LỜI MỞ ĐẦU
Thất nghiệp là một hiện tượng mà bất kỳ quốc gia nào cũng phải đương
đầu, đặc biệt trong thời kỳ suy thoái kinh tế như hiện nay. Thất nghiệp có tác
động rất lớn đến sự ổn định của quốc gia. Bởi nó tác động đến hầu hết các khía
cạnh của xã hội như: làm chậm sự phát triển của nền kinh tế, đẩy người lao động
đến tình cảnh bất ổn định trong cuộc sống, không có thu nhập, nó làm gia tăng
những bất ổn về chính trị, xã hội. Chính vì vậy, việc hạn chế thất nghiệp và ổn
định đời sống cho người lao động luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của mỗi
quốc gia.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề đảm bảo việc làm, hạn chế thất
nghiệp trong nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm đến
việc xây dựng và hoàn thiện các chế định về an sinh xã hội cho người lao động.
Chế định bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là một trong những chính sách tiến bộ,
được ban hành kịp thời đã đáp ứng được những kỳ vọng của người lao động.
Qua gần 3 năm kể từ khi quy định về bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực và đi vào
cuộc sống, chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả
đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các chính sách này còn bộc lộ một số
hạn chế khi áp dụng trên thực tế. Chính vì vậy, việc phân tích, đánh giá những
mặt đạt được, những mặt hạn chế của các quy định về bảo hiểm thất nghiệp là
cần thiết, nhất là trong bối cảnh hiện nay.
1
1. Mt s vn chung
1.1. Tht nghip
Theo T chc Lao ng Quc t (ILO), tht nghip l tỡnh trng tn ti
mt s ngi trong tui lao ng, mun lm vic nhng khụng th tỡm c
vic lm vi mc lng ph bin trong th trng lao ng. Ngi tht nghip l
ngi trong tui lao ng, cú kh nng lao ng nhng khụng cú vic lm.
Vit Nam, khỏi nim tht nghip v ngi tht nghip cng c nờu
B Lut lao ng 1994 sa i b sung v trong Lut bo him xó hi.
Ti B lut lao ng 1994, thất nghiệp c coi là tình trạng tồn tại khi có
một số ngời trong lực lợng lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc nhng
không thể tìm đợc việc làm ở mức tiền lơng tối thiểu.
1.2. Ngi tht nghip
Ngi tht nghip l nhng ngi t 15 tui n 60 tui i vi nam,
n 55 tui i vi n, lm vic theo hp ng lao ng, cú nhu cu lm vic, vỡ
nhng lý do khỏc nhay khụng cú vic lm v ang i tỡm vic lm trong tun l
iu tra.
Theo nh ngha ny, Vit Nam ngi c coi l tht nghip bao
gm:
- Ngi lao ng ang lm vic b mt vic (vỡ cỏc lý do nh doanh
nghip phỏ sn; Doanh nghip sp xp li sn xut hoc ỏp dng cụng ngh mi;
Doanh nghip gii th theo quy nh ca phỏp lut; Ngi lao ng b chm dt
hp ng lao ng trc thi hn, b sa thi, hp ng lao ng ht thi hn m
doanh nghip thụi khụng tip tc ký hp ng).
- Ngi lao ng mi n tui lao ng, hc sinh, sinh viờn mi tt
nghip hoc thụi hc nhng cha tỡm c vic lm.
- B i xut ng, thanh niờn xung phong ht ngha v quõn s, ngi
lao ng i xut khu lao ng v nc cha cú vic lm.
2
- Những đối tượng sau thời gian quản giáo hoặc chữa trị bệnh đang có
nhu cầu về việc làm.
- Những người nghỉ việc tạm thời, không có thu nhập do tính thời vụ sản
xuất.
Những người không bị coi là người thất nghiệp bao gồm:
- Những người có việc làm nhưng hiện tại không làm việc vì một lý do
nào đó như nghỉ phép, nghỉ ốm, tai nạn
- Những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang
đi học hoặc đang thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước, làm nội trợ hoặc
không có nhu cầu về việc làm.
