Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.93 KB, 22 trang )

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG
SỬ DỤNG ORESOL


TÓM TẮT
Mục tiêu. Khảo sát kiến thức, thái độ, và quan sát kỹ năng sử dụng ORS
ở 85 bà mẹ có con bị bệnh TCC.
Phương pháp. Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang từ 85 bà mẹ có con bị
bệnh TCC tại Khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1 đến tháng 5 năm
2007 bằng bộ câu hỏi điều tra và quan sát theo bảng kiểm.
Kết quả. Nghiên cứu cho thấy: (1) 58,8% các bà mẹ biết một phần tác
dụng của ORS, 41,2% biết được 2 loại gói ORS có bán ở các hiệu thuốc, 72,9%
không biết thành phần gói ORS và 21,2% biết sai lượng dịch ORS cho trẻ uống
khi đang TCC; (2) 57,6% các bà mẹ biết đúng loại dịch thay thế ORS, nhưng
có tới 65,9% không biết cách cho trẻ ăn thêm khi trẻ đang bị TCC; (3) 69,4%
các bà mẹ dự trữ sẵn ORS ở nhà, 88,2% cho rằng ORS tốt cho con của họ và
94,1% chấp nhận sử dụng ORS nếu con của họ bị TCC lần sau; (4) 92,9% có
kiểm tra ORS trