phương pháp là do: dưới tác động của điện trường, các
phân tử ADN (thường tích điện âm) khác nhau về kích thước, điện tích, mức
độ cuộn xoắn và dạng phân tử (mạch thẳng hay mạch vòng) sẽ di chuyển qua
hệ mạng của gel từ cực âm (cathode) sang cực dương (anode) với tốc độ di
chuyển khác nhau. Vì vậy, chúng dần dần tách nhau ra trên trường điện di,
qua đó người ta có thể thu thập và phân tích được từng phân đoạn ADN hoặc
gen riêng rẽ. Trên điện trường các phân đoạn ADN có kích thước càng nhỏ
càng có tốc độ di chuyển trên điện trường nhanh hơn. Sau khi điện di kết thúc,
các phân tử ADN có thể quan sát thấy nhờ sử dụng các thuốc nhuộm phát
huỳnh quang, chẳng hạn như ethidium (chất này gắn kết với ADN bằng cách
cài vào khe ở giữa các nucleotit). Mỗi một băng điện di thường phản ánh một
tập hợp các phân tử ADN có cùng kích thước.
Có hai loại vật liệu làm gel được sử dụng phổ biến trong điện di, đó là
agarose và polyacrylamid. Trong đó, gel polyacrylamid có khả năng phân
tách cao, nhưng khoảng kích thước ADN có thể phân tích hẹp. Vì vậy, điện di
trên gel polyacrylamid có thể phân tách được các phân đoạn ADN khác nhau
thậm trí chỉ một cặp nucleotit (1 bp) duy nhất, nhưng thường chỉ để phân tích
các đoạn ADN kích thước vài trăm bp. Còn gel agarose có khả năng phân
tách thấp hơn đối với các phân đoạn ADN kích thước nhỏ, nhưng rất hiệu quả
khi phân tách các phân đoạn ADN kích thước lớn tới hàng chục hoặc hàng
trăm kb (1 kb = 1000 bp).
Các phân đoạn ADN kích thước lớn không thể “lọt” qua các lỗ có kích
thước nhỏ trên các bản gel, kể cả gel agarose. Thay vào đó, chúng sẽ “trườn”
qua mạng lưới của gel bằng việc đầu này của phân tử đi trước, còn đầu kia
theo sau. Kết quả là các phân đoạn ADN kích thước lớn (từ 30 đến 50 kb) có
tốc độ di chuyển trên điện trường gần như tương đương và khó phân tách
được bằng phương pháp điện di thông thường. Đối với các phân đoạn ADN
kích thước lớn như vậy, người ta có thể phân tách bằng việc sử dụng phương
pháp điện di xung trường (pulsed-field gel electrophoresis). Trong phương
4
pháp này, người ta sử dụng 2 cặp điện cực nằm chéo góc trên bản điện di .
Việc “bật” và “tắt” luân phiên 2 cặp điện cực sẽ làm cho các phân đoạn ADN
lớn thay đổi chiều. Các phân đoạn ADN có kích thước càng lớn càng chậm
hơn trong quá trình thay đổi chiều di chuyển. Nhờ vậy, các phân đoạn có kích
thước khác nhau sẽ phân tách ra khỏi nhau trong quá trình di chuyển. Kỹ
thuật điện di xung trường trong thực tế có thể sử dụng để xác định được kích
thước đầy đủ của nhiễm sắc thể vi khuẩn, hoặc nhiễm sắc thể các loài sinh vật
nhân chuẩn bậc thấp, như nấm men. Những loài này có kích thước hệ gen
khoảng vài Mb.
Điện di không những có thể phân tách các phân đoạn ADN khác nhau
về kích thước mà cả về hình dạng và cấu hình không gian của chúng. Các
phân tử ADN ở dạng mạch vòng giãn xoắn hoặc bị “đứt gãy” ở một số
nucleotit di chuyển chậm hơn trên trường điện di so với các phân tử ADN ở
dạng mạch thẳng có cùng khối lượng. Tương tự như vậy, các phân tử ADN ở
dạng siêu xoắn, kích thước và thể tích thu nhỏ thường di chuyển nhanh hơn
trên trường điện di so với các phân tử ADN dạng mạch vòng giãn xoắn hoặc
có mức độ cuộn xoắn thấp hơn có cùng khối lượng.
1.2.3. Sự phát hiện AND
AND có thể phát hiện nhờ sự phát huỳnh quang của liên kết etydi
bromua (C
2
H
10
BrN
3
) hay nhờ phương pháp chụp ảnh bằng tia X của đồng vị
phóng xạ AND. Etydi bromua (0,5 µg/ml) có thể được thêm vào dung dịch
đệm di chuyển, để quan sát sự biến động của mẫu, vì sự phát huỳnh quang
của thuốc nhuộm dưới tác dụng của tia cực tím sẽ được biểu hiện ở dạng dải
(để xác định được sự biến đổi đó: tắt nguồn cung cấp năng lượng và chuyển
đổi thành phần agaroza cũ ra nắp thiết bị định tia cực tím gần khay vận hành.
Đặt nắp lại và bật đèn để bắt lại sự điện di). Ngoài ra, sau khi điện di, gel biến
màu trong dung dịch hòa tan (etydi bromua 10,5 µg/ml H
2
O) khoảng từ 10
đến 60 phút rồi quan sát và chụp ảnh mẫu bằng phương pháp chiếu tia cực
tím.
Đế chụp ảnh gel, dùng phương pháp chiếu tia cực tím trên bề mặt tại
mỗi vị trí ở đĩa vận hành hoặc di chuyển nhẹ bản gel trên bề mặt sẽ quan sát
được tối đa (đĩa vận hành có 95% ánh sáng trắng với bước sóng 245nm và
40% ánh sáng trắng với bước sóng 254nm). Quan sát mẫu bằng tia cực tím ở
bước sóng 366 nm hoặc làm giảm cường độ tia cực tím xuống 302 nm để
giảm sự phát huỳnh quang của etydi bromua không liên kết, gel có thể bị mất
màu bởi sự hút ẩm của nó trong 5 phút với MgCl
2
0,01M hoặc trong 1 giờ với
MgSO
4
0,001M. Sự mất màu đã tạo điều kiện dễ dàng để phát hiện hàm lượng
AND nhỏ.
5
2. Cấu trúc máy điện di.
Máy điện di gồm ba bộ phận cơ bản:
2.1. Khay vận hành: Gồm khuôn đúc gel, khay di động trong suốt và bọt
đệm bằng cao su.
• Tác dụng:
+ Khuôn đúc gel
là nơi tiến hành rót dung
dịch đệm (thường là
đệm điện di, gel
agaroza).
+ Nhờ tác dụng
của bọt đệm bằng cao su
nên quá trình rót dung
dịch đệm vào khuôn
tránh tiếp xúc vào thành
khuôn và thuận lợi cho
quá trình lấy gel ra dễ
dàng.
+ Trên khay di
động trong suốt có đục các lỗ dùng để bơm các chất chỉ thị màu, chất tải lạnh
etylen glycol.
6
2.2. Nắp có điện thế cao:
Trên nắp có đầu ra của mã màu, dược nối với nguồn điện qua điện cực
trên đế máy. Trên nắp có đầu ra của mã màu được nối với nguồn điện qua
điện cực trên đế máy. Nắp có tác dụng bảo đảm an toàn trong quá trình điện
di.
2.3. Buồng giảm xốc: Có ống nối điện cực, bục di chuyển và lỗ nạp
etylenglycol/nước với tỷ lệ 50/50
7
Một số hình ảnh về máy điện di.
8
Máy điện di ngang
Máy điện di đứng
3.Cấu trúc vận hành:
3.1 Chuẩn bị dung dịch
3.1.1. Chuẩn bị 250 ml dung dịch đệm.
Hai dung dịch đệm được sử dụng phổ biến cho điện di AND được
chuẩn bị theo công thức pha chế sau.
* 10X Tris-borate-EDTA. Nguồn cung cấp chất đệm:
(0,89 M Tris; 0,89 M acid boric; 20 mM EDTA; pH -8,2; 1000 ml)
Tris base (FW 121.1) : 0,89 M 108,0 g
Acid boric (FW 61.8) : 0,89M 55,0 g
Dung dịch EDTA: (0,5M; pH 8,0) 0,02 g 40,0 ml
Nước đã được khử ion hóa: 1000,0 ml
pH luôn giữ ở 8,2
Trước khi sử dụng với dung dịch loãng
0,5 X với 45mM base tris; 45 mM acid boric và 1 mM EDTA
Thường dùng pha loãng vì nước có nhiệt độ thấp
1X với 89 mM base tris; 89 mM acid boric và 2 mM EDTA
* 10X Tris-acetate-EDTA cung cấp cho chất đệm
(0,4 M tris; 0,2 M acid axetic; 10mM EDTA; pH-8,4; 1000 ml)
Tris base (FW 121.1): 4,0 M 48,8 g
Acid axetic (99,5%): 0,2 M 114,1 ml
Dung dịch EDTA (0,5 M; pH 0,8): 0,01M 20,0
ml
Nước đã khử ion hóa: 1000,0 ml
Khuấy đều đừng làm giảm pH. Pha loãng tới 1X trước khi sử dụng tới
40 mM base tris; 20 mM acid axetic và 1 mM EDTA.
