Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Tình hình lạm phát của Trung Quốc(2007-2011)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.19 KB, 41 trang )

Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
A, MỞ ĐẦU.
I, Tên đề tài:
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011).
II, Lý do nghiên cứu.
Lạm phát là vấn đề kinh tế dễ gây ra những bất ổn xã hội nhất mà lịch sử kinh tế
được chứng kiến. Đây là vấn nạn với nhiều nước trên thế giới trong vài năm trở lại
đây (2007-2011), kiềm chế lạm phát cũng trở thành quan tâm thường trực của
Trung Quốc. Tìm ra nguyên nhân và đối phó với lạm phát là những gì mà chính
phủ Trung Quốc đang cố gắng để giải thoát khỏi sự leo thang về giá cả nhằm mục
tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.
III, Mục tiêu nghiên cứu.
Nghiên cứu về lạm phát để nắm vững được tình hình phát triển kinh tế hiện nay
của Trung Quốc, chính sách bình ổn kinh tế vĩ mô, những biện pháp mà Trung
Quốc đã thực hiện để kiềm chế lạm phát, cũng như hiệu quả mà các biện pháp này
đem lại.
IV, Giả thuyết nghiên cứu.
Trung Quốc hiện là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới, với chỉ số tăng trưởng kinh
tế cao, đặc biệt là kể từ sau năm 2007, kinh tế Trung Quốc phát triển thần kì với
chỉ số tăng trưởng 11,4%, tuy nhiên kéo theo đó là những bất ổn về kinh tế, trong
đó có lạm phát. Đối mặt với lạm phát, Trung Quốc liên tục nâng cao lãi suất, cố
định tỷ giá của đồng nhân dân tệ so với đồng USD...Lạm phát nhờ đó đã dịu hơn
trước, tuy nhiên hệ quả mà những giải pháp ấy mang lại là sự khó khăn cho các
doanh nghiệp nhỏ trong nước. Các doanh nghiệp này khó khăn trong việc vay
vốn...
V, Luận cứ.
Luận cứ lý thuyết:
Khái niệm về lạm phát, phân loại lạm phát, nguyên nhân, tác động của lạm
phát.
1
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)


Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Luận cứ thực tế :
Tình hình lạm phát của Trung Quốc từ năm 2007-2011.
Năm 2007 : Kinh tế Trung Quốc phát triển thần kì với chỉ số tăng trưởng GDP
11,4% cao nhất trong 13 năm qua kéo theo chỉ số lạm phát cao.
Năm 2008 : Khủng hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Trung
Quốc, lạm phát tiếp tục tăng.
Năm 2009,2010,1011 sau khủng hoảng có những chuyển biến nhất định sau những
giải pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ.
Trung Quốc đối mặt với lạm phát bằng hàng loạt những giải pháp tạm thời
và kế hoạch lâu dài.
VI, Phương pháp nghiên cứu.
Để người đọc có những nhận thức rõ ràng nhất về lạm phát của Trung Quốc, bài
viết đã sử dụng các biện pháp chủ yếu là : Thống kê, thu thập dữ liệu, phân tích,
giải thích, tổng hợp.
B, NỘI DUNG.
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA TRUNG QUỐC (2007-2011)
CHƯƠNG I : CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT.
1.1.Định nghĩa về lạm phát.
Trong kinh tế học, “Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của
nền kinh tế” (PTS.Nguyễn Văn Luân - PTS.Nguyễn Tiến Dũng, Th.S Nguyễn Chí
Hải, NXB Thống Kê, 223). Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị
trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì
lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông
thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong
phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là
lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng
2
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ

mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ
số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự "ổn định giá cả".
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các
nhà kinh tế. Trong mỗi công trình của mình các nhà kinh tế đã đưa ra các khái
niệm về lạm phát.
Theo Các Mác trong bộ tư bản: lạm phát là việc làm tràn đầy các kênh, các luồng
lưu thông những tờ giấy bạc thừa dẫn đến giá cả tăng vọt.
Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: lạm phát là biểu thị một sự tăng lên của
mức giá chung. Theo ông: “lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí
tăng – giá bánh mỳ, dầu xăng, xe ô tô; tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản
xuất tăng”.
Milton Friedmen thì quan niệm: “ lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài”.
Ông cho rằng lạm phát luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Ý kiến
đó của ông đã được đa số các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes tán
thành.
Để đo chỉ số lạm phát người ta dựa vào các chỉ số sau:
Chỉ số giá sinh hoạt (CLI) : Là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá
nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một
cách xấp xỉ.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) : Đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu
dùng thông thường" một cách có lựa chọn.
Chỉ số giá sản xuất (PPI) : Đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính
đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu.
Chỉ số giá bán buôn : Đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông
thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với
PPI.
Chỉ số giá hàng hóa : Đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có
lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là
3
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)

vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và
bạc.
Chỉ số giảm phát GDP : Dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó
là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của
năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP
thực).
Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI) .
1.2. Phân loại lạm phát:
Lạm phát phân theo mức độ gồm có:
Thiểu phát: Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một
vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm
phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài
liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống
được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân
hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-
4 phần trăm một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp đến
mức được coi là thiểu phát.
Lạm phát thấp: Còn gọi là lạm phát một con số. Mức lạm phát tương ứng với tốc
độ tăng giá từ 0.3 đến dưới 10 phần trăm một năm. Trong thời kỳ này, nền kinh tế
hoạt động bình thường, đời sống của người dân ổn định. Sự ổn định đó được biểu
hiện là giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi và tiền vay không tăng cao, không xảy ra
tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn…Có thể nói lạm phát vừa
phải tạo tâm lý yên tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời
gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro.
Lạm phát cao( Lạm phát phi mã) : Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá
trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã,
nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Nhìn chung lạm phát thì phi mã được duy trì
trong thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh
đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu
vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa,

4
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm
phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.
Siêu lạm phát : Siêu lạm phát là tình trạng lạm phát cao, có tác động phá hoại nền
kinh tế nghiêm trọng. Thông thường, tốc độ tăng giá chung ở mức 3 chữ số
hàng năm thì gọi là siêu lạm phát. Còn Gregory N. Mankiw cho rằng khi lạm phát
ở mức trên 50% mỗi tháng thì chính là siêu lạm phát. Khi có siêu lạm phát, tiền
mất giá nghiêm trọng, và lượng cầu về tiền tệ giảm đi đáng kể. Trong các nền kinh
tế từng trải qua siêu lạm phát có Đức thời kỳ 1922-1923.
Căn cứ vào định tính:
Bao gồm lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động
,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó
không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền
kinh tế nói chung.
Lạm phát không cân bằng : Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao
động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra .
Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì
tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự
đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý ,người dân đã
quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh
hưởng đến đời sống , đến kinh tế .
Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện .Loại lạm
phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi .Từ
đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của
nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút.
Căn cứ theo nguồn gốc:
Lạm phát do cầu kéo

5
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
Nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra
lạm phát.
Lạm phát do chi phí đẩy
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp
tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá
thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
1.3. Tác động của lạm phát.
Đối với một nền kinh tế, chỉ số lạm phát ở mức quá cao hay quá thấp đều gây đến
tổn hại nghiêm trọng, làm trì trệ quá trình phát triển kinh tế. Nói như vậy thì để có
một nền kinh tế phát triển bền vững cần có chỉ số lạm phát ở mức ổn định, đủ để
kích thích sự phát triển của nền sản xuất, đảm bảo cân bằng giữa cung và cầu.
Lạm phát có 2 hiệu ứng là tích cực và tiêu cực:
Trước hết là hiệu ứng tích cực:
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá
mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn"
để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí
thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này
khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ
thất nghiệp sẽ giảm.
Hiệu ứng tiêu cực:
Đối với lạm phát dự kiến được :
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào
nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất
cho xã hội:
Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi
suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho
người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến
ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày"

để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người
ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
6
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ
mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm
phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn
doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn
thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh
nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương
đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn
của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví
dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập
danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh
lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo
trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì
vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
Đối với lạm phát không dự kiến được :
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các
cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên
lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn
người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được
lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao
hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực
của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là
không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức

vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc
phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do
vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
1.4. Các nguyên nhân gây ra lạm phát :
Lạm phát bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
7
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
Thứ nhất là lạm phát có thể xảy ra do tác động chủ quan của hệ thống tiền tệ-tín
dụng-ngân hàng, bất cứ một sự biến đổi nhỏ nào của hệ thống này đều có tác
động hoặc tăng hoặc giảm tỉ lệ lạm phát.
Thứ hai là lạm phát cũng chịu ảnh hưởng của một số điều kiện khách quan khác
như chính trị xã hội,thiên tai bão lụt, tình trạng thất nghiệp,nền sản xuất..Do chịu
nhiều tác động của nhiều yếu tố trong nền kinh tế như vậy nên hiện tượng lạm
phát diễn biến hết sức phức tạp đòi hỏi trong quá trình tăng trưởng và chống lạm
phát có chiến lược đúng đắn để lạm phát luôn nằm trong quỹ đạo mà nền kinh tế
có thể kiểm soát được.
Lạm phát xuất hiện cũng gây ra nhiều hậu quả đến kinh tế như bất kì một biến cố
hại nào khác : nạn thất nghiệp, nạn thiên tai lạm phát tàn phá kinh tế, nó không
những làm suy giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính mà còn tác động
trực tiếp đến đời sống chính trị ,văn hoá, xã hội và sinh hoạt bình thường của
người dân. Bằng chứng là cuộc khủng hoảng ở Đức xảy ra dữ dội vào những năm
đầu thế kỷ, ở các nước phát triển những năm 70 và mới đây là ở Nga. Đặc biệt là
hậu quả lạm phát rất trầm trọng ở các nước đang phát triển với nền kinh tế chưa
đủ sức hạn chế có hiệu quả sự lây lan của lạm phát.
Tổng quan từ các yếu tố trên có thể đưa ra một số nguyên nhân chính của
lạm phát là:
Lạm phát do cầu kéo.
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao
động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường
AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản

lượng cùng tăng.

p
AS

P1

8
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
P2
AD2

AD1
Y
Để đạt mục tiêu tăng trưởng, chính phủ sử dụng biện pháp kích cầu, kích thích nhu
cầu tiêu dùng của người dân, làm cho đường cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2,khi
đó sản lượng tiêu dùng gia tăng,tăng tốc độ tăng trưởng đồng thời giá tăng dấn đến
lạm phát.
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung,
người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do
đó có lạm phát.
Lạm phát do cầu thay đổi.
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng
khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính
chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà
lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì
lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
Lạm phát do chi phí đẩy.
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các
xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm.

Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
Ví dụ dễ nhìn thấy nhất là do một cú sốc cung nào đó mà làm cho nguồn cung khan
hiếm hay giá nguyên liệu đầu vào đột ngột tăng lên làm cho mức giá chung của cả
nền kinh tế tăng lên tức thì.
Lạm phát do cơ cấu.
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động.
Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho
người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh
doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
Lạm phát do xuất khẩu.
9
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy
động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm
khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu
mất cân bằng.
Lạm phát do nhập khẩu.
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập
khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết
định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó
trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu
đội lên.
1.5. Các biện pháp chủ yếu để kiềm chế lạm phát.
Kiềm chế lạm phát còn gọi là giảm lạm phát. Có một loạt các phương thức để kiềm
chế lạm phát. Các ngân hàng trung ương như Cục dự trữ liên bang Mỹ có thể tác
động đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua việc thiết lập các lãi suất và
thông qua các hoạt động khác (ví dụ: sử dụng các chính sách tiền tệ). Các lãi suất
cao (và sự tăng chậm của cung ứng tiền tệ) là cách thức truyền thống để các ngân
hàng trung ương kiềm chế lạm phát, sử dụng thất nghiệp và suy giảm sản xuất để
hạn chế tăng giá.

Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương xem xét các phương thức kiểm soát lạm phát
rất khác nhau. Ví dụ, một số ngân hàng theo dõi chỉ tiêu lạm phát một cách cân
xứng trong khi các ngân hàng khác chỉ kiểm soát lạm phát khi nó ở mức cao.
Những người theo chủ nghĩa tiền tệ nhấn mạnh việc tăng lãi suất bằng cách giảm
cung tiền thông qua các chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Những người theo
học thuyết Keynes nhấn mạnh việc giảm cầu nói chung, thông thường là thông qua
các chính sách tài chính để giảm nhu cầu. Họ cũng lưu ý đến vai trò của chính sách
tiền tệ, cụ thể là đối với lạm phát của các hàng hóa cơ bản từ các công trình nghiên
cứu của Robert Solow. Các nhà kinh tế học trọng cung chủ trương kiềm chế lạm
phát bằng cách ấn định tỷ giá hối đoái giữa tiền tệ và một số đơn vị tiền tệ tham
chiếu ổn định như vàng, hay bằng cách giảm thuế suất giới hạn trong chế độ tỷ giá
thả nổi để khuyến khích tích lũy vốn. Tất cả các chính sách này đã được thực hiện
trong thực tế thông qua các tiến trình.
Một phương pháp khác đã thử là chỉ đơn giản thiết lập lương và kiểm soát giá cả
(xem thêm "Các chính sách thu nhập"). Ví dụ, nó đã được thử tại Mỹ trong những
năm đầu thập niên 1970 (dưới thời tổng thống Nixon). Một trong những vấn đề
chính với việc kiểm soát này là nó được sử dụng vào thời gian mà các biện pháp
kích "cầu" được áp dụng, vì thế các giới hạn phía cung (sự kiểm soát, sản xuất tiềm
10
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
năng) đã mâu thuẫn với sự tăng trưởng của "cầu". Nói chung, phần lớn các nhà
kinh tế coi việc kiểm soát giá là phản tác dụng khi nó có xu hướng làm lệch lạc các
hoạt động của nền kinh tế vì nó làm gia tăng thiếu thốn, giảm chất lượng sản phẩm
v.v. Tuy nhiên, cái giá phải trả này có thể là "đáng giá" nếu nó ngăn chặn được sự
đình đốn sản xuất nghiêm trọng, là điều có thể có đắt giá hơn, hay trong trường
hợp để kiểm soát lạm phát trong thời gian chiến tranh.
Trên thực tế, việc kiểm soát có thể bổ sung cho đình đốn sản xuất như là một cách
để kiềm chế lạm phát: Việc kiểm soát làm cho đình đốn sản xuất có hiệu quả hơn
như là một cách chống lạm phát (làm giảm sự cần thiết phải tăng thất nghiệp),
trong khi sự đình đốn sản xuất ngăn cản các loại hình lệch lạc mà việc kiểm soát

gây ra khi "cầu" là cao.
1.6. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai mặt của xã hội , là hai vấn đề kinh tế trong
nền kinh tế . Lạm phát có thể coi là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế nhưng đó lại là
hai vấn đề luôn tồn tại song song với nhau .
Trong thực tế , không một quốc gia nào dù phát triển đến đâu cũng không tránh
khỏi lạm phát . Bất cứ một nền kinh tế của quốc gia nào đều cũng đã trải qua các
cuộc khủng hoảng kinh tế và tỷ lệ lạm phát tăng với những quy mô khác nhau . Tỷ
lệ lạm phát tăng cao sẽ đẩy giá cả hàng hoá chung tăng lên mà tiền lương danh
nghĩa của các công nhân không tăng do đó tiền lương thực tế của họ sẽ giảm đi. Để
tồn tại các công nhân sẽ tổ chức đấu tranh , bãi công đòi tăng lương và cho sản
xuất trì trệ , đình đốn khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn , tốc độ tăng
trưởng kinh tế giảm.Khi nền kinh tế găp khó khăn , suy thoái sẽ làm thâm hụt ngân
sách và đó là điều kiện , nguyên nhân gây ra lạm phát . Khi lạm phát tăng cao gây
ra siêu lạm phát làm đồng nội tệ mất giá rất nhanh , khi đó người dân sẽ ồ ạt bán
nội tệ để mua ngoại tệ . Tệ nạn tham nhũng tăng cao , nạn buôn lậu phát triển mạnh
tình trạng đầu cơ trái phép tăng nhanh , trốn thuế và thuế không thu được đã gây ra
tình trạng nguồn thu của nhà nước bị tổn hại nặng nề càng làm cho thâm hụt ngân
sách trầm trọng dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao.
Thêm nữa, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế vì làm giảm
năng suất lao động. Lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua
giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự
phân bổ các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực
tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng
giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất. Hàm lượng
thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi kể cả trong thời kỳ lạm phát ổn
11
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
định.
Tuy nhiên, không ít người lại lập luận rằng lạm phát ở một mức nhẹ lại có tác dụng

tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học nổi tiếng Tobin cho
rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái phân bổ danh mục đầu tư của mình từ tiền
sang chứng khoán, làm giảm lãi suất thực tế và do đó làm tăng đầu tư và nâng cao
năng suất lao động. Ông lập luận thêm rằng “một chút lạm phát giúp bôi trơn nền
kinh tế” vì nó giúp thị trường lao động điều chỉnh cho phù hợp. Một số khác cũng
chỉ ra rằng nhu cầu tăng lên ổn định sẽ gây ra lạm phát ở mức nhẹ, là cái mà thực
ra lại làm tăng, chứ không phải giảm, năng suất lao động và, do đó, tăng tốc độ
tăng trưởng.
Vì thế, động thái nhằm đạt mức lạm phát bằng 0 chẳng qua là chính sách trả trước
ngay bây giờ cho nhiều thiệt hại hơn sau này.
Từ một khía cạnh khác, một số người cho rằng lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc của lạm phát trong
tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất trắc của lạm phát càng
cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều này bởi vì nhà sản xuất khai
thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên thị trường – thông tin có được của
người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản xuất – để tăng biên độ lợi nhuận, do đó
làm tăng doanh thu kể cả cho những nhà sản xuất không thật sự hiệu quả.
Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới những nhà sản xuất không hiệu quả như
vậy sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng. Nhưng ngược lại với dòng lập luận này, một
số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính bất trắc của lạm phát lại có tác động tích cực đến
tăng trưởng, nhờ vào động thái tăng tiết kiệm để phòng ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ
ra thêm rằng trên thực tế, quan hệ nhân quả giữa hai biến số này là không nhất
quán ở từng trường hợp nghiên cứu quốc gia. Như vậy có thể nói rằng về lý luận,
quan hệ nhân quả giữa lạm phát với năng suất lao động và/hoặc tăng trưởng chưa
hoàn toàn sáng tỏ.
Thực tế, kết quả nghiên cứu thực chứng trong nhiều nghiên cứu cấp quốc gia và
nhóm quốc gia cũng chỉ ra một quan hệ phức tạp giữa 2 nhóm biến số này. Các
nghiên cứu thực chứng ban đầu chỉ tập trung vào nhóm G7, hoặc các nước trong tổ
chức OECD, và kết quả nghiên cứu không chỉ ra được một kết luận rõ ràng về
quan hệ này. Tùy theo dữ liệu sử dụng là chuỗi thời gian (cho trường hợp nghiên