Như vậy, không phải tất cả những người không có việc làm đếu là người
thất nghiệp. Chỉ những người không có việc làm, trong độ tuổi lao động, có nhu
cầu tìm việc làm mới được coi là người thất nghiệp. Người thất nghiệp được quy
định trong Bộ luật Lao động của Việt Nam bao gồm cả những người lao động đã
từng đi lam và cả những người chưa từng đi làm, có nhu cầu tìm việc nhưng
hiện không có việc làm.
Người lao động thiếu việc làm theo quy định của Bộ luật Lao động hiện
hành không được coi là người thất nghiệp.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 của Việt Nam cũng quy định người thất
nghiệp là “người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm
dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng chưa tìm được việc làm”.
Đối tượng của bảo hiểm thất nghiệp chỉ bao gồm những người thất
nghiệp, đã từng làm việc, có hợp đồng lao đồng (theo Bộ luật Lao động) và
những người thất nghiệp được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội.
Như vậy, người thất nghiệp chịu sự điều chỉnh của Luật Bảo hiểm xã hội
là công dân Việt Nam, làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc
mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn tử đủ 12
3
tháng đến 36 tháng, làm việc trong các đơn vị sử dụng lao động có sử dụng từ
10 lao động trở lên, có đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định và vì các lý do
khác nhau mà bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc
nhưng vẫn có nhu cầu làm việc và chưa tìm được việc làm.
1.3. Bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp là một bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống pháp
luật về an sinh xã hội, là một trong những trụ cột, một phần không thể thiếu của
bảo hiểm xã hội (BHXH). Có thể hiểu, bảo hiểm thất nghiệp là một loại hình
phúc lợi tạm thời dành cho người đã đi làm và bị cho thôi việc ngoài ý muốn.
Bảo hiểm thất nghiệp là sự bảo đảm bù đắp một phần thu nhập cho người lao
động bị mất thu nhập do thất nghiệp và hỗ trợ họ sớm quay trở lại thị trường lao
đông theo quy định của pháp luật, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Theo đó, mức hỗ trợ thu nhập dựa trên cơ sở đóng góp của người lao động
trước khi bị thất nghiệp. Đồng thời, người lao động tham gia bảo hiểm thất
nghiệp khi thất nghiệp sẽ được hỗ trợ về tư vấn giới thiệu việc làm, đào tạo nghề
để có thể sớm tìm được việc làm, gia nhập thị trường lao động.
Như vậy, bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc
sống cho người lao động trong thời gian mất việc làm thì mục đích chính của
bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu
việc làm đưa người lao động thất nghiệp sớm tìm được một việc làm mới thích
hợp và ổn định.
2. Một số đánh giá về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
2.1. Ưu điểm
2.1.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam đã được xây
dựng khá hoàn thiện
Hiện nay, hệ thống các quy định điều chỉnh về vấn đề bảo hiểm thất
nghiệp ở nước ta đã và đang dần được hoàn thiện.
4
BLLĐ năm 1994 được ban hành mặc dù đã có quy định nhằm bảo vệ
quyền lợi cho người lao động khi thôi việc hoặc mất việc làm thì được hưởng
chế độ trợ cấp thôi việc (Điều 42 BLLĐ 1994) và trợ cấp mất việc (Điều 17
BLLĐ 1994), nhưng chưa có quy định về bảo hiểm thất nghiệp. Do vậy, một
trong những sửa đổi, bổ sung quan trọng trong BLLĐ sửa đổi, bổ sung năm
2002 là việc quy định về chế độ bảo hiểm thất nghiệp (Điều 140).
Đây là một quy định rất chính xác và kịp thời, bởi bảo hiểm thất nghiệp
được coi là một loại hình bảo hiểm chuyên biệt dành cho những người lao động
thôi việc hoặc mất việc làm theo quy định pháp luật đã được nhiều quốc gia trên
thế giới áp dụng có hiệu quả. Ở nước ta, bảo hiểm thất nghiệp ra đời đã tạo thêm
một lưới an sinh nhằm hỗ trợ cho người lao động khi bị mất việc có thể vượt qua
khó khăn và có cơ hội tìm được việc làm mới. Hơn nữa, bảo hiểm thất nghiệp
tích hợp trong nó rất nhiều sự ưu đãi, người lao động đủ điều kiện luật định khi
bị mất việc có thể được hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp, hưởng bảo hiểm y tế
khi bị ốm đau và trong thời gian thất nghiệp còn được hỗ trợ học nghề, tìm kiếm
việc làm. Do vậy, bảo hiểm thất nghiệp góp phần bảo vệ quyền lợi cho người lao
động, đảm bảo công bằng xã hội và phát triển xã hội cân bằng.
