Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Tìm hiểu phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ tại ngân hàng TMCP đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.39 KB, 91 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong thế kỷ 21, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đối với mỗi quốc gia là một
tất yếu khách quan. Với xu thế này, tất cả các quốc gia đều có sự liên kết với nhau
về kinh tế, văn hoá, chính trị, khoa học…Một trong những hoạt động kinh tế có sự
phát triển mạnh mẽ đó là thương mại quốc tế. Và cũng có thể nói rằng từ khi thương
mại quốc tế ra đời và phát triển thì không thể không nhắc đến vai trò của hoạt động
thanh toán quốc tế.
Sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO là một bước
tiến quan trọng, khẳng định vị trí của nước ta trên trường quốc tế. Hoạt động xuất
nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam nhờ đó cũng được thuận lợi hơn, số
lượng giao dịch mua, bán nhiều kéo theo nhu cầu thanh toán quốc tế ngày càng lớn.
Các phương thức thanh toán quốc tế ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng,
một trong những phương thức đó là phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng
từ.
Trong các cuộc giao thương quốc tế ngày nay, thanh toán theo L/C luôn là
phương thức thanh toán quan trọng nhất giữa những đối tác kinh doanh bởi L/C tạo
ra sự an tâm và thuận lợi tối đa cho các công ty. Nhưng dù an toàn và tiện lợi đến
mấy thì thanh toán qua L/C vẫn không thể tránh khỏi các rủi ro và tranh chấp phát
sinh.
Cùng với các hoạt động kinh doanh khác, Ngân hàng thương mại cổ phần
(TMCP) Đông Nam Á không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh
toán quốc tế bằng tín dụng thư. Doanh số của hoạt động này tăng lên đáng kể trong
hai năm gần đây và dần trở thành phương thức thanh toán chủ yếu của hoạt động
thanh toán quốc tế tại Ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của phương thức thanh toán bằng tín dụng
thư, qua quá trình học tập cũng như quá trình thực tập tại Ngân hàng TMCP Đông
Nam Á, em đã đủ điều kiện để tiếp cận về vấn đề này nên em mạnh dạn chọn đề tài
2



“ Tìm hiểu phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ tại Ngân hàng
TMCP Đông Nam Á” làm nội dung của khoá luận tốt nghiệp.
2. Phạm vi nghiên cứu :
- Luận văn nghiên cứu về Ngân hàng Đông Nam Á trên phạm vi toàn hàng,
khắp các tỉnh, thành trong cả nước.
- Luận văn nghiên cứu về hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng
chứng từ: việc thực hiện và những kết quả đạt được cũng như những hạn chế tại
Ngân hàng.
- Luận văn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 10/8/2007 đến 30/11/2007.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động thanh toán quốc tế bằng
phương thức tín dụng thư (L/C) tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập số liệu và phân tích.
- Phương pháp đối chiếu so sánh.
- Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
5. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động thanh toán bằng L/C tại Ngân hàng Đông
Nam Á.
- Đánh giá những kết quả đạt được và những mặt còn tồn tại của hoạt động
thanh toán bằng L/C tại Ngân hàng Đông Nam Á.
-Rút ra giải pháp để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thanh toán bằng
L/C tại Ngân hàng. Đồng thời đề ra một số giải pháp nhằm làm tăng hiệu quả hoạt
động cho Ngân hàng.
6. Kết cấu của khoá luận:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm ba chương như sau:
Chương I: Khái quát chung về Thanh toán quốc tế và Phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ.
3


Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức
tín dụng thư tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á.
Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán bằng tín dụng
thư tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á.
Em xin chân thành cảm ơn T.S – G.V Nguyễn Thị Hiển đã tận tâm chỉ bảo,
hướng dẫn em từ khâu lập đề cương đến khi hoàn chỉnh bài khoá luận. Xin chân
thành cảm ơn các anh chị phòng thanh toán quốc tế của Ngân hàng TMCP Đông
Nam Á đã cung cấp những số liệu cần thiết và chỉ bảo em trong suốt thời gian em
thực hiện các nội dung của khoá luận.
Trong quá trình thực hiện không thể tránh khỏi những thiếu sót, em kính
mong nhận được sự quan tâm, góp ý của giáo viên hướng dẫn và hội đồng thi nhà
trường./.
Sinh viên thực hiện.
Đoàn Việt Hà
















4

CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT CHUNG VỂ THANH TOÁN QUỐC TẾ
VÀ PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ :
1.1.1. Khái niệm về hoạt động thanh toán quốc tế (TTQT):
Ngày nay, đối với mỗi quốc gia, quan hệ kinh tế đối ngoại có vai trò quan
trọng hàng đầu và là con đường tất yếu trong phát triển kinh tế. Hoạt động kinh tế
đối ngoại là hoạt động trao đổi hàng hoá và tiền tệ giữa các chủ thể của các quốc gia
khác nhau.
TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát sinh từ các quan
hệ kinh tế, thương mại tài chính, tín dụng và dịch vụ phi mậu dịch giữa các tổ chức
kinh tế, các hãng, các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu trình
hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng hình thức chuyển tiền hoặc hình
thức bù trừ trên tài khoản tại các ngân hàng.
TTQT được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm thanh toán các hiệp định thương
mại, các hiệp định trả tiền ký kết giữa các nước, các hợp đồng mua bán ngoại
thương, các phí dịch vụ (như phí vận tải, bảo hiểm…).
TTQT có thể được chia thành:
- Thanh toán mậu dịch: là quan hệ thanh toán có liên quan trực tiếp, phát
sinh trên cơ sở trao đổi hàng hoá và dịch vụ thương mại quốc tế.
- Thanh toán phi mậu dịch: là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan
đến hàng hoá, không mang tính chất thương mại: quan hệ về ngoại giao (như chi phí
của các cơ quan ngoại giao tại nước sở tại), văn hoá, du lịch (chi phí vận chuyển và
đi lại của các đoàn khách, chính phủ, tổ chức, cá nhân…).
Trong giao dịch ngoại thương, sự trao đổi hàng hoá và tiền tệ giữa các chủ
thể thuộc hai quốc gia khác nhau vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia nên có sự
khác nhau về quy chế mậu dịch, các điều kiện thương mại cũng như các tập quán
thương mại.

5

Vì vậy, một cơ chế thanh toán mang tính thống nhất và đảm bảo an toàn lợi
ích cho cả người mua và người bán là vô cùng cần thiết. Trong cơ chế thanh toán
này thông thường có một bên thứ ba độc lập làm trung gian thanh toán. Đó là các tổ
chức tài chính trung gian (chủ yếu là các ngân hàng) có kinh nghiệm, chuyên môn,
nghiệp vụ, uy tín, khả năng tài chính, mạng lưới đại lý, và quan hệ rộng…
1.1.2. Đặc trưng của TTQT:
Một là, TTQT tồn tại trong mối quan hệ mật thiết với các hoạt động khác của
quan hệ kinh tế quốc tế. TTQT đã xuất hiện từ rất lâu nhưng nó chỉ thực sự phát
triển kể từ khi Chủ nghĩa tư bản ra đời và từ đó cho đến nay nó trở thành một bộ
phận không thể tách rời khỏi nền kinh tế.
Hai là, TTQT liên quan đến chủ thể thuộc hai quốc gia khác nhau.
Ba là, trong TTQT có sự xuất hiện của đồng ngoại tệ đối với một hoặc hai
bên tham gia (mua, bán). Ngày nay, đồng USD không còn là đồng tiền tiêu chuẩn
duy nhất. Việc lựa chọn đồng tiền nào hoàn toàn do sự thoả thuận của bên mua và
bán, có thể sử dụng đồng tiền nội tệ của bên mua hoặc bên bán hoặc cũng có thể lựa
chọn một đồng ngoại tệ đối với cả bên mua và bên bán. Việc lựa chọn này phụ
thuộc vào uy tín của nền kinh tế, so sánh tương quan vị thế giữa hai bên mua và
bán, hay phụ thuộc vào tập quán thương mại quốc tế. Và trong thực tế có một số
đồng tiền mạnh thường được sử dụng trong quan hệ TTQT như USD (Đô la Mỹ),
GBP (Bảng Anh), JPY (Yên Nhật), EURO…Bên cạnh đó thì đồng SDR (Quyền rút
vốn đặc biệt của Quỹ tiền tệ thế giới) cũng được tham gia trong hoạt động kinh tế
đối ngoại.
Bốn là, TTQT ít sử dụng tiền mặt, chủ yếu được thực hiện bằng chuyển
khoản giữa các ngân hàng liên quan.
Năm là, cũng như nhiều lĩnh vực khác, TTQT chịu ảnh hưởng của các yếu tố
bất ổn trên thế giới. Các liên minh tiền tệ ra đời và ngày càng có vai trò quan trọng
đối với các quốc gia. Bất kỳ một nền kinh tế dù đang trong giai đoạn phát triển
thịnh vượng cũng luôn tiềm ẩn yếu tố bất ổn: nguy cơ lạm phát, thâm hụt cán cân

TTQT, mất cân bằng cung cầu ngoại tệ, sự bất hợp lý của các chính sách vĩ mô
6

(chính sách tiền tệ, chính sách tài chính…) hay sự biến động của tỷ giá theo hướng
bất lợi cho nền kinh tế… Vì quan hệ TTQT là một bộ phận của quan hệ kinh tế nên
nó cũng không nằm ngoài sự tác động của các yếu tố bất ổn trên.
Sáu là, TTQT chịu ảnh hưởng của luật quốc tế hoặc ít nhất là luật nước ngoài
đối với một bên tham gia giao dịch.
1.1.3. Vai trò của TTQT:
Thanh toán quốc tế không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế mà
còn có vai trò đối với ngân hàng và các nhà xuất nhập khẩu (những người tham gia
trong quá trình thanh toán quốc tế).
1.1.3.1. Đối với nền kinh tế:
TTQT ra đời từ những quan hệ kinh tế quốc tế và bản thân nó lại thúc đẩy sự
phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế.
TTQT là khâu kết thúc một giao dịch buôn bán hàng hoá, dịch vụ, là cầu nối
giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu thông qua việc chi trả lẫn nhau trong quá
trình thực hiện nghiệp vụ TTQT. Chính vì vậy, nếu hoạt động TTQT được thực hiện
có hiệu quả nó sẽ rút ngắn thời gian chuyển vốn. Và như vậy nó sẽ thúc đẩy hoạt
động ngoại thương phát triển.
- TTQT tăng cường mối giao lưu về kinh tế giữa các quốc gia. Thực hiện
nghiệp vụ này, các ngân hàng trong nước sẽ thiết lập được mối quan hệ đại lý với
các ngân hàng và đối tác nước ngoài dựa trên cơ sở hợp tác và tương trợ. TTQT là
cầu nối sản xuất và tiêu dùng mà thông qua đó, lợi ích người bán, người mua hay
nói khác đi là lợi ích của các quốc gia tham gia thương mại sẽ được thoả mãn, cán
cân TTQT của mỗi quốc gia sẽ được cải thiện. Đó là lý do và cũng là động lực cho
sự phát triển của hoạt động kinh tế đối ngoại.
- TTQT hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại.
Đóng vai trò là trung gian trong thanh toán, ngân hàng bảo vệ quyền lợi của khách
hàng, hướng dẫn về kỹ thuật thanh toán, tạo sự tin tưởng cho khách hàng… nhờ đó

giảm thiểu rủi ro giúp cho quá trình thanh toán được an toàn, nhanh chóng, tiện lợi
7

- Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển thuận lợi sẽ là nhân tố tích cực tác
động trở lại đối với nền sản xuất trong nước, tạo điều kiện đưa đến một cơ cấu sản
xuất hiện đại, năng động hướng về xuất khẩu. Như vậy TTQT gián tiếp tham gia
vào quá trình phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và hiệu quả.
TTQT là một công cụ của Nhà nước nhằm hoạch định các chính sách về hoạt
động ngoại thương.
Hoạt động TTQT của các ngân hàng thương mại (NHTM) có ảnh hưởng trực
tiếp đến lượng ngoại tệ dự trữ của một quốc gia và nếu không được kiểm soát thì có
thể quốc gia đó sẽ lâm vào tình trạng thiếu hụt dự trữ ngoại tệ. Điều đó rất nguy
hiểm đối với nền kinh tế.
Ngân hàng Trung ương kiểm soát hoạt động TTQT thông qua việc theo dõi
và thẩm định các hoạt động TTQT của các NHTM cũng như ban hành các quy định
về hạn mức TTQT của các NHTM và hỗ trợ các NHTM khi cần thiết.
Theo dõi hoạt động TTQT của các NHTM, khi Nhà nước nắm vững được
tình hình TTQT của cả hệ thống NHTM thì sẽ nắm vững được hoạt động xuất nhập
khẩu của nền kinh tế. Từ đó giúp Nhà nước có thể hoạch định các chính sách thích
hợp cho hoạt động xuất nhập khẩu
1.1.3.2. Đối với hoạt động của các NHTM:
Trước hết, TTQT là một trong những hoạt động kinh doanh đem lại doanh
thu cho NHTM. Đối với hoạt động của NHTM, việc hoàn thiện và phát triển hoạt
động TTQT có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, được coi là một trong những hoạt
động kinh doanh của ngân hàng đồng thời nó bổ sung và hỗ trợ cho những mặt hoạt
động khác. TTQT là một hoạt động cung cấp dịch vụ nhằm thu phí của ngân hàng.
Tiền phí thường là một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng giá trị hàng hoá xuất,
nhập khẩu.
Hơn nữa, TTQT góp phần làm tăng lượng vốn huy động của ngân hàng. Ví
dụ, trong quá trình thực hiện các phương thức thanh toán L/C cho khách hàng, đối

với từng loại khách hàng mà ngân hàng sẽ tính một tỷ lệ ký quỹ khác nhau, đó là
một khoản tiền tỷ lệ với giá trị khoản thanh toán. Đây là một nguồn tiền tương đối
8

ổn định, phát sinh thường xuyên và là nguồn vốn có tính thanh khoản cho ngân
hàng dưới hình thức tiền tệ tập trung chờ thanh toán khi chưa đến hạn thanh toán
cho phía nước ngoài. Nguồn vốn ngoại tệ lớn và đa dạng thu được từ hoạt động
TTQT giúp ngân hàng có thêm nguồn vốn phát triển các hoạt động kinh doanh
ngoại tệ, bảo lãnh và các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khác.
Ngoài ra, nhờ đẩy mạnh hoạt động TTQT mà ngân hàng có thể mở rộng hoạt
động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ
quốc tế khác, trên cơ sở đó làm đa dạng sản phẩm của mình.
TTQT giúp ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở
đó nâng cao uy tín của ngân hàng, tạo dựng niềm tin cho khách hàng, thu hút thêm
lượng khách hàng đến giao dịch, điều đó giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt
động nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Hoạt động TTQT giúp ngân hàng nâng cao uy tín của mình trên thị trường
quốc tế, trên cơ sở đó có thể khai thác được nguồn tài trợ của các ngân hàng nước
ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính thế giới.
TTQT tạo môi trường ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại bởi lẽ trong
TTQT tiêu chí nhanh chóng, an toàn, chính xác luôn được quan tâm hàng đầu. Hệ
thống ngân hàng ở bất kỳ một quốc gia nào cho dù có công nghệ ngân hàng hiện đại
đến đâu cũng phải không ngừng đầu tư thích đáng vào công nghệ thông tin, viễn
thông…
1.1.3.3. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
Là chủ thể của tất cả các hình thức thanh toán quốc tế, các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu là những người hưởng lợi trực tiếp từ những lợi ích của hoạt động
TTQT. Thanh toán quốc tế là khâu kết thúc của hoạt động ngoại thương, nếu tất cả
các khâu của quá trình thanh toán quốc tế được thực hiện chính xác, nhanh chóng sẽ
giúp cho nhà nhập khẩu sớm nhận được hàng hoá đã yêu cầu, nhà xuất khẩu sớm

thu hồi được vốn, đẩy nhanh chu trình sản xuất kinh doanh.
Quá trình TTQT ngẫu nhiên được thực hiện qua trung gian là các NHTM,
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ giảm được một phần rủi ro do các NHTM luôn
9

kiểm soát tất cả các khâu trong tiến trình của mỗi nghiệp vụ TTQT. Các doanh
nghiệp có thể tranh thủ vốn và công nghệ của các NHTM khi tham gia thanh toán
quốc tế, với ưu thế về vốn và công nghệ đẩy nhanh quá trình thanh toán thông qua
việc chiết khấu bộ chứng từ, cho vay trực tiếp, thực hiện nhờ thu ở những nơi có
khoảng cách địa lý rất xa…
Ngoài ra, với các doanh nghiệp nhỏ, chưa có uy tín trên thị trường quốc tế,
khó có thể thực hiện được các hợp đồng kinh tế do yêu cầu về uy tín rất cao trong
các hợp đồng quốc tế, họ có thể dựa trên uy tín của các NHTM để ký kết các hợp
đồng kinh doanh.
1.1.4. Các phương thức thanh toán quốc tế:
Trong hoạt động thương mại quốc tế tất yếu sẽ diễn ra hoạt động thanh toán
giữa các bên với nhau. Ngân hàng chính là trung gian trong quá trình thanh toán
này, các mối quan hệ thương mại rất đa dạng do đó đi kèm với nó thì phải có những
phương thức thanh toán khác nhau phù hợp với từng mối quan hệ đó.
Phương thức thanh toán hiểu một cách đơn giản, là một cách thức nhất định
thông qua người mua trả tiền, nhận hàng và người bán nhận tiền và giao hàng.
Sau đây là các phương thức thanh toán chủ yếu được sử dụng trong giao dịch
thương mại quốc tế.
1.1.4.1. Phương thức chuyển tiền (Remittance):
Định nghĩa:
Phương thức chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng (người trả
tiền, người mua, người nhập khẩu…) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số
tiền nhất định cho người hưởng lợi (người cung ứng dịch vụ, người bán…) ở một
địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
Ngân hàng chuyển tiền phải thông qua đại lý của mình ở nước người hưởng

lợi để thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền.



10

Các hình thức chuyển tiền:
Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer Remittance – M/T) là hình thức chuyển
tiền trong đó lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong nội
dung một bức thư mà ngân hàng này gửi cho ngân hàng thanh toán qua bưu điện.
Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer Remittance – T/T) là một hình
thức trong đó lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong một
nội dung một bức thư gửi tới ngân hàng thanh toán thông qua FAX hoặc TELEX
hoặc qua mạng liên lạc viễn thông SWIFT.
Chuyển tiền bằng điện nhanh chóng, ít thất lạc và tránh đọng vốn. Tuy nhiên
chi phí cao. Ngược lại với chuyển tiền bằng điện, chuyển tiền bằng thư lại có chi
phí thấp nhưng lại rất chậm và không an toàn.
1.1.4.2. Phương thức ghi sổ (Open account):
Định nghĩa:
Người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau
khi người bán đã hoàn thành giao hàng hay dịch vụ, đến từng định kỳ (tháng, quý,
nửa năm) người mua trả tiền cho người bán.
Đặc điểm của phương thức ghi sổ:
- Đây là một phương thức không có sự tham gia của các ngân hàng với chức
năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán.
- Chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở tài khoản song biên. Nếu người mua
mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi, không có giá trị thanh
quyết toán giữa hai bên.
- Chỉ có hai bên tham gia thanh toán: người mua và người bán.
1.1.4.3. Phương thức nhờ thu (Collection of payment):

Định nghĩa:
Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán
hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng uỷ thác
cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người
bán ký phát.
11

Các loại nhờ thu:
a) Nhờ thu phiếu trơn (clean collection):
Là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người
mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho
người mua không qua ngân hàng.
Phương thức nhờ thu phiếu trơn không được áp dụng nhiều trong thanh toán
về mậu dịch, vì nó không đảm bảo quyền lợi cho người bán. Việc nhận hàng của
người mua hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh toán, do đó người mua có thể nhận
hàng và không trả tiền hoặc chậm trễ trả tiền. Đối với người mua áp dụng phương
thức này cũng có điều bất lợi, vì nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ hàng hoá thì
người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của người bán có
đúng hợp đồng hay không.
b) Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection):
Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân
hàng thu tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ
chứng từ gửi hàng kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận
trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để
nhận hàng.
Trong nhờ thu kèm chứng từ, người bán uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc
thu hộ tiền còn có việc nhờ ngân hàng khống chế chứng từ vận tải đối với người
mua. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa nhờ thu kèm chứng từ và nhờ thu phiếu trơn.
Với cách khống chế chứng từ này, quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn.
Tuy vậy, nhờ thu kèm chứng từ còn gặp phải một số mặt hạn chế như:

+ Người bán thông qua ngân hàng mới khống chế được quyền định đoạt
hàng hoá của người mua, chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người mua.
Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hoặc có thể
không trả tiền cũng được khi tình hình thị trường bất lợi đối với họ.
12

+ Việc trả tiền nhanh hay chậm phụ thuộc vào thiện chí của người nhập
khẩu. Có nhiều trường hợp thời gian từ lúc giao hàng đến lúc nhận tiền kéo dài vài
tháng hoặc nửa năm.
+ Trong phương thức này ngân hàng chỉ đóng vai trò là người trung gian thu
tiền hộ, còn không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người mua do đó ít đảm bảo
cho người xuất khẩu.
1.1.4.4. Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary credit):
Tín dụng chứng từ là một văn bản thoả thuận, trong đó một ngân hàng
(ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư
tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi số tiền
của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số
tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp
với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng ra đời nhằm đảm bảo quyền lợi
của cả bên xuất khẩu và nhập khẩu. Người mua có thể được đảm bảo về việc giao
hàng trước khi thực hiện thanh toán cho người bán. Người bán có thể thu hồi vốn
sớm và được đảm bảo về việc thanh toán từ phía ngân hàng người nhập khẩu.
Những nội dung cụ thể về phương thức thanh toán L/C người viết xin nêu chi
tiết trong mục 1.3 dưới đây.
1.2. PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN QUỐC TẾ:
1.2.1. Tiền mặt:
Phương tiện này ít được sử dụng trong thanh toán quốc tế, chỉ dùng để thanh
toán các khoản phí dịch vụ nhỏ.
1.2.2. Hối phiếu:

a) Định nghĩa:
Hối phiếu thương mại là một tờ mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện do người
xuất khẩu (người bán, người cung cấp dịch vụ) ký phát đòi tiền người nhập khẩu
(người mua, người sử dụng dịch vụ) yêu cầu người này trả một số tiền nhất định
cho người hưởng lợi ghi trên hối phiếu tại một địa điểm và thời gian nhất định.
13

Tham gia vào việc lập và trả tiền hối phiếu có:
- Người ký phát hối phiếu (Drawer)
- Người trả tiền hối phiếu (Drawee)
- Người hưởng lợi hối phiếu (Beneficiary)
Hối phiếu có thể chuyển nhượng bằng cách ký hậu.
. b) Các văn bản luật điều chỉnh:
- Công ước Geneve 1930 trong đó có ban hành một luật điều chỉnh về hối
phiếu là ULB 1930 (Uniform Law for Bill of Exchange). ULB mang tính chất khu
vực thuộc Châu Âu. Việt Nam áp dụng công ước này từ năm 1937.
- Luật hối phiếu của Anh 1882 (Bill of Exchange Act of 1882)
- Luật thương mại thống nhất Mỹ 1962 (Uniform Commercial Codes-UCC
1962).
Hai văn kiện này mang tính quốc gia.
- Tập quán tiêu chuẩn ngân hàng quốc tế ISBP (International Standard
Banking Practice). Đây là văn bản được toàn thể Uỷ ban ngân hàng thông qua tại
cuộc họp ở Rome 10/2002, giải thích chi tiết hơn các cách áp dụng quy tắc của UCP
trong giao dịch hàng ngày trong đó có các quy định có liên quan đến hối phiếu.
1.2.3. Séc:
a) Định nghĩa:
Séc (Cheque) là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản ra
lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả tiền cho người có tên trong
séc, hoặc trả theo lệnh của người ấy hoặc cho người cầm séc một số tiền nhất định
bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.

Séc được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, du
lịch và các chi trả mậu dịch khác.
Những người có liên quan đến séc:
+ Người phát hành séc
+ Ngân hàng thanh toán
+ Ngưởi hưởng lợi séc
14

Séc có thể chuyển nhượng bằng cách ký hậu.
b) Các văn bản luật điều chỉnh:
Năm 1931, các nước Ý, Pháp, Đan Mạch, Thuỵ Sỹ, Na Uy, Thuỵ Điển, Bồ
Đào Nha đã họp tại Geneve để ký một công ước quốc tế về séc. Công ước Geneve
về séc được áp dụng tại nhiều nước.
1.2.4. Kỳ phiếu:
Ngược lại với hối phiếu, kỳ phiếu do con nợ viết ra để hứa cam kết trả tiền
cho người hưởng lợi. Với tính thụ động trong thanh toán như trên, trong thanh toán
quốc tế, kỳ phiếu ít thông dụng hơn hối phiếu.
Kỳ phiếu là một tờ giấy hứa cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu
phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc theo lệnh của người
này trả cho người khác quy định trong kỳ phiếu đó.
Các điều mà luật dùng để điều chỉnh hối phiếu cũng được áp dụng tương tự
cho kỳ phiếu thương mại. Tuy nhiên, có một số đặc thù sau đây:
+ Kỳ hạn kỳ phiếu được quy định rõ trên nó.
+ Một kỳ phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát để cam kết thanh toán
cho một hay nhiều người hưởng lợi.
+ Kỳ phiếu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty tài chính. Sự bảo
lãnh này đảm bảo khả năng thanh toán của kỳ phiếu.
+ Khác với hối phiếu thường gồm hai bản: số 1 và số 2, kỳ phiếu chỉ có một
bản chính do con nợ phát ra để chuyển cho người hưởng lợi kỳ phiếu đó.
1.3. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG THƯ

(L/C- Letter of credit):
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm về phương thức L/C:
Khái niệm:
Theo định nghĩa trong “Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ”,
bản sửa đổi năm 1993, ấn phẩm số 500 của phòng thương mại quốc tế (UCP 500),
tín dụng chứng từ là:
15

Nhằm mục đích của những điều khoản này, những thuật ngữ “Tín dụng
chứng từ” và “Tín dụng dự phòng” (dưới đây gọi là tín dụng), có nghĩa là bất cứ
một thoả thuận nào, dù cho được gọi hay mô tả như thế nào, theo đó một ngân hàng
(Ngân hàng phát hành) hành động theo yêu cầu và chỉ thị của một khách hàng
(người yêu cầu phát hành tín dụng) hoặc nhân danh chính mình:
Phải thực hiện việc trả tiền theo lệnh của một người thứ ba (người thụ
hưởng), hoặc phải chấp nhận và trả tiền hối phiếu do người thụ hưởng ký phát hoặc
Uỷ quyền cho ngân hàng khác thực hiện việc trả tiền như vậy, hoặc chấp
nhận và trả tiền hối phiếu đó, hoặc:
Uỷ quyền cho ngân hàng khác thực hiện chiết khấu, dựa vào những
chứng từ đã được quy định đảm bảo rằng các điều khoản và điều kiện của tín dụng
đã phù hợp.
Từ định nghĩa trên có thể thấy tín dụng chứng từ thực chất là một sự cam kết
thanh toán chắc chắn có điều kiện, bằng văn bản của ngân hàng phát hành tín dụng
Tín dụng chứng từ là một văn bản thoả thuận, trong đó một ngân hàng (ngân
hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín
dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi số tiền của
thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền
đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với
những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Đặc điểm:
Một là, thư tín dụng thương mại được hình thành trên cơ sở của hợp đồng

thương mại, nhưng sau khi được phát hành nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng.
Đây là tính chất quan trọng của L/C. Tính chất này của L/C được quy định rất chặt
chẽ trong UCP 500 1993 ICC: “Về bản chất, L/C là những giao dịch riêng biệt với
các hoạt động mua bán, hoặc các hợp đồng khác mà các hợp đồng này có thể làm cơ
sở của L/C và các ngân hàng không bị liên can đến, hoặc bị ràng buộc vào các hợp
đồng như thế thậm chí ngay cả trong L/C có bất cứ sự dẫn chiếu nào đến các hợp
đồng đó”. Ngân hàng sẽ dựa trên hợp đồng mua bán và đơn đề nghị mở L/C của
16

khách hàng để phát hành thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng lợi. Tuy nhiên,
một khi L/C đã được phát hành mọi giao dịch thanh toán phát sinh sau đó, ngân
hàng phát hành sẽ chỉ tham chiếu đến L/C chứ không tham chiếu đến hợp đồng mua
bán nữa.
Sau khi người bán cam kết giao hàng nếu xuất trình chứng từ thanh toán phù
hợp với nội dung thư tín dụng sẽ được ngân hàng mở thư tín dụng trả tiền còn bộ
chứng từ đó có phù hợp với hợp đồng hay không ngân hàng không chịu trách
nhiệm. Nếu bộ chứng từ có sai sót, người mua và ngân hàng phát hành thư tín dụng
từ chối trả tiền cho người bán căn cứ vào L/C.
Tính độc lập này cũng thể hiện nghĩa vụ của ngân hàng không thay đổi, nếu
sửa hợp đồng mà không sửa đổi thư tín dụng thì ngân hàng vẫn dựa vào thư tín
dụng để thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình mà không cần biết đến những sửa
đổi trong hợp đồng, hay ngược lại khi thư tín dụng đã được sửa đổi mà không sửa
đổi hợp đồng thì khi xuất trình chứng từ thanh toán tuy phù hợp với hợp đồng
nhưng trái với thư tín dụng, ngân hàng mở có quyền từ chối thanh toán.
Sau cùng tính độc lập của thư tín dụng không hủy bỏ trách nhiệm của ngân
hàng phát hành khi hợp đồng được huỷ bỏ nhưng thư tín dụng vẫn còn hiệu lực.
Hai là, bộ chứng từ hàng hoá là cơ sở nền tảng cho tín dụng thư kèm chứng
từ, qua đó người bán có thể đòi tiền ngân hàng mở thư tín dụng. Bộ chứng từ là căn
cứ duy nhất để ngân hàng phát hành trả tiền hay từ chối thanh toán cho người bán,
đồng thời cũng là căn cứ duy nhất để người mua hoàn trả hay từ chối trả tiền cho

