Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Đặc điểm sinh học cua biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.68 KB, 20 trang )

Phần 1: GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Thịt cua biển là thức ăn cao cấp, rất được ưa chuộng ở Việt Nam và các nước trên
Thế giới do hàm lượng protein cao (26,8%), lượng mỡ thấp (1,4%) và rất giàu khoáng
vi lượng (đặc biệt là Calcium), kích thước lớn. Dù được chế biến ở hình thức nào, đơn
giản hay cầu kỳ cua biển luôn là nguyên liệu của các món ăn ngon. Trong nước cũng
như trên Thế giới cua biển chiếm một thị trường rất lớn, tùy theo kích cỡ, chất lượng
cua mà có những giá trị khác nhau, trong đó cua gạch có giá trị cao nhất.
Xuất phát từ giá trị kinh tế cao của cua biển, các tỉnh, vùng ven biển nước ta có điều
kiện phát triển nuôi cua biển đã hình thành phong trào nuôi cua biển, trong đó đặc biệt
là các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long ven biển. Tuy nhiên, cho đến nay nghề nuôi
cua biển ở đây vẫn còn bấp bênh, chưa ổn định. Nghề nuôi cua kết hợp phát triển
rừng ngập mặn chỉ dừng lại ở hình thức quảng canh cải tiến, nuôi với mật độ thấp
0,01 - 0,1 con/m
2
, nguồn cua giống khai thác một phần từ tự nhiên còn lại được sản
xuất nhân tạo, năng suất thấp, thu nhập trên một đơn vị diện tích chưa cao. Người dân
chủ yếu nuôi cua bằng kinh nghiệm bản thân, việc chăn nuôi còn phụ thuộc nhiều vào
thời tiết, mùa vụ nên cũng có nhiều người làm giàu và cũng không ít người thất bại.
Nghề nuôi cua ở khu vực này rất cần đến sự hướng dẫn khoa học để nâng cao chất
lượng trong chăn nuôi và cải tiến nghề trở thành nghề nuôi chính quy, ổn định, đạt
hiệu quả kinh tế cao. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện chuyên đề “Trồng
rừng kết hợp nuôi cua biển”.
1.2 Nội dung
- Thiết kế mô hình nuôi.
- Chăm sóc và quản lý.
- Hạch toán kinh tế.
1.3 Mục tiêu
1
- Xác định được phần diện tích che phủ của cây rừng.
- Xác định mật độ nuôi cua thích hợp.


- Đạt hiệu quả kinh tế cao.
2
Phần 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học cua biển
2.1.1 Phân loại
Việc phân loại cua biển Scylla spp gặp rất nhiều khó khăn và nhằm lẫn đáng kể trong
nhiều thập kỷ qua. Gần đây, bằng phương pháp điện di và hình thái giải phẫu, Keenan
và ctv. (1998) đã đi đến kết luận cua biển giống Scylla có 4 loài phân biệt: Scylla
serrata, Scylla paramamosain, Scylla olivacea, Scylla stranquebarica.
Hình 2.1: Sylla olivacea và Sylla paramamosai
Hình 2.2: Scylla serrata và Scylla stranqebarica
3
Hệ thống phân loại cua biển giống Scylla như sau:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ: Portunidae
Giống: Scylla
Loài: Scylla serrata (Forskal, 1755).
Scylla paramamosain (Estampador, 1949)
Scylla olivacea (Herbst, 1796)
Scylla stranquebarica (Fabricius, 1798)
Tên tiếng việt : cua biển, cua sú , cua xanh, cua bùn.
Tên tiếng anh : mud-crab, green crab and mangrove crab.
2.1.2 Phân bố
Cua biển Scylla phân bố khắp khu vực Ấn Độ- Thái Bình Dương. Sự phân bố của
những loài này được tóm tắt qua bảng sau:
Bảng 2.1: Khu vực phân bố của các loài cua
Loài Khu vực phân bố


Scylla serrata
- Ấn Độ-Tây Thái Bình Dương, Hồng Hải, Nam Phi,
Tây Út, Biển Đông Út, Thái Bình Dương, đảo Friji,
Solomon và New Caledonia, Vịnh Carpentaria,
Philippines, Okinawa (Nhật Bản)
Scylla paramamosain -Đồng Bằng Sông Cửu Long (Việt Nam), Trung Java
(Indonesia), biển Nam Trung Quốc: Siamem, Hong
4
Kong, Singapore, Cambodia
Scylla olivacea - Ấn Độ Dương: Tây Úc, Phuket (Thái Lan), Karachi,
Pakistan
- Thái Bình Dương: Philippines, Thái Lan, Singapore,
Việt Nam, Malaysia, Nam Đài Loan
- Biển Arafura: Timo, Indonesia, Vịnh Carpentaria
Scylla stranquebarica - Ấn Độ Dương: Karachi, Pakistan, Penang, Malaysia
- Thái Bình Dương: đảo Panay, Philippines, biển Nam
Trung Quốc, Malaysia, Singapore.
Scylla serrata là loài cua lớn phân bố rộng ở vùng cửa sông khu vực Ấn Độ- Thái
Bình Dương. Scylla olivacea được tìm thấy phần lớn ở Philippines và Malaysia. Cả
Scylla olivacea và Scylla stranquebarica đều xuất hiện tập trung ở Biển Nam Trung
Quốc, nơi mà loài Scylla serrata hầu như không xuất hiện.
Ở Việt Nam, đặc biệt vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long có hai loài chủ yếu là Scylla
paramamosain (cua sen) và Scylla olivacea (cua lửa).
2.1.3 Đặc điểm sinh trưởng
Từ ấu trùng đến trưởng thành cua phải qua nhiều lần lột xác để sinh trưởng và biến
thái cấu tạo để đạt được hình dạng và cấu tạo thực thụ của cua. Cua đực tăng trưởng
nhanh hơn cua cái. Tăng tưởng trung bình của cua đực khoảng 1.3g/ ngày trong khi
cua cái chỉ tăng trưởng 0.9g/ngày. Trong ao nuôi, hiệu quả của cua đực cao hơn cua
cái trong thời gian cua còn nhỏ thì thời gian lột xác nhanh hơn cua trưởng thành .
Qúa trình tăng trưởng của cua biển thường ảnh hưởng bởi nhiệt độ. Loài cua biển

Scylla serrata phân bố rất rộng và ở những vùng vĩ tuyến cao cua chịu đựng nhiệt độ
nước thấp tốt. Ở vùng biển phía Nam nước ta cua biển thích nghi với nhiệt độ nước từ
25-29
0
C. Nhiệt độ cao thường ảnh hưởng xấu đến các hoạt động sinh lý của cua và
cũng là nguyên nhân gây chết.
5
Độ mặn cũng là nhân tố ảnh hưởng đến tính ăn của cua. Nhiệt độ và nồng độ muối có
ảnh hưởng lớn đến thời gian lột xác và tăng trưởng của cua. Nhiệt độ thấp hơn 24
0
C
và trên 34
0
C làm giảm tập tính ăn kéo dài thời gian lột xác của cua. Độ mặn thấp hơn
10‰ và trên 25‰ cũng làm giảm tập tính ăn, kéo dài thời gian lột xác của cua.
Thức ăn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sinh trưởng và phát triển
của cua biển nếu không đáp ứng được nhu cầu thức ăn của từng giai đoạn phát triển
khác nhau của chúng. Thức ăn chủ yếu của cua con (CW < 81-110 mm) ăn chủ yếu là
giáp xác, cua tiền trưởng thành (CW =70 -130 mm) thích ăn nhuyễn thể hai mảnh vỏ
và các loài chân bụng trong khi cua lớn hơn thường ăn cua nhỏ và cá. Cũng như hầu
hết các giáp xác, cua Scylla spp có tập tính kiếm ăn vào ban đêm và cặp bờ ao.
2.1.4 Đặc điểm sinh sản
2.1.4.1 Di cư và sinh sản
Hoạt động sinh sản của Scylla serrata xảy ra quanh năm ở vị độ thấp và theo mùa ở vị
độ cao. Ở vùng biển phía Nam nước ta cua thường bắt đầu di cư vào tháng 7, 8. Ở
vùng biển phía Bắc thì gặp cua ôm trứng vào tháng 4, 5- 6, 7. Trước mùa sinh sản
cua di cư ra vùng quen bờ, lột xác tiền giao vĩ và tuyến sinh dục tiếp tục phát triển cho
đến lúc trứng chín, để trứng ấp trứng phôi, ấu trùng nở ra khỏi vỏ trứng, rời cua mẹ.
Nguyên nhân cua buộc phải di cư từ vùng cửa sông ra biển là do yêu cầu về điều kiện
môi trường ở giai đoạn đầu tiên của ấu trùng zoea khi đến mùa sinh sản đoạn đường