Luật Bảo hiểm xã hội ra đời năm 2006. Ngày 12/12/2008, Chính phủ ban
hành Nghị định số 127/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp; ngày
22/01/2009, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBVXH) có Thông tư
số 04/2009/TT-BLDTBXH cụ thể hóa các quy định về chế độ bảo hiểm thất
nghiệp. Đến ngày 16/10/2009, Bộ LĐTBVXH ban hành Thông tư số
34/2009/TT-BLDTBXH sửa đổi một số quy định của Thông tư 04//2009. Ngoài
ra, Bộ Tài chính có Thông tư số 96/2009/TT-BTC ngày 20/5/2009 hướng dẫn
chế độ tài chính đối với Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Các văn bản pháp luật trên
đã quy định cụ thể về phạm vi và đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp;
5
nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp, điều kiện, trình tự, thủ tục hưởng, về các
chế độ của bảo hiểm thất nghiệp, mức, thời gian hưởng BHTN
Tháng 11 vừa qua, Chính phủ cũng vừa ban hành nghị định số
100/2012/NĐ-CP ngày 21/11/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12-12-2008 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất
nghiệp, đây được xem là một “nỗ lực” nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về
bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta của Đảng và Nhà nước.
Các quy định trong những văn bản quy phạm pháp luật này đã tạo điều
kiện thuận lợi cho người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước thực
hiện quyền lợi cũng như trách nhiệm của mình trong việc tham gia đóng và chi
trả BHTN cho người lao động.
2.1.2. Bảo hiểm thất nghiệp đã thu hút được sự tham gia đông đảo của người
lao động
Theo thống kê của Cục việc làm - Bộ LĐTBXH, năm 2011, số người
tham gia bảo hiểm thất nghiệp là 7,931 triệu người, tổng số thu là 6.730,3 tỷ
đồng. Riêng 3 tháng đầu năm 2012, số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp là
7,9 triệu người với tổng số thu là 1.374 tỷ đồng.
Tính đến cuối năm 2010, cả nước có 189.611 người đến đăng ký BHTN,
số người nộp hồ sơ đề nghị hưởng BH là 162.711 người và số người thất nghiệp
có quyết định hưởng BHTN hàng tháng là 156.765 người, số có quyết định
hưởng BHTN 1 lần là 2.910 người, số được tư vấn giới thiệu việc làm là
125.562 người, số người được hỗ trợ học nghề là 270 người.
Trong số những người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng
tháng năm 2010 thì dưới 24 tuổi có 37.284 người, chiếm 23,8%; từ 25-40 tuổi
có 97.405 người, chiếm 62,1%; trên 40 tuổi có 22.076 người, chiếm 15%; nam
giới có 62.423 người, chiếm 40%; Nữ giới có 94.342 người, chiếm 60%. 10
tháng đầu năm 2011 cơ cấu nhóm tuổi hưởng trợ cấp thất nghiệp cũng gần tương
6
tự như năm 2010, cụ thể là dưới 24 tuổi có 55.162 người, chiếm 24,8%; từ 25-40
tuổi có 139.025 người, chiếm 62,6%; trên 40 tuổi có 27.887 người, chiếm
12,6%; Nam giới có 87.836 người, chiếm 39,5%; Nữ giới có 134.238 người,
chiếm 60,5%.
Bảo hiểm thất nghiệp ra đời đã mang lại sự đảm bảo một phần trong cuộc
sống của người lao động. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và mục đích
tốt đẹp hướng tới, BHTN ở nước ta còn một số hạn chế. Đặc biệt là hạn chế khi
đưa các quy định của Luật vào áp dụng trên thực tế.