ngân hàng mở thư tín dụng. Như vậy, trong phương thức tín dụng chứng từ, các
chứng từ có tầm quan trọng rất lớn vì nó tượng trưng cho giá trị hàng hoá mà người
bán đã giao và cho phép người mua sử dụng.
Ba là, thư tín dụng là một loại hình dịch vụ cung cấp cho khách hàng, được
đảm bảo bằng các số dư trên các tài khoản ngoại tệ và nội tệ của người mua tại ngân
hàng hoặc bằng các chứng từ có giá trị mà người mua sẽ xuất trình để nhận hàng.
Thư tín dụng chính là văn bản thể hiện ngân hàng dùng uy tín của mình thay mặt
người nhập khẩu cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Tín dụng ở đây được dùng
17

theo nghĩa rộng, nghĩa là một sự tín nhiệm chứ không đơn thuần chỉ là một khoản
vay. Vì nếu nhà nhập khẩu ký quỹ 100% số tiền của thư tín dụng thì thực chất ngân
hàng không cấp một khoản tín dụng nào mà chỉ dựa trên uy tín của mình, cam kết
trả tiền cho nhà xuất khẩu.
Tóm lại, những đặc trưng trên của thư tín dụng đã khiến cho thư tín dụng trở
thành một phương thức thanh toán được sử dụng rộng rãi nhất trong thanh toán
ngoại thương hiện nay.
1.3.2. Chủ thể tham gia trong quá trình thanh toán:
Trong quá trình TTQT theo phương thức L/C có sự xuất hiện của ít nhất 4
chủ thể:
- Người yêu cầu mở thư tín dụng: là người mua, người nhập khẩu.
- Ngân hàng phát hành (còn gọi là ngân hàng mở thư tín dụng): là ngân hàng
phục vụ người mua.
- Người hưởng lợi: là người xuất khẩu, người bán.
- Ngân hàng thông báo: là ngân hàng ở nước người hưởng lợi.
Ngoài các thành phần trên thì trong thực tế vận dụng phương thức tín dụng
chứng từ, tuỳ theo điều kiện cụ thể, còn có thể xuất hiện một số ngân hàng tham gia
quá trình thanh toán như:
- Ngân hàng xác nhận: là ngân hàng được chỉ định trong tín dụng chứng từ,
thực hiện việc xác nhận tín dụng chứng từ theo yêu cầu của ngân hàng phát hành.

- Ngân hàng được chỉ định: là ngân hàng được chỉ định trong thư tín dụng,
cho phép ngân hàng đó thực hiện thanh toán, chiết khấu, hoặc chấp nhận bộ chứng
từ của người thụ hưởng phù hợp với quy định của tín dụng chứng từ.
Trách nhiệm, quyền hạn của các bên tham gia thanh toán tín dụng
chứng từ:
Trách nhiệm, quyền hạn của các doanh nghiệp, thương gia:
- Người nhập khẩu
18

Nếu trong hợp đồng thương mại thoả thuận về điều khoản thanh toán là áp
dụng phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ thì việc mở thư tín dụng của
người mua là điều kiện tiên quyết để người bán thực hiện hợp đồng thương mại.
Muốn mở thư tín dụng, người mua phải lập đơn đề nghị mở tín dụng thư
(thường theo mẫu thống nhất của ngân hàng) gửi tới ngân hàng phục vụ mình.
Người nhập khẩu (NNK) phải ký quỹ một số tiền trong thư tín dụng (tỉ lệ ký
quỹ thường tuỳ theo quan hệ giữa người yêu cầu mở thư và ngân hàng mở; có thể
không phải ký quỹ song cũng có trường hợp phải ký quỹ tới 100% số tiền của thư
tín dụng).
NNK phải trả một khoản thủ tục phí theo tỉ lệ phụ thuộc vào số tiền và thời
hạn của thư tín dụng.
NNK có quyền đề nghị ngân hàng sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ thư tín dụng
theo đúng quy định trong UCP 500.
NNK cũng có quyền từ chối hoàn trả toàn bộ hoặc một phần số tiền của thư
tín dụng cho ngân hàng, nếu xét thấy bộ chứng từ thanh toán không phù hợp với
những điều kiện mà họ nêu ra trong thư tín dụng.
- Người xuất khẩu
Khi nhận được thư tín dụng do ngân hàng thông báo chuyển đến, phải kiểm
tra kỹ lưỡng xem có phù hợp với nội dung của hợp đồng thương mại không. Nếu
phát hiện những nội dung không phù hợp, không rõ ràng và bất lợi cho mình thì
người bán có quyền yêu cầu người mua đề nghị ngân hàng sửa đổi, bổ sung cho phù

hợp.
Người bán chỉ chuyển giao hàng hóa cho người mua sau khi đã có được thư
tín dụng đáp ứng yêu cầu. Sau khi giao hàng, bên bán phải khẩn trương lập bộ
chứng từ thanh toán theo quy định trong thư và xuất trình cho ngân hàng theo thời
hạn hiệu lực của nó .
Người bán sẽ nhận được tiền thanh toán nếu như ngân hàng kiểm tra thấy bộ
chứng từ phù hợp về hình thức và nội dung như trong thư tín dụng.
Trách nhiệm, quyền hạn của các ngân hàng:
19

- Ngân hàng mở thư tín dụng (Issuing bank)
Ngân hàng mở L/C là ngân hàng thường được hai bên mua bán thoả thuận
lựa chọn và quy định trong hợp đồng, nếu chưa có sự quy định trước thì người nhập
khẩu có quyền lựa chọn.
Căn cứ vào đơn xin mở L/C của người nhập khẩu để phát hành L/C và tìm
cách thông báo L/C đó cùng với việc gửi bản gốc L/C cho người xuất khẩu thông
qua ngân hàng đại lý của ngân hàng mở ở nước người xuất khẩu.
Sửa đổi, bổ sung những yêu cầu của người xin mở L/C hoặc của người xuất
khẩu đối với L/C đã được mở nếu có sự đồng ý của họ.
Kiểm tra bộ chứng từ của người xuất khẩu gửi đến, nếu xét thấy các chứng từ
đó phù hợp với những điều quy định trong L/C và không mâu thuẫn lẫn nhau thì trả
tiền cho người xuất khẩu và đòi lại tiền người nhập khẩu, ngược lại thì từ chối thanh
toán.
Ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm kiểm tra bề ngoài của chứng từ xem có phù
hợp với L/C hay không chứ không chịu trách nhiệm về kiểm tra tính chất pháp lý
của chứng từ, tính chất xác thực của chứng từ… Mọi sự tranh chấp về tính chất bên
trong của chứng từ là do người nhập khẩu và người xuất khẩu tự giải quyết.
Ngân hàng được miễn trách nhiệm trong trường hợp ngân hàng rơi vào các
bất khả kháng như chiến tranh, đình công, nổi loạn, động đất… Nếu L/C hết hạn
giữa lúc đó, ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm thanh toán những bộ chứng từ

gửi đến trừ khi đã có quy định dự phòng.
Mọi hậu quả sinh ra do lỗi lầm của mình, ngân hàng mở L/C phải chịu trách
nhiệm.
Ngân hàng được hưởng một khoản thủ tục phí mở L/C.
- Ngân hàng thông báo (Advising bank)
Ngân hàng thông báo thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C ở
nước người xuất khẩu.
20