* Dung dịch EDTA
(0,5 M; pH 8,0; 100ml)
Na
2
EDTA.2H
2
O; (FW 372,2) 0,5 M 18,6 g
Nước đã được khử ion hóa: 70,0 ml
NaOH (10M) tới pH 8,0 100,0 ml
3.1.2. Chuẩn bị bộ đệm tải mẫu.
Để chuẩn bị bộ đệm cần chuẩn bị mẫu đệm thử (dung dịch mẫu)
Mẫu đệm thử (Dung dịch mẫu)
9
(5X; 25% ficoll 400; 25% phenol bromua xanh; 10 ml)
Nước đã được khử ion hóa: 7,0 ml
Ficoll 400: 2,5 mg
Phenol bromua xanh (F 691,9): 25,0 mg
Nước đã được khử ion hóa: 100 ml
Chú ý 1: Sucroza và glycerol có thể được sử dụng để thay thế ficoll
400.
Chú ý 2: Xylen cyanol (0,25%) mà di chuyển chậm hơn phenol bromua
xanh, thì có thể tăng thêm một lượng nếu mong muốn, sự cô cạn dung dịch
agaroza được xác định khi thêm vào có liên quan đến polynucleotit.
3.2 Đúc gel
3.2.1. Chuẩn bị gel và khuôn đúc
- Chuẩn bị gel: Chuẩn bị khoảng 7 ml dung dịch agaroza ứng với
mililit chiều dày gel (ví dụ: 1 gel 3 mm cần 0,3x7x10 = 21 ml).
Hòa tan agaroza trong dung dịch đệm, điều chỉnh nhiệt độ hỗn hợp.
Cho phép làm mát dung dịch đến 50
0
C trước khi rót vào khuôn.
Để quan sát sự phân ly trong hiện tượng điện chuyển thường thêm 0,5
mg/ml etydibromua vào dung dịch gel.
- Chuẩn bị khay di động: một tay giữ chặt khuôn đúc, tay kia đặt đầu
khay di động và áp vào miệng bọt đệm và sau đó hạ thấp và đặt lên cuối của
khuôn đúc. Đặt đầu còn lại của khay áp suất sát bọt đệm.
- Chuẩn bị lược: Lắp hai rãnh trong lược vào đầu những đầu ốc vào
mặt sau lược. Siết chặt ốc. Đặt lược vào mép khuôn và phần cuối của lược để
cách khay di động khoảng 1mm. Siết chặt ốc để giữ chắc lược.
+ Di chuyển lược: Đặt khuôn lắp ráp lên mặt phăng nằm ngang. Đặt
vào ống nivo lên khay di động, nó như thiết bị kiểm tra xem khuôn có đúng vị
trí nằm ngang không.
3.2.2.Đúc gel
- Đổ dung dịch agaroza vào khuôn đúc. Định hướng lược để các bề
mặt lược gần miếng đệm bọt nhất và đặt nó lên cạnh khay. Lược luôn luôn ở
vào vị trí thẳng đứng để tránh sự vặn vẹo hình dạng. Để chạy lượng mẫu gấp
2 lần, đặt lược thứ hai vào chính giữa khay. Cho phép thời gian tối thiểu để
gel đặc lại là 30 phút.
- Khi gel đã kết lại, lần lược tháo lược cẩn thận. Nhấc một phần và
nghiêng nhẹ một đầu của lược, sau đó rút từ từ ra khỏi gel
- Tháo khay di động và gel bằng cánh nắm lấy tay cầm của khay, ấn
đầu áp vào miếng bọt đệm. Khi khay đã sạch đệm thì nhấc ra. Chuyển khay
và gel tới chỗ mát.
10
3.4 Vận hành điện di
- Làm sạch nền trước khi tiến hành, đặc biệt khi dùng điện áp cao hơn
hoặc khi sự phân ly quy định trên 30 phút.
Chú ý: Để tiến hành phân ly, hoặc là thêm 0,5mg/ml etydibromua vào
dung dịch đệm hoặc thêm 50mg/ml etydibromua vào bộ đệm. Để quan sát,
hãy cắt điện, tháo phần nắp và giữ đèn cực tím gần gel.
+ Thêm từ từ etydibromua vào dung dịch đệm hay đệm mẫu. Phát hiện
bằng phương pháp này không nhạy bằng cách nhuộm màu và nhìn qua thiết bị
soi.
- Đỗ dung dịch vào các khoang sao cho đến khi đệm cao hơn gel
khoảng 1mm
- Nạp mẫu. Thêm vào 5X bộ đệm tải mẫu và trộn đều. Sử dụng
micropipet để nạp mẫu, chú ý tránh đâm thủng hoặc tạo nên nhiều bong bóng.
- Đặt nắp để catot ở đoạn cuối gần mẫu nhất. Chuyển về phía anot. Nối
với các dây màu tới các nguồn điện. Đặt mức điện áp vào thiết bị bấm giờ
theo mức độ phân ly.
* Vận hành
Các loại gel agaroza được chuẩn bị lần đầu trong khuôn đúc gel. Những
mẫu được nạp vào trong các bể chứa và được phân ly. Thuốc nhuộm huỳnh
quang C
12
H
20
BrN
3
có thể được thêm vào chất đệm và chất đệm điện di hoặc
gel hoặc cả hai để tìm ra dấu hiệu của quá trình phân ly. Sau khi điện di, gel
có thể cho màu, ghi lại màu, thấm màu thêm hoặc sấy tự động.
- Đỗ đầy lỗ với chất tải lạnh. Dù không làm lạnh đi nữa thì điều quan
trọng là phải đổ đầy lỗ với dung dịch làm lạnh đặc trưng trước khi sử dụng vì
dung dịch cung cấp nguồn nhiệt cần thiết.
-Chuẩn bị 600 ml với 50/50 C
2
H
2
(OH)
2
/H
2
O
Để giúp xem các bể chứa được rõ ràng hơn trong khi nạp mẫu, thêm 1
hoặc 2 giọt thuốc nhuộm hòa tan hoặc màu thực phẩm vào dung dịch làm
lạnh.
Tìm ra hai lỗ hỏng nạp nước ở phần trên của lỗ. Đỗ đầy lỗ hỏng đến
mức có thể như chất làm lạnh bằng ống phun hoặc máy bơm với 50 ml.
Bấm nút caosu màu nâu vào mỗi lỗ.
Sắp xếp dung dịch đã chuẩn bị trong thùng đá hoặc bên trong máy lạnh
hoặc tủ lạnh không dưới 200C trong khoảng 1 giờ trước khi sử dụng (hóa chất
được dự trữ trong phòng lạnh hoặc máy lạnh).
Chú ý:
Không đổ đầy với chất chống đông thương mại, dung môi hữu cơ hoặc
nước cất.
11
Không cần thiết thay thế chất tải lạnh.
3.6 Những chú ý cần thiết
Nắp an toàn phải được lắp trước khi nối nguồn điện với nguồn cung
cấp năng lượng
Tất cả các công tắc điện và ngắt nguồn cung cấp điện trước khi tháo
nắp an toàn.
Trước khi sử dụng lần đầu, làm đầy lỗ với một lượng 600 ml 50/50
etylen glycol/nước để ngăn chặn sự tổn thất không thể hồi phục cho thiết bị.
Lỗ chứa lượng trên có thể đổ đầy ngay cả khi không cần làm lạnh theo yêu
cầu.
Không sử dụng nước cất, chất chống đông thương mại hoặc bất kì dung
môi hữu cơ nào để đổ vào lỗ đó. Nước được lấy ra khi đóng băng. Nếu không
nó bị hút vào bên trong dung dịch và phá vỡ liên kết. Dung môi hữu cơ sẽ gây
ra sự tổn thất hóa chất không thể hồi phục cho thiết bị.
Không làm lạnh lượng dung dịch cho vào lỗ đó dưới – 20
0
C (-4
0
F). Có
thể làm lạnh lượng dung dịch đó trong thùng đá, máy làm lạnh hoặc trong tủ
lạnh.
Không điều chỉnh nhiệt độ dung dịch đệm hoặc gel trên 50
0
C. Ngăn
chặn sự đun nóng quá nhiệt bằng cách làm lạnh lượng dung dịch đó trước khi
sử dụng. Để ngăn chặn sự đun nóng quá nhiệt trong quá trình kéo dài chạy
điện áp cao, thay thế lượng dung dịch thứ 1 bằng lượng dung dịch thứ 2 đã
được làm lạnh. Sự đun nóng quá nhiệt sẽ gây ra tổn thất không thể hồi phục
cho thiết bị.
*Làm sạch
Sau mỗi lần sử dụng, làm sạch thiết bị bằng chất tẩy nhẹ và nước, súc
cẩn thận với nước cất và làm khô bằng không khí. Không được đặt thiết bị
vào dung dịch hoặc khí thơm hay các hydrocacbon halogen hóa, xeton, este,
alcol (trên 30%) hoặc axit đặc (trên 25%).