2.2. Một số hạn chế
2.2.1. Một số hạn chế trong quy định của pháp luật
2.2.1.1. Đối tượng được áp dụng bảo hiểm thất nghiệp:
Đối tượng áp dụng BHTN ở Việt Nam hiện nay còn hẹp và chồng chéo
trong các quy định cùa pháp luật về đối tượng áp dụng BHTN. Cụ thể:
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì BHTN áp dụng bắt buộc đối
người lao động là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp
đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời
hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng và người sử dụng lao động tham
gia BHTN theo quy định của Luật BHXH có sử dụng từ mười lao động trở lên
(khoản 3, 4 Điều 2 Luật BHXH 2006). Như vậy, đối tượng áp dụng BHTN là
những công dân Việt Nam, nhưng không phải là công dân nào cũng được tham
gia mà chỉ những công dân đạt điều kiện luật định mới được tham gia BHTN.
Việc quy định như trên cho thấy đối tượng được tham gia BHTN theo pháp luật
hiện hành của nước ta rất hẹp. Những người có quốc tịch nước ngoài hoặc không
có quốc tịch sang Việt Nam làm việc trong thời gian dài thì không được đóng và
hưởng trợ cấp BHTN; những người lao động nông nghiệp cũng không được tham
gia BHTN, trong khi họ là một lực lượng đông đảo;
7
Luật BHXH quy định chỉ áp dụng BHTN với người lao động làm việc theo
hợp đồng xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng hoặc hợp đồng
không xác định thời hạn, trong khi Nghị định 127/2008/NĐ-CP của Chính phủ lại
quy định rõ ngoài các trường hợp trên thì những người ký hợp đồng làm việc
không xác định thời hạn, kể cả những người được tuyển dụng vào làm việc tại các
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước lại được tham gia BHTN. Mặc dù Nghị định
127/2008/NĐ-CP là văn bản dưới luật được ban hành hướng dẫn một số điều của
Luật BHXH về bảo hiểm thất nghiệp nhưng để các quy định không có sự chồng
chéo, mâu thuẫn nhau, nên chăng cần sửa đổi quy định tại Khoản 3 Điều 2 Luật
BHXH theo hướng mở rộng đối tượng người lao động tham gia đóng bảo hiểm xã
hội để phù hợp với các văn bản luật khác.
2.2.1.2. Điều kiện tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì người sử dụng lao động tham
gia BHTN phải sử dụng từ 10 lao động trở lên (Khoản 2 Điều 4 Luật bảo hiểm
xã hội). Trên thực tế quy định này đã trở thành rào cản đối với người lao động
và chủ sử dụng lao động dưới 10 lao động có nhu cầu tham gia BHTN, bởi
những đơn vị sử dụng dưới 10 lao động thường là doanh nghiệp nhỏ, người lao
động có nguy cơ mất việc làm cao nên họ rất cần có những chính sách như bảo
hiểm thất nghiệp để có thể ổn định cuộc sống trong trường hợp bị mất việc làm.
2.2.1.3. Điều kiện đối với hưởng BHTN
Điều 81 Luật BHXH năm 2006 và Điều 15 Nghị định 127/2008/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 12/12/2008 quy định và hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều
của Luật BHXH về BHTN có 3 điều kiện, một trong những điều kiện cần phải
được nghiên cứu làm rõ hơn là người lao động đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên
trong vòng hai mươi bốn tháng trước khi bị mất việc. Vấn đề đặt ra là trong vòng
24 tháng trước ngày người lao động bị mất nghiệp, họ mới chỉ đóng được 11
tháng BHTN thì họ có được hưởng chế độ BHTN không? Hơn nữa, BLLĐ hiện
hành vẫn quy định về chế độ trợ cấp thôi việc cũng như trợ cấp mất việc đối với
8
người lao động khi họ thôi việc hoặc mất việc làm, nhưng sẽ không áp dụng các
trợ cấp này với những đối tượng được hưởng chế độ BHTN. Do vậy về mối quan
hệ giữa hưởng BHTN và các chế độ trợ cấp trên cũng cần được làm rõ. Vẫn có
quan điểm cho rằng, vẫn nên giữ cả chế độ trợ cấp thôi việc và mất việc bên cạnh
chế độ BHTN, nhưng quan điểm khác lại đề nghị khi đã áp dụng chế độ BHTN
thì thôi không áp dụng các chế độ về trợ cấp thôi việc hoặc mất việc nữa, bởi chế
độ BHTN có nhiều điểm tối ưu và bao quát hơn.