Khi nhận được thông báo về thư tín dụng đã mở và bản gốc của thư tín dụng
đó ngân hàng có trách nhiệm phải chuyển toàn bộ nội dung L/C đã nhận được do
người xuất khẩu dưới hình thức văn bản.
Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức điện đó,
chứ không chịu trách nhiệm phải dịch, diễn giải các từ chuyên môn ra tiếng địa
phương.
Khi nhận được bộ chứng từ của bên bán gửi tới, phải chuyển ngay và nguyên
vẹn bộ chứng từ đó đến ngân hàng mở.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh do sự chậm
trễ hoặc mất mát chứng từ trên đường đi đến ngân hàng mở.
- Ngân hàng trả tiền (Paying bank)
Ngân hàng trả tiền có thể là ngân hàng mở thư tín dụng hoặc một ngân hàng
khác do ngân hàng mở uỷ nhiệm. Nếu địa điểm trả tiền được quy định tại nước
ngoài thì ngân hàng trả tiền thường là ngân hàng thông báo.
Trách nhiệm của ngân hàng trả tiền giống như ngân hàng mở khi nhận được
bộ chứng từ thanh toán của người bán chuyển đến.
- Ngân hàng xác nhận (Cofirming bank)
Ngân hàng xác nhận thường là một ngân hàng lớn, có uy tín trong lĩnh vực
tài chính quốc tế.
Ngân hàng xác nhận có trách nhiệm thanh toán tiền trong thư tín dụng cho
người thụ hưởng.

Ngân hàng xác nhận được hưởng khoản phí xác nhận khá cao và thường yêu
cầu ngân hàng mở phải đặt tiền trước (cash cover), có khi tới 100% trị giá của thư
tín dụng cần xác nhận (full cash cover).
1.3.3. Nội dung của thư tín dụng:
1.3.3.1. Số hiệu, địa điểm, ngày mở L/C:
- Số hiệu của thư tín dụng: Số hiệu dùng để trao đổi thư từ, điện tín có liên
quan tới việc thực hiện L/C. Tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu riêng. Số
21

hiệu của L/C còn được dùng để ghi vào các chứng từ có liên quan như hối phiếu,
các chứng từ cần thiết khác.
- Địa điểm mở L/C: là nơi ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất
khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa trong việc lựa chọn luật pháp áp dụng khi xảy ra
tranh chấp nếu có xung đột pháp luật về L/C đó.
- Ngày mở L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở L/C với
người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C, là căn cứ để kiểm
tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có đúng hạn như trong hợp đồng đã
quy định không.
1.3.3.2. Tên, địa chỉ những người có liên quan:
- Các thương nhân: bao gồm người nhập khẩu (người yêu cầu mở L/C),
người xuất khẩu (người hưởng lợi).
- Các ngân hàng tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ: ngân hàng
mở L/C, ngân hàng thông báo. ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận, và các ngân
hàng khác (nếu có).
1.3.3.3. Số tiền của L/C:
Số tiền trên thư tín dụng vừa được ghi bằng số vừa được ghi bằng chữ và
thống nhất với nhau, tên của đơn vị tiền tệ phải được ghi rõ ràng.
Trong trường hợp giao hàng rời hoặc hàng có biến động về giá, trên thư tín
dụng không nên ghi số tiền tuyệt đối vì người xuất khẩu khó có thể giao hàng đúng
giá trị như L/C quy định, khi đó khó có thể được thanh toán vì ngân hàng sẽ đưa ra

lý do chứng từ không phù hợp với những điều kiện quy định trong L/C. Nên ghi số
tiền theo một số giới hạn mà người xuất khẩu có thể đạt được hoặc một giới hạn
chênh lệch hơn kém % của tổng số tiền.
1.3.3.4. Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền, thời hạn giao hàng:
- Thời hạn hiệu lực của L/C: là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả
tiền cho nhà xuất khẩu, nếu người này xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và
phù hợp với những điều kiện quy định trong L/C. Thời hạn này tính từ ngày mở L/C
đến ngày hết hiệu lực của L/C. Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn này và
22

không trùng với ngày hết hạn hiệu lực của L/C. Ngày mở L/C phải trước ngày giao
hàng một thời gian hợp lý, không trùng với ngày giao hàng, nhằm đảm bảo thời
gian thông báo L/C, lưu L/C tại ngân hàng, chuẩn bị để giao… Ngày hết hạn hiệu
lực của L/C phải sau ngày giao hàng một thời gian hợp lý nhằm đảm bảo thời gian
lập bộ chứng từ, luân chuyển chứng từ, lưu chứng từ tại ngân hàng
- Thời hạn trả tiền của L/C: là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền về sau, tuỳ
thuộc vào hợp đồng. Nếu thực hiện đòi tiền bằng hối phiếu thì thời hạn trả tiền được
quy định ở yêu cầu ký phát hối phiếu.
- Thời hạn giao hàng: được ghi trong L/C và do hợp đồng mua bán quy
định. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C.
1.3.3.5. Chữ ký của ngân hàng mở L/C:
Thư tín dụng thực chất là một khế ước dân sự, do vậy, người ký phải là
người có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực pháp lý để tham gia và thực hiện quan
hệ này.
Nếu mở L/C bằng thư, chữ ký trên ấn chỉ L/C phải đúng với chữ ký đã được
thông báo cho nhau giữa hai ngân hàng mở L/C và ngân hàng thông báo L/C.
Nếu mở L/C bằng điện, thay vì chữ ký nói trên việc xác thực ngân hàng phát
hành được thực hiện bằng mã ngân hàng (thường là SWIFT CODE).
1.3.3.6. Quy trình nghiệp vụ thanh toán theo phương thức L/C:


Ngân hàng mở L/C
(Issuing Bank)
Ngân hàng thông báo
L/C
(Advising Bank)
Người xuất khẩu
(Beneficiary)
Người nhập khẩu
(Applicant)
(2)

(5)

(6)

(6)

(5)

(3)

(4)

(1)

(7)

(8)

23


(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng của
mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng;
(2) Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập
một thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu
thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu;
(3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho
người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó, và khi
nhận được bản gốc thư tín dụng, thì chuyển ngay cho người xuất khẩu;
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu
không thì tiến hành đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng sửa đổi, bổ sung thư tín
dụng cho phù hợp với hợp đồng;
(5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư
tín dụng xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở thư tín dụng
xin thanh toán;
(6) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với
thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu thấy không phù hợp,
ngân hàng từ chối thanh toán và gửi lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu;
(7) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ
chứng từ cho người nhập khẩu sau khi nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán;
(8) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng
thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu thấy không phù hợp thì có quyền từ chối trả
tiền.
1.3.4. Phân loại L/C:
1.3.4.1. Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable Letter of Credit):
Thư tín dụng có thể huỷ ngang là loại thư tín dụng mà sau khi đã được mở,
ngân hàng mở và người nhập khẩu có quyền tự ý thay đổi, bổ sung và huỷ bỏ bất cứ
lúc nào mà không cần sự chấp thuận của người xuất khẩu. Trong trường hợp có sự
tham gia của ngân hàng đại lý thì việc sửa đổi hay huỷ bỏ sẽ có hiệu lực khi ngân
hàng đại lý nhận giấy báo về việc đó và trước khi ngân hàng đại lý trả tiền cho

24

người bán. Điều này đồng nghĩa với việc khi hàng hoá đó được giao, lệnh huỷ bỏ
mới được thông báo thì lệnh này cũng coi như không có hiệu lực.
Loại thư tín dụng này không tạo ra cam kết có tính chất pháp lý về việc thanh
toán của ngân hàng, vì vậy quyền lợi của người xuất khẩu không được đảm bảo. Do
đó, loại thư tín dụng này ít được sử dụng.
1.3.4.2. Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable Letter of Credit):
Là loại thư tín dụng sau khi đã được mở và người xuất khẩu thừa nhận thì
ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ trong thời hạn hiệu
lực của L/C, trừ khi có sự thoả thuận của các bên tham gia trong thư tín dụng. Trên
thư tín dụng phải ghi rõ ràng hoặc là không thể huỷ bỏ hoặc là có thể huỷ bỏ. Nếu
thư tín dụng không ghi rõ thì vẫn được coi là không thể huỷ ngang (Điều 6-UCP
500).
Thư tín dụng không thể huỷ ngang được áp dụng rộng rãi trong thanh toán
hàng hoá, dịch vụ xuất nhập khẩu.
1.3.4.3. Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirmed
Irrevocable Letter of Credit):
Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được một ngân hàng khác xác
nhận đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C. Loại thư tín dụng này
được dùng trong trường hợp người hưởng lợi không tin tưởng vào ngân hàng mở
L/C. Ngân hàng xác nhận có trách nhiệm như ngân hàng mở L/C, chịu trách nhiệm
trả tiền cho người bán nếu ngân hàng mở L/C không trả được tiền, do đó, thường
ngân hàng mở L/C phải trả thủ tục phí xác nhận, có thể ký quỹ tối đa 100% giá trị
L/C tại ngân hàng xác nhận.
Thư tín dụng loại không thể huỷ ngang có xác nhận đảm bảo nhất cho người
xuất khẩu vì họ được hai ngân hàng đứng ra cam kết thanh toán tiền hàng hoá xuất
khẩu.



25

1.3.4.4. Thư tín dụng không thể huỷ ngang, miễn truy đòi (Irrevocable
without recouse Letter of Credit):
Là loại thư tín dụng mà sau khi người xuất khẩu được trả tiền ngân hàng mở
L/C không có quyền đòi lại tiền người xuất khẩu trong bất cứ trường hợp nào. Khi
sử dụng loại L/C này, trên hối phiếu người xuất khẩu phải ghi miễn truy đòi người
ký phát và trong L/C cũng phải được ghi như vậy. Loại L/C này được sử dụng khá
phổ biến trong thanh toán xuất nhập khẩu.
1.3.4.5. Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable Letter of Credit):
Thư tín dụng chuyển nhượng là một loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ,
trong đó quy định của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu chuyển nhượng toàn
bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác. Một L/C
chuyển nhượng chỉ có thể chuyển nhượng một lần. Thủ tục phí và lệ phí chuyển
nhượng thường do người thứ nhất chịu. Đây là loại thư tín dụng sử dụng trong
trường hợp người hưởng lợi thứ nhất không tự cung cấp được mà chỉ là một người
môi giới và người này muốn chuyển nhượng từng phần hay toàn bộ quyền lợi và
nghĩa vụ của mình cho người cung cấp hàng hoá. Việc chuyển nhượng phải được
thực hiện theo điều khoản của L/C gốc.
1.3.4.6. Thư tín dụng tuần hoàn (Irrevocable Revolving L/C):
Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ sau khi đã sử dụng xong hoặc đã hết
thời hạn hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ, và nó tuần hoàn cho đến khi
nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện hết.
Loại L/C này có ba cách tuần hoàn: tuần hoàn tự động (có giá trị như cũ
không cần có thông báo của ngân hàng mở L/C cho người xuất khẩu); tuần hoàn
bán tự động (nếu ngân hàng mở L/C không có ý kiến về L/C kế tiếp sau khi L/C
trước hết hiệu lực thì L/C này lại tự động có giá trị như cũ); tuần hoàn hạn chế (chỉ
khi ngân hàng mở L/C thông báo cho người xuất khẩu biết thì L/C kế tiếp mới có
giá trị).
Thư tín dụng tuần hoàn được sử dụng khi các bên tin cậy lẫn nhau, mua hàng

thường xuyên, định kỳ, khối lượng lớn và trong dài hạn.

×