Để tránh làm bẩn ADNza và ARNza, ngâm các khoang chứa đệm hoặc
khuôn đúc khoảng 10 phút trong dung dịch H
2
O
2
3%, sau đó súc cẩn thận với
DEPC được xử lý rồi cho vào nồi hấp (dùng nước đã được ion hóa để hấp).
Thay miếng bọt đệm
Tháo những miếng bọt đệm mòn. Tháo vỏ miếng đệm mới. Sắp đệm
cho thẳng và để nó vào vị trí cuối của khay dọc theo cạnh ngắn (7 cm), mặt
sau của tường và sau đó ép vào đúng vị trí. Lặp lại với miếng đệm thứ 2 trên
tường đối diện với miếng đệm thứ 1.
3.7 Điều chỉnh thiết bị điện di
12
Bể chắn mẫu: Để cho gel đặc lại tối thiểu là 30 phút và giữ ở nhiệt độ
phòng trước khi tháo lược.
Khi tháo lược giữ ở cạnh ngắn và nâng nhẹ để tránh gãy gel.
Giữ để không hỏng bể chứa, dùng pipet để lấy mẫu, cố gắng cho vào
giữa bể và không làm thủng đáy bể.
Mẫu thử không chạy dọc theo cột:
Nếu chảy thành sợi trên khay bị hỏng thì phải thay thế.
Giảm điện áp
Chọn chất đệm với nồng độ và hàm lượng dung dịch đệm thích hợp
(lượng dung dịch đệm TBE chứa nhiều hơn loại TAE).
Nếu chất đệm bị tháo ra hết thì ngưng hoạt động, tháo nắp, dùng ống
hút lấy chất đệmtừ lỗ khác cho vào bên trong lỗ đối diện đến khi đầy chất
đệm.
Nếu chất gel không đồng nhất, đặt khuôn đúc nằm ngang trước khi đổ
dồn gel (để làm hòa lẫn vào nhau).
Cặp khuôn đúc:
Lược phải đặt thẳng đứng để tránh làm biến dạng bể chứa
Giảm lớp đệm 1 mm từ bề mặt ở phía trên gel, giảm gradien nhiệt độ.
Tái tạo gel không đủ chất lượng:
Thêm ficoll, glyxerol hay đường (mía) vào nhiều dung dịch lấy mẫu để
đảm bảo mẫu lắng xuống đáy bể (chon chất ficoll)
Chắc chắn mẫu thử được hòa tan hoàn toàn
Giảm điện thế
Giảm nồng độ mẫu thử
Giảm thể tích
Cần ít nhất 1mm gel dưới đáy lược để tránh mẫu rỉ ra từ đáy bể.
Giảm nồng độ muối trong mẫu thử
Kiểm tra độ enzim, mẫu thử có trể cần tác động lâu (xúc tác xảy ra quá
trình) và một loại chất đệm khac hạn chế sự di chuyển
Pha chế mẫu mới nếu nghi ngờ mẫu bị nhiễm bẩn.
Chọn loại agaroza với tốc độ thẩm thấu chậm
Đặt khay đúng vị trí, không ấn mạnh vào bên trong.
4. Ứng dụng
- Trong nghành công nghệ thực phẩm hiện nay:
♦ Dùng để phân tách ADN (ARN)
♦ Tinh sạch các đại phân tử protein
♦ Tinh sạch các nucleic acid-trên cơ sở kích thước/khối lượng, điện tích
và cấu hình của chúng.
13
- Ứng dụng điện di trong nông nghiệp
o Cải thiện phẩm chất những giống đặc sản
o Chọn tạo các giống triển vọng
III. KẾT LUẬN
Kỹ thuật điện di có nhiều ứng dụng lớn trong trong các quy trình sản xuất
công nghiệp, nhất là trong nghành công nghệ thực phẩm hiện nay.
Vì vậy cần phải tìm hiểu và đưa kỹ thuật này vào ứng dụng rộng rãi hơn nữa
trong nền công nghiệp hiện đại ngày nay nhằm mang lại những sản phẩm đạt
chất lượng cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Huỳnh Thùy Dương, Sinh học phân tử.
2. Lê Văn Hoàng, Quá trình và thiết bị sinh học trong CNTP, Nhà xuất
bản khoa Học và kỹ thuật.
3. Nguyễn Xuân Phương, Vi sinh vật công nghiệp, Nhà xuất bản Đà
Nẵng.
4. />5. />phan-tich-adn-va-arn/
14