Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Nghiên cứu bệnh sán lá gan lớn trên thế giới potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.5 KB, 13 trang )

Nghiên cứu bệnh sán lá gan lớn trên thế giới


Liệu pháp nội soi trong trường hợp sán lá gan lớn kháng thuốc điều trị bằng
đường uống
Một nghiên cứu tiến hành do nhóm tác giả N.Dowidar, M.El Sayad, M.Osman,
A.Salem đăng trên tạp chí nội soi tiêu hóa Gastrointestinal Endoscopy, Vol.50,
Issue 3, pp.345-351 giới thiệu về một ca bệnh có can thiệp nội soi trên bệnh nhân
nhiễm sán lá gan lớn đề kháng với liệu pháp hóa trị liệu bằng đường uống. Nghiên
cứu thực hiện sau khi đã cho dung dịch vào toàn bộ hệ đường mật bằng dung dịch
diệt sán, sau đó đánh giá. Việc đánh giá theo 2 giai đoạn, trong pha I của nghiên
cứu, 4 tác nhân gồm (povidone iodine, thuốc tím, chlorhexidine, sodium
bicarbonate) được thử nghiệm trên in vitro đánh giá hiệu quả của chúng trên khả
năng sống của sán Fasciola. Trong pha II của nghiên cứu, các bệnh nhân đề kháng
với liệu pháp uống thuốc điều trị sán thì chuyển sang dùng can thiệp nội soi mật
tụy ngược dòng (ERCP_Endoscopic Retrograde CholangioPancreatography) và bơ
thuốc vào trong đường mật bằng các dung dịch nào coh thấy có hiệu quả trong pha
I nhất. Kết quả cho thấy: Povidone iodine chứng minh có hiệu quả nhất chống lại
khả năng sống còn của sán Fasciola. 9 bệnh nhân được bơm vào hệ đường mật
bằng povidone iodine. Sự có mặt của sán trong đường mật trên tất cả bênh nhân,
ngoại trừ có 1 bệnh nhân có sán trong túi mật. Tất cả bệnh nhân đều âm tính với
trứng sán qua theo dõi điều trị và xét nghiệm phân. Nhóm nghiên cứu kết luận
rằng nếu rửa đường mật bệnh nhân mắc sán lá gan lớn khi có đề kháng với đường
uống thì bằng povidone iodine đường nội soi sẽ hiệu quả.
Biến chứng do Fasciola hepatica: vai trò nội soi mật tụy ngược dòng trong
quản lý ca bệnh như thế nào?

Nghiên cứu trên được tiến hành do nhóm tác giả El-Newihi, Hussein M.;
Waked, Imam A.; Mihas, Anastasios A. Kết quả nghiên cứu chỉ ra ký sinh
tùng sán Fasciola hepatica ký sinh trong hệ đường mật nhưng hiếm khi gây
các di chứng lâm sàng nghiêm trọng. ở đây họ đã tổng kết kinh nghiệm trên 4


bênh nhân nhiễm F. hepatica dẫn đến biến chứng đường mật, đặc biệt gây
hậu quả vàng da và cơn đau co thắt mật hay quặn mật liên tục. Chẩn đoán
đạt được bằng ERCP chỉ ra sán trong các đường mật ngoài gan. Cắt cơ vòng
qua nội soi có mang lại kết quả tốt mà không dẫn đến hậu quả gì, tiếp đó qua
thủ thuật, cho phép họ dùng balloon lấy sán và sau đó các triệu chứng được
giải quyết.
Báo cáo ca bệnh sán lá gan lớn ở người đặc biệt
Một nhóm nghiên cứu gồm Price TA, Tuazon CU, Simon GL đang công tác tại
khoa nội của Trung tâm y khoa đại học George Washington, Washington DC, Mỹ
ghi nhận một ca bệnh do sán lá Fasciola hepatica, một loại sán vỗn dĩ trên gia súc
và vật nuôi, có thể gây bệnh cho người. Bệnh thường gây ra tại một số quốc gia
đang phát triển và trong vùng nhiệt đới, không thấy ở Mỹ hoặc rất hiếm gặp, nếu
có chỉ là do người dân đi từ vùng lưu hành trở về (mặc dù trước đây sán lá gan lớn
có báo cáo tại Mỹ). Nhân đây báo cáo 2 ca bệnh sán lá gan lớn có minh họa cả giai
đoạn trong gan và trong hệ đường mật. Các đặc điểm lâm sàng và khía cạnh chẩn
đoán gồm có huyết thanh học, chẩn đoán Xquang và nghiên cứu mô bệnh học
được nhấn mạnh. Thuốc Praziquantel không có hiệu quả trong điều trị cả 2 bệnh
nhân này và ngược lại Bithionol lại rất hiệu quả trong điều trị.
SLGL tại các quốc gia tiên tiến: một báo cáo tổng hợp về kinh điển cũng như
các trường hợp lạc chỗ của sán
Nhóm nghiên cứu Arjona R, Riancho JA, Aguado JM, Salesa R, González-
Macías J đang công tác tại khoa nội của bệnh viện Marqués de Valdecilla,
Đại học Cantabria, Santander, Tây Ban Nha. Các ca bệnh ở người nhiễm tại
các quốc gia trên phần lớn là nhiễm loài Fasciola hepatica, hiếm gặp ở Tây
Ban Nha và các quốc gia châu Âu. Họ đã báo cáo về kinh nghiệm lâm sàng
trên 20 bệnh nhân mà họ ghi nhận được và tổng hợp chi tiết các ca bệnh đến
từ các quốc gia phương tây này. Vì F. hepatica có tính hướng đặc biệt với
tạng gan của nguwif và động vật (special tropism for the liver), gây các triệu
chứng đau bụng, gan lớn, và một số triệu chứng khác ở giai đoạn cấp của
bệnh. Tuy nhiên, giai doạn mạn, cơn đau quặn mật và viêm đường mật là các

dấu chứng đặc trưng. Phổ lâm sàng của bệnh sán lá gan lớn khác nhau từng
ca bệnh và các dấu hiệu bất thường về gan, ngoài gan, thâm nhiễm phổi, tràn
dihcj màng ngoài tim, viêm màng não, bệnh lý hạch lympho. Do vậy, nếu tỷ lệ
nghi ngờ cao thì dường như chẩn đoán đúng được thiết lập. Tăng bạch cầu ái
toan là dấu chứng cận lâm sàng hay gặp nhất. CT-Scanner trở nên là công cụ
hữu ích trong chản đoán. Chẩn đoán xác định có thể xác lập bằng quan sát
trứng óc trứng trong phân, nhưng hầu hết các ca có thể chẩn đoán bằng
huyết thanh nhưng nhớ rằng có một tỷ lệ dương tính giả. Triclabendazole và
Bithionol là các thuốc hiệu quả cao chống lại sán F. hepatica. Hiệu quả của
Praziquantel hiện vẫn còn đang bàn cãi.
Nghiên cứu ghi nhận qua một loạt 37 ca bệnh

Công trình nghiên cứu này là do nhóm tác giả Cosme A, Ojeda E, Cilla G, Torrado
J, Alzate L, Beristain X, Orive V, Arenas J. tại khoa tiêu hóa, bệnh viện Aránzazu,
San Sebastián, Guipúzcoa báo cáo qua thực tế lâm sàng. Nghiên cứu này nhằm
phân tích về mặt lâm sàng, vi sinh, chẩn đoán và điều trị của bệnh nhân nhiễm
Fasciola hepatica (Fh) trong bệnh viện. Tất cả bệnh nhân được chản đoán bị sán lá
gan nhập viện tại bệnh viện Aranzazu ở San Sebastián (Guipúzcoa, Tây Ban Nha).
Chẩn đoán thiết lập do nhìn thấy trực tiếp sán trưởng thành trong quá trình phẩu
thuật hoặc sự có mặt của trứng qua xét nghiệm phân và/ hoặc test huyết thanh
dương tính trên các bệnh nhân có triệu chứng liên quan đến ký sinh tùng.
Kết quả cho biết 37 bệnh nhân (gồm 23 nam và 14 nữ), tuổi từ 19-71, tiến sử có ăn
cải xoong được ghi nhận trên 27 ca. 7 ca xảy ra trên một vụ dịch ở gia đình. 32 ca
có giai đoạn sán xâm nhập trong nhu mô gan và 5 ca trong đường mật. Đặc điểm
cận lâm sàng hay gặp nhất là tăng bạch cầu ái toan (91.8%), suy nhược và sụt cân
(75.6%), tăng alkaline phosphatase (74.2%), đau bụng (72.9%). Sán trưởng thành
trong đường mật thấy được trên 3 bệnh nhân và trứng sán trong phân là 6 ca.
Trong số 13/ 27 bệnh hân có test IHA (+) với hiệu giá 1/1.280. Dữ liệu có ý nghĩa
xác định liên quan đến gan thông qua môt bụng thăm dò trong 12/13 bệnh nhân và
bằng chẩn đoán hình ảnh là 13/13 ca. Với 4 bệnh nhân có sỏi mật và trong số này

có 2 ca cũng cho thấy sán trưởng thành trong ống mật chủ, 3 bệnh nhân này đều
thực hiện phẩu thuật. Liệu pháp điều trị bằng Dehydroemetine và hoặc bithionol
thành cong 30 bệnh nhân, mặc dù có 6 bệnh nhân yêu cầu điều trị lần 2. 4 bệnh
nhân còn lại chữa khỏi bằng praziquantel.
Hầu hết các bệnhnhân trong loạt ca bệnh này đều có ăn rau cải xoong và có triệu
chứng lâm sàng điển hình của bệnh sán lá gan. Kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh có giá
trị trong chẩn đoán bệnh lý hệ gan mật, hầu hết các bệnh nhân đều đáp ứng điều trị
với Dehydroemetine và hoặc Bithionol.
Triệu chứng của SLGL ở người: qua báo cáo ca bệnh và tổng hợp y văn

Một bệnh nhân 17 tuổi nam giới nhiễm sán Fasciola hepatica. Sau khi điều trị liều
đầu tiên bằng Praziquantel và Metronidazole, đau bụng cũng như tăng bạch cầu
eosin. Chẩn đoán thiết lập bằng ERCP trong đường mật, ở đó có trứng phát hiện.
Xét nghiệm phân và huyết thanh chẩn đoán ELISA, IFAT không thực hiện, sau
khi cắt bỏ u nhú, lấy sán và điều trị bằng Triclabendazole, bệnh nhân hết triệu
chứng, kết quả huyết thanh học trở về âm tính và công thức máu bình thường.
Kết quả công bố trên do nhóm nghiên cứu Helfenstein E, Kayser S, Locher G.
Medizinische Klinik, Kantonales Spital Sursee ghi nhận và báo cáo.
Sán lá gan lớn ở người: một ca tăng nhiễm và cập nhật cho các thầy thuốc
lâm sàng
Các tác giả Renzo Arauco (khoa nội, đại học Peruana Cayetano Heredia, Lima,
Peru), Nicola M. Zetola (khoa truyền nhiễm, đại học California, San Francisco,
California), Carlos Seas, Flor Calderon (khoa nội, đại học Peruana Cayetano
Heredia, Lima, Peru), cho biết sán lá gan lớn tác động tren quần thể trên toàn cầu,
gây tổn thương viêm cả hệ thống gan mật. Tại các quốc gia phát triển, bệnh hiếm
gặp nhưng số vụ dịch rải rác cũng đã được báo cáo. Nhân đây, nhóm tác giảbáo
cáo một ca có đặc điểm giai đoạn cấp và mạn cùng tồn tại trên bệnh nhân và
thảo luận về các vấn đề cơ chế bệnh sinh mới, tiếp cận chẩn đoán mới và điều
trị, nhấn mạnh đến chiến lược phòng chống căn bệnh này ở người.
Bệnh sán lá gan lớn lạc chỗ và gây tổn thương nhãn cầu

Seung-Yull Cho, Han Nam Yang, Yoon Kong, Jae Chan Kim, Kyung Whan
Shin AND Bon Sool Koo thuộc khoa Ký sinh trùng và khoa mắt của bệnh
viện đại họcChung-Ang, Seoul, Hàn Quốc báo cáo. Một bệnh nhân nam 28 tuổi
biểu hiện với các triệu chứng nhức đầu, yếu vận động khoảng 1 tháng nay và
đột nhiên đau và mù mắt bên (P). Trong quá trình soi kiểm tra mắt, nhìn
thấy một con sán xuyên thủng mống mắt, chiếm buồng trước trong một thời
gian ngắn và quay trở lại phía sau mống mắt, rồi rời khỏi và đi đến gây phù
kết mạc, xuất huyết tiền phòng. Tiến hành khoét nhân mắt (enucleation) để
ngăn sán gây tổn thương hơn nữa cho nhãn cầu. Mắt được khoét nhâncó sự
giáng hóa xơ hóa mắt và xuất huyết nhãn cầu. Nhiều hình ảnh vết huyết ở mô
và phản ứng viem tại chỗ và lan tỏa trong màng mạch nho, điều đó có nghĩa
có sự di chuyển của sán trong thời gian gần đây. Sán được phát hiện trong
tiền phòng là một con sán còn non loại Fasciola sp.


Một trường hợp khác cũng xảy ra trên một cậu bé người Uzbekistan bị sán lá
gan Fasciola hepatica vào mắt trái và gây mù một mắt (hình ảnh trên).
Bệnh sán lá gan lớn không triệu chứng
Seiji ADACHI, Kazuhiko KOTANI, Tetsu SHIMIZU, Kiwamu TANAKA,
Tatsunori SHIMIZU và Katsuo OKADA thuộc khoa Nội tổng quát, Trung tâm y
khoa Tottori, khoa quản trị và tăng cường y tế, của khoa y, đại học Tottori,
Yonago; khoa ngoại và nội của bệnh viện trung ương Tottori báo cáo ca bệnh là
một đàn ông 72 tuổi người Nhật Bản có triệu chứng tăng bạch cầu ái toan không
triệu chứng đã 4 tháng nay. Chụp CT-Scanner cho thấy hình ảnh đa tổn thương
trống âm (multiple space-occupying lesions) trong gan. Sán lá gan được nghi ngờ
dựa trên nghề nghiệp của ông ta có phơi nhiễm với gia súc, tiến hành chỉ định xét
nghiệm huyết thanh học và chẩn đoán hình ảnh đã giúp chẩn đoán bệnh tốt, mổ
bụng thăm dò xác định chắc chắn Fasciola hepatica và loại trừ ngay khả năng của
một khối u ác tính trong gan. Chỉ định điều trị bằng thuốc Praziquantel sau khi
chẩn đoán xác định là sán lá gan lớn. Bạch cầu eosin trong máu hạ xuống trong

vòng 4 tháng và khối tổn thương dường như biến mất trong vòng 12 tháng. Từ
kinh nghiệm của họ, mổ bụng thăm dò và sinh thiết gan là rất quan trọng trong
chẩn đoán bệnh sán lá gan ở người, đặc biệt là các trường hợp hoàn toàn không có
triệu chứng.

Sán lá gan lớn ở người: chữa khỏi bằng Mebendazole? Niclofan?
Đó là công trình được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu Dugernier T, Geubel A,
Bigaignon G, Cesbron JY, Coche E tiến hành nhằm xem xét liệu Mebendazole có
chữa khỏi bệnh sán lá gan lớn do Fasciola hepatica hay không, lúc đầu điều trị
thành công với liều cao Mebendazole (4 g/ngày x 3 tuần). Song nghiên cứu này
cho thấy chỉ số bạch cầu ái toan để quay trở về trị số bình thường là kéo dài và mất
thời gian dài. Các men gan bất thường và huyết thanh chẩn đoán biến mất các hình
ảnh hoiaj tử gan chỉ ra đã loại trừ sán. Hiệu lực của Mebendazole trong điều trị
bệnh sán lá gan lớn cần được xác định trong các nghiên cứu tiếp theo sau đó.
Một nghiên cứu khác của tác giả Eckhardt T, Heckers H nhằm đánh giá hiệu lực
điều trị của niclofolan trên sán lá gan. Trước tiên, bằng chứng nhiễm sán Fasciola
hepatica được nhấn mạnh và điều trị thành công bằng Niclofolan-một thuốc chống
giun sán biphenyl có sẵn đề thuwqr nghiệm lam sàng tại tây Đức. Liệu pháp
Niclofolan đã loại trù sạch trứng trong phân và cho chỉ số bạch cầu ái toan quay
trở về bình thường, men gan cũng vậy.
Sán lá gan lớn ở trẻ em với các triệu chứng không điển hình, ¼ ca đã tử vong
do suy tạng
Nhóm tác giả Almendras-Jaramillo M, Rivera-Medina J, Seijas-Mogrovejo J,
Almendras-Jaramillo K đang công tác tại khoa nhi, đại học Peruana
Cayetano Heredia, Lima, Peru trình bày các đặc điểm lâm sàng và dịch tễ học
cũng như tiến triển của bệnh nhi nhiễm sán Fasciola hepatica đánh giá tại
đơn vị nghiên cứu về tiêu hóa của trẻ em tại Viện Nghiên cứu sức khỏe nhi
Lima, Peru, từ năm 1988-1992. Bệnh nhi đầu tiên là trẻ gái 9 tuổi bị sốt, phù
chân, tuần hoàn bàng hệ ( collateral circulation) và gan to, đặc biệt là thùy
gan phải. Ca bệnh thứ 2 là một bệnh nhi 6 tuổi với triêu chứng xuất huyết

tiêu hóa trên và sốt, nội soi chẩn đoán cho thấy có chảy máu đường mật. ca
bệnh thứ 3 là cậu bé 12 tuổi có phù toàn thân, ca bệnh thứ 4 là cậu bé 9 tuổi
với biểu hiện vàng da, sốt và xuất huyết tiêu hóa trên.

Trong 4 bệnh nhân được chẩn đoán có xác định trứng sán trong phân. 3 ca
đầu đáp ứng tốt với điều trị Bithionol; ca thứ 4 tử vong do suy đa cơ quan.
Sán lá gan lớn ở đường mật: bít tắc đường mật và giải quyết bằng ERCP
Sán lá gan lớn ở người được báo cáo khắp thế giới, cả pha cấp và mạn tính của
bệnh được mô tả trong y văn rất rõ ràng và đa dạng. Sỏi mật với vàng da do tắc
mật và khám phá ra sán Fasciola hepatica trong khi phẩu thuật là một trong những
trường hợp hay gặp trong thể mạn tính. Nhân đây, có 6 ca bệnh được mô tả như
thế và tất cả đều được chẩn đoán và điều trị bằng can thiệp nội soi mật tụy ngược
dòng (ERCP_Endoscopic retrograde cholangiopancreatography) với các hình ảnh
chi tiết chụp được mật rất dễ nhầm lẫn với các trường hợp bệnh lý khác, hình ảnh
lâm sàng các ca bệnh cũng được ghi nhận trong 6 ca này.

×