2.2.1.4. Căn cứ tính đóng quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Việc đóng BHTN được chia theo tỷ lệ người lao động đóng 1% tiền lương,
tiền công/tháng; người sử dụng lao động đóng 1% quỹ tiền lương, tiền công/tháng
của những người tham gia BHTN và Nhà nước hỗ trợ 1% quỹ tiền lương, tiền
công đóng BHTN của những người lao động tham gia BHTN và mỗi năm chuyển
một lần (Nghị định 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008, Điều 25). Thực hiện quy
định này cho thấy, có hiện tượng người sử dụng lao động trả tiền lương thực tế
cho người lao động cao hơn mức ghi trong hợp đồng lao động và sử dụng mức
tiền lương thấp ghi trong hợp đồng làm căn cứ tính đóng BHTN cho người lao
động; hoặc có trường hợp cả người lao động và người sử dụng lao động cùng thỏa
thuận với nhau về vấn đề này, gây thất thoát nguồn thu cho BHXH, ảnh hưởng
đến quyền lợi của người lao động cũng như sự minh bạch trong việc tham gia nộp
và chi trả BHTN.
2.2.1.5. Thủ tục tham gia và hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Khi người lao động bị mất việc làm hoặc bị chấm dứt hợp đồng lao động,
hợp đồng làm việc trong thời hạn bảy ngày, người lao động phải trực tiếp đến
đăng ký thất nghiệp tại Trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Sở LĐTBXH nơi
đang làm việc. Tiếp đó trong vòng 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp, người
lao động phải nộp đủ hồ sơ hưởng BHTN bao gồm: đơn đề nghị hưởng BHTN
theo mẫu quy định tại Thông tư 04/2009/TT-BLĐTBXH ngày 22/01/2009 của Bộ
LĐTBXH (sửa đổi, bổ sung tại Thông tư 34/2009/TT-BLĐTBXH ngày
9
16/10/2009); bản sao hợp đồng lao động hoặc làm việc đã hết hạn hoặc thỏa thuận
chấm dứt hợp đồng hoặc xác nhận của đơn vị cuối cùng trước khi thất nghiệp về
việc đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng pháp luật và xuất trình Sổ BHXH.
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Sở LĐTBXH phải ra quyết
định về việc hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Như vậy, thời gian giải quyết chế độ BHTN cho người lao động là tương
đối nhanh. Tuy nhiên, khi thực hiện thì thủ tục giải quyết cho người lao động
hưởng BHTN gặp nhiều khó khăn từ chính các quy định của pháp luật chưa được
chặt chẽ, ví dụ pháp luật quy định khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động,
để được hưởng các chế độ của BHTN, người lao động phải có giấy xác nhận của
đơn vị cuối cùng trước khi thất nghiệp về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động là hợp pháp. Vấn đề khó ở đây là một mặt pháp luật yêu cầu người đơn
phương chấm dứt hợp đồng có giấy xác nhận của doanh nghiệp là đơn phương
chấm dứt hợp đồng hợp pháp là bắt buộc trong hồ sơ, nhưng luật lại không quy
định việc xác nhận cho những người này là nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp.
Hơn nữa, khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì về tâm
lý, người sử dụng lao động cũng không dễ dàng chấp nhận vì họ cho rằng người
lao động đã vi phạm hợp đồng và không xác nhận cũng chẳng sao, vì không có
chế tài nào áp dụng với họ… Vì thế, doanh nghiệp thường gây khó dễ cho người
lao động bằng cách trây ỳ hoặc kéo dài thời gian không xác nhận cho người lao
động. Không những thế, người sử dụng lao động cũng chậm trả sổ bảo hiểm cho
người lao động. Do vậy, đã có nhiều trường hợp người lao động không thể được
nhận BHTN do hết thời gian mà thiếu hồ sơ để làm thủ tục.
Trong trường hợp khác, người lao động và chủ sử dụng lao động thông
đồng để trục lợi bảo hiểm thất nghiệp, khi chủ sử dụng lao động ký xác nhận
chấm dứt hợp đồng giả tạo, để người lao động làm hồ sơ hưởng bảo hiểm thất
nghiệp rồi lại đi làm bình thường.
10
Ngoài ra, về việc hưởng trợ cấp thất nghiệp, tại Điều 87, Luật BHXH,
người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp có việc làm hoặc thực hiện nghĩa vụ quân
sự, được chuyển sang hưởng trợ cấp thất nghiệp 1 lần bằng giá trị còn lại của trợ
cấp thất nghiệp được hưởng. Theo quy định này đối tượng đang hưởng trợ cấp
thất nghiệp đã tìm được việc làm thì việc được chuyển sang hưởng trợ cấp thất
nghiệp 1 lần bằng với giá trị còn lại của trợ cấp thất nghiệp được hưởng là
không công bằng đối với những người đang tham gia BHTN.
2.2.1.6. Về quy định hỗ trợ học nghề và hỗ trợ tìm việc làm miễn phí:
Theo quy định tại Điều 83, 84 Luật BHXH, người được hưởng trợ cấp thất
nghiệp được hỗ trợ học nghề với thời gian không quá 6 tháng và hỗ trợ tìm việc
làm miễn phí. Tuy nhiên, qua hơn một năm thực hiện BHTN, phần lớn người lao
động chỉ quan tâm đến tiền trợ cấp thất nghiệp mà chưa thấy sự cần thiết và mức
độ quan trọng của chính sách hỗ trợ học nghề. Điều này cho thấy công tác tuyên
truyền về chính sách BHTN chưa được đúng mức, dẫn đến người lao động còn
mơ hồ về BHTN. Ngoài ra, thời hạn hỗ trợ là 6 tháng còn quá ngắn khi áp dụng
trên thực tế, không đảm bảo được quyền lợi của người lao động
2.2.1.7. Trách nhiệm của người sử dụng lao động:
Hiện nay, chưa quy định cụ thể trách nhiệm của người sử dụng lao động
trong việc thông báo với cơ quan lao động khi có biến động lao động, đây là
vấn đề rất quan trọng trong việc quản lý và thực hiện chính sách bảo hiểm thất
nghiệp.
2.2.2. Một số hạn chế khác:
Bên cạnh những hạn chế khi áp dụng quy định của pháp luật BHTN vào
thực tế, hiện nay việc thực hiện BHTN còn có một số hạn chế khác. Cụ thể:
Về Bộ máy thực hiện bảo hiểm thất nghiệp: chưa được tổ chức theo hệ
thống ngành dọc, hạn chế trong việc triển khai thực hiện, cán bộ và kinh phí
hoạt động.
11
Công tác tổ chức tuyên truyền và phổ biến pháp luật về BHTN còn chưa
được quan tâm đúng mức.
Hiểu biết của người lao động về BHTN còn chưa cao nên chính bản thân
người lao động cũng không nắm vững được các quyền lợi mà luật đã ghi nhận
để bảo vệ mình.
3. Một số kiến nghị
3.1. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, cần nghiên cứu mở rộng đối tượng được tham gia BHTN,
không chỉ là những công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành
mà cần mở rộng thêm đối với người nước ngoài, người không quốc tịch khi làm
việc cho các cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp ở Việt Nam phù hợp với Luật
Lao động Việt Nam cũng được tham gia loại hình bảo hiểm này.
Thứ hai, về điều kiện hưởng BHTN, có thể nghiên cứu quy định những
trường hợp người lao động đủ điều kiện luật định đã đóng BHTN dưới 12 tháng
trong vòng 24 tháng trước khi bị mất việc làm vẫn có thể được hưởng BHTN.