cứu từng quốc gia cụ thể), hay dữ liệu cho nhóm quốc gia sẽ có các kết quả đối
ngược nhau.
Về sau này, một số tác giả bắt đầu nghiên cứu thêm nhóm các nước ở châu Á. Kết
quả nghiên cứu cũng không khác mấy so với kết quả từ các nghiên cứu trước đó
đối với nhóm OECD hay G7. Cụ thể, ở một số nước như Nhật, Thái Lan, Sri
12
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
Lanca, Philippines, và Indonesia, lạm phát và năng suất không hề có quan hệ gì với
nhau. Ở một số nước khác như Malaysia, lạm phát có tác động tiêu cực đến năng
suất. Ở những nước như Hàn Quốc, Ấn Độ, và Singapore, 2 biến số này tác động
lẫn nhau.
Theo nghiên cứu của một số nhà kinh tế học thì lạm phát và tăng trưởng có mối
quan hệ phi tuyến tính:
Lạm phát chỉ tác động tiêu cực lên tăng trưởng khi đạt ngưỡng nhất định nào đó
(threshold).
Dấu hiệu bất ổn kinh tế vĩ mô.
Tăng sự không chắc chắn của các hoạt động đầu tư.
Lạm phát làm thay đổi giá cả tương đối,làm méo mó quá trình phân bổ
nguồn lực.
Lạm phát còn được xem như là một loại thuế đánh vào nền kinh tế.
Ở mức dưới ngưỡng, lạm phát không nhất thiết tác động tiêu cực lên tăng trưởng,
thậm chí có thể tác động dương như lý thuyết của Keynes.
Có thể thấy mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát qua hình sau:
Lãi suất Mức giá
MS1 MS2 P2
R1
P1 AD2
R2
AD AD1
Lượng tiền y1 y2 Y

Khi ngân hàng Trung ương tăng lượng cung tiền MS1 lên MS2, lãi suất giảm từ R1
13
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
xuống R2, khi lãi suất giảm, đầu tư tăng dẫn đến làm cho tổng cầu tăng kéo theo
sản lượng tăng từ đó dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Nhưng theo đó giá cả cũng tăng
lên dẫn đến lạm phát.
CHƯƠNG II : TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA TRUNG
QUỐC (2007-2011).

Chiến lược của Trung Quốc là phát triển nền kinh tế vĩ mô để đáp ứng các nhu cầu
về nhà ở, sinh hoạt, môi trường sống… sự gia tăng dân số nhanh chóng. Trung
Quốc đã không ngừng đặt ra các kế hoạch và mục tiêu để thúc đẩy nền kinh tế phát
triển vượt bậc và kết quả là nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng thần kì với mức
tăng trưởng kinh tế 11,4% năm 2007, mức cao kỷ lục trong 13 năm qua, lên gần
24.662 tỷ nhân dân tệ (tương đương 4.430 tỷ USD), Tuy nhiên do tăng trưởng quá
nóng đã đẩy tỷ lệ lạm phát lên cao.
2.1.Tình hình lạm phát của Trung Quốc qua các năm từ 2007 đến 2011:
2.1.1 Tình hình lạm phát của Trung Quốc năm 2007.
Năm 2007 là năm đánh dấu sự phát triển thần kì của nền kinh tế Trung Quốc. Mức
tăng trưởng cao nhất đạt 11,4 %. Nhưng Trung Quốc lại phải đối mặt với sự leo
thang của chỉ số lạm phát, hệ quả mà sự phát triển kinh tế quá nóng mang lại.
Theo thông báo của NBS thì chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Trung Quốc năm 2007
tăng 4,8%, mức cao nhất trong vòng gần một thập kỉ qua. Nguyên nhân chính là do
giá lương thực, thực phẩm tăng (Giá lương thực,thực phẩm chiếm tỉ trọng 1/3 trong
tính toán CPI của Trung Quốc). Đặc biệt là giá thịt lợn tăng mạnh.
Năm 2007, giá lương thực thực phẩm tăng 12,3%, chiếm tới 4 điểm phần trăm
trong mức lạm phát 4,8% nói trên. Giá thịt gà, vịt tăng 31,7% và giá trứng tăng
21,8%
Lạm phát của Trung Quốc năm 2007 được tổng hợp qua bảng số liệu sau:
14

Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)
Bảng 1 : Lạm phát của Trung Quốc năm 2007 (Đơn vị : %).
Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy chỉ số lạm phát của Trung Quốc tăng mạnh
vào những tháng cuối năm. Đỉnh điểm là vào tháng 11 tăng 6,9%.
CPI trung bình năm là 4,77%. CPI theo quí : Quí 1 là 2,73%, Quí 2 là 3,6%, Quí 3
là 6,1%, Quí 4 là 6,63%.
Chỉ số CPI của Trung Quốc cao là do có nhiều yếu tố tác động:
Giá hàng hóa thế giới tăng mạnh cũng là một yếu tố đẩy CPI của Trung Quốc năm
2007 lên mức cao nhất kể từ năm 1997. Chẳng hạn như, đầu năm 2007, giá dầu thô
lần đầu tiên vượt 100 USD/thùng, trong khi đó vào năm 2003 chỉ vào khoảng 25
USD/thùng; giá dầu ăn tăng gần gấp đôi trong năm ngoái trên thị trường thế giới.
Thứ hai cần đặt lạm phát của Trung Quốc vào bối cảnh chung của thế giới. Ấn Độ
đã thông báo lạm phát của nước này năm ngoái tăng 5,2%. Nga thông báo lạm phát
9,4%, còn của Mỹ có khả năng tăng 2,8%, châu Âu có mức tăng trung bình hơn
2%. Lạm phát tăng không phải là vấn đề riêng của Trung Quốc, mà đây là xu
hướng toàn cầu.
Bên cạnh đó, nguồn cung tiền cũng là một yếu tố đẩy giá cả lên trong năm 2007.
Năm 2006, lượng cung tiền M2 (gồm tiền mặt, séc du lịch, tiền gửi không kỳ hạn
tại các ngân hàng thương mại, các khoản tiền gửi có thể ký phát séc, tiền gửi tiết
kiệm, tiền gửi kỳ hạn trị giá nhỏ và các tài sản rất dễ thanh tiêu khác) là 40 nghìn
tỷ nhân dân tệ (khoảng 5.500 tỷ USD).
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng CPI của Trung Quốc và các nước trong khu vực
năm 2007được thể hiện qua biểu đồ sau:
15
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
CPI theo từng tháng
của Trung Quốc
(2007)
2,2 2,7 3,3 3 3,4 4,4 5,6 6,5 6,2 6,5 6,9 6,5
Tình hình lạm phát của Trung Quốc (2007-2011)

Biểu đồ: Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng CPI của Trung Quốc và các nước
trong khu vực năm 2007 ( Đơn vị :%)
Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy chỉ số giá tiêu dùng của Trung Quốc năm 2007
đang ở ngưỡng cao nhất kể từ năm 2000 trở lại đây. Sau lần tăng cao đỉnh điểm
năm 2004 chỉ số giá tiêu dùng đã hạ nhiệt tương đối và tăng mạnh trở lại năm 2007
với 4,8%. So với các nước trong khu vực như Việt Nam, Malaysia, Thái Lan thì
chỉ số giá tiêu dùng của Trung Quốc cao xếp thứ 2 sau Việt Nam.
Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBC) ngày 22/8/2011 đã quyết định nâng lãi
suất cơ bản thêm 0,27 điểm phần trăm lên mức 7,02%. Đồng thời, lãi suất tiền gửi
thời hạn 1 năm cũng được tăng thêm 0,27 điểm phần trăm lên mức 3,6%.
Đây là động thái được Chính phủ Trung Quốc đưa ra nhằm làm dịu đà tăng trưởng
kinh tế nước này và nhằm kiềm chế lạm phát, một vấn đề đang làm giới chức
Trung Quốc hết sức đau đầu.
Năm 2007 nền kinh tế Trung Quốc chuyển từ tăng trưởng nhanh sang tăng trưởng
quá nóng do đó chính phủ Trung Quốc đã thông qua một chính sách thắt chặt tiền
tệ, sẵn sàng mạnh tay với bất kì ai thao túng giá lương thực, cùng với một chính
sách tài chính thận trọng cho năm 2008.
2.1.2 Tình hình lạm phát của Trung Quốc năm 2008.
Năm 2008 là năm trở lại với lạm phát cao ở Trung Quốc do tác động chung của sự
suy thoái nền kinh tế toàn cầu (Tháng 9 năm 2008), không chỉ kéo theo chỉ số lạm
phát của Trung Quốc lên cao mà một loạt các nước như Ấn Độ, Nga, Mỹ cũng bị
16

×