di cư sinh sản của cua cái có thể từ 4 – 6 km, có khi đến 65 km.
Nhiệt độ và khả năng cung cấp thức ăn là những nhân tố quan trọng kích thích cơ thể
đẻ trứng.
2.1.4.2 Thành thục
Cua biển thành thục sau 1- 1,5 tuổi. Cua cái tham gia sinh sản khi có CW khoảng
120mm. Cua cái Scylla serrata thành thục ở kích thước nhỏ (CW = 100mm) trong khi
Scylla paramamosain thành thục ở kích thước lớn hơn (CW = 120mm).
6
2.1.4.3 Tập tính giao phối
Sự giao phối ở Scylla chỉ có thể xảy ra giữa con đực có vỏ cứng và con cái có vỏ mềm
trong thời gian cua cái lột xác tiền giao vĩ.
Hình 2.3: Cua giao phối
Trước khi lột xác để giao vĩ một vài ngày cơ thể cua cái tiết ra loại hoocmon để quyến
rủ con đực lúc này con đực sẽ bơi về phía cua cái và bắt cặp từng đôi, con đực dùng
ba đôi chân bò ôm lấy mặt lưng của con cái và cùng di chuyển với nhau vài ngày, khi
con cái sắp lột xác để chuẩn bị giao vĩ thì con đực sẽ rời con cái ra và tiếp tục bơi theo
con cái để bảo vệ vì cơ thể con cái còn rất mềm, lúc này con đực dùng chân bò lật
ngữa con cái, phần bụng (yếm) của chúng mở về phía sau và áp vào nhau, cơ quan
giao cấu của con đực có hình mũi kiếm ở gốc chân bụng thứ nhất sẽ gắn vào hai lỗ
sinh dục (lỗ đẻ) của con cái nằm ở gốc chân bò thứ ba. Sau khi giao phối, con đực
mang con cái dưới bụng trong thời gian một vài ngày cho đến khi con cái cứng vỏ và
có khả năng tự bảo vệ thì lập tức chúng tách nhau ra và con đực tìm nơi lẫn trốn nếu
không sẽ bị chính con cái đó ăn thịt. Việc bảo vệ con cái lúc mềm vỏ là đặc tính di
truyền của loài nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của loài.
7
Sau khi giao vĩ tinh trùng được lưu giữ ở hai gốc chứa tinh nằm ở bên trong, phía sau
tim của con cái, trong khoảng thời gian khá dài từ 1-2 tháng để thụ tinh khi con cái đẻ
trứng.
2.1.4.4 Sự đẻ trứng và thụ tinh
Cua cái sau khi giao phối, tế bào trứng tiếp tục sinh trưởng và chín, đẻ trứng và thụ

tinh. Khi đẻ trứng cua cái nằm ở đáy, dùng các chân bám vào nền đáy, phần đầu ngực
được nâng lên phần bụng (yếm cua) được mở ra, các chân bụng dựng đứng lên, trứng
chín qua ống dẫn trứng thụ tinh với tinh trùng. Trứng đẻ ra được chứa trong phần
bụng con cái có hai lớp màng, màng ngoài hút nước trương lên. Giữa hai lớp màng có
chứa niêm dịch nhờ cử động của phần bụng, trứng bám trên lông tơ của chân bụng và
do tác dụng của ngoại lực màng ngoài của trứng, kéo dài ra thành “cuốn trứng”, làm
cho trứng tuy dính vào lông của chân bụng nhưng vẫn “tự do” và trứng không dính lại
với nhau. Những cua cái ôm trứng gọi là cua trứng, trứng được cua cái ôm tiếp tục
phát triển cho đến lúc thành ấu trùng mới rời khỏi bụng cua, nên cũng gọi là cua con .
2.2 Tình hình nuôi cua biển ở Đồng bằng sông Cửu Long
8

×