Tuy nhiên, người lao động trong trường hợp này đã tham gia đóng BHTN có thể
được tính thành 12 tháng để làm cơ sở tính mức trợ cấp BHTN cho người lao
động, dù người lao động bị mất việc làm hoặc thôi việc thì theo quy định của
BLLĐ vẫn được hưởng các chế độ trợ cấp mất việc hoặc trợ cấp thôi việc nếu
không được hưởng chế độ BHTN. Bởi quy định như vậy sẽ tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho người lao động khi họ bị mất việc làm có thể tìm được việc làm mới
do họ vừa đươc hưởng trợ cấp thất nghiệp vừa được hỗ trợ học nghề, tìm việc
làm
Thứ ba, căn cứ tính quỹ BHTN cần được tính trên cơ sở tiền lương, tiền
công thực tế trả cho người người lao động, để tránh trường hợp người sử dụng
lao động tự mình hoặc phối hợp với người lao động trốn tránh, bớt tiền đóng vào
quỹ BHTN
12
Thứ tư, có quy định pháp luật về tăng cường sự phối hợp giữa các Sở
LĐTBXH với các cơ quan BHXH trong việc tạo điều kiện chi chế độ BHTN
cho người lao động đủ điều kiện, đồng thời nâng cao hơn nữa vai trò của thanh
tra trong việc kiểm tra đóng BHTN ở các cơ quan, các tổ chức và các doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật về BHTN cho người lao động. Mặt khác cần
quy định việc xác nhận của doanh nghiệp cho người lao động trong trường hợp
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là một nghĩa vụ bắt buộc đối với các
doanh nghiệp để tránh trường hợp gây khó khăn cho người lao động.
3.2. Kiến nghị khác
Thứ nhất, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền: về các chế độ,
chính sách về bảo hiểm thất nghiệp với nhiều hình thức phù hợp với từng nhóm
đối tượng nhằm nâng cao nhận thức về bảo hiểm thất nghiệp, nhất là người lao
động ở vùng sâu vùng xa, ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ, viên chức tại các
đơn vị sự nghiệp công lập. Tiếp tục tổ chức các hội nghị tập huấn cho cán bộ
thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, cán bộ nhân sự tại các doanh
nghiệp, tổ chức.
Thứ hai, xây dựng và thực hiện các biện pháp để quản lý lao động làm cơ
sở cho việc xác định và nắm chắc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp,
thực hiện các chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Thứ ba, phát hiện, ngăn chặng và xử lý vi phạm: Kịp thời phát hiện, ngăn
chặn và có biện pháp xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, hành vi lạm dụng
chính sách bảo hiểm thất nghiệp để trục lợi. Tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
Thứ tư, tăng cường các điều kiện để thực hiện bảo hiểm thất nghiệp: như
tăng cường cơ sở vật chất, cán bộ và kinh phí cho các trung tâm giới thiệu việc
làm để tiếp nhận, giải quyết và quản lý người thất nghiệp; Hoàn thiện phần
mềm quản lý bảo hiểm thất nghiệp để thực hiện trên phạm vi cả nước, chia sẻ
thông tin giữa các cơ quan có liên quan.
13
Thứ năm, tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan có liên
quan: trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp để tạo điều kiện
thuận lợi hơn nữa cho người lao động khi tham gia và thụ hưởng chính sách
bảo hiểm thất nghiệp, trước hết là ngành Lao động - Thương binh và Xã
hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tài chính, Nội vụ, Công đoàn.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Bảo hiểm xã hội 2006.
2. Nghị định số 127/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về Bảo hiểm thất nghiệp.
3. Thông tư số 04/2009/TT-BLĐTBXH ngày 22/01 hướng dẫn thực hiện
một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm
2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp.
4. Thông tư số 34/2009/TT-BLĐTBXH ngày 16/10 về sửa đổi, bổ sung
một số điều Thông tư số 04/2009/TT-BLĐTBXH ngày 22/01/2008.
5. B¶o hiÓm x· héi - Nh÷ng ®iÒu cÇn thiÕt (2001), Nxb Thèng kª, Hµ Néi.
6.
option=com_content&view=article&id=2853:nhin-lai-ket-qua-trien-
khai-chinh-sach-bao-hiem-that-nghiep&catid=51:cac-bai-vit-lien-quan-
n-hot-ng-cong-oan&Itemid=73
15
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
1.Một số vấn đề chung 2
1.1.Thất nghiệp 2
1.2.Người thất nghiệp 2
1.3.Bảo hiểm thất nghiệp 4
2.Một số đánh giá về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam 4
2.1.Ưu điểm 4
2.1.1.Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam đã được xây
dựng khá hoàn thiện 4
2.1.2.Bảo hiểm thất nghiệp đã thu hút được sự tham gia đông đảo của
người lao động 6
2.2.Một số hạn chế 7
2.2.2.Một số hạn chế khác: 11
3.Một số kiến nghị 12
3.1.Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật 12
3.2.Kiến nghị khác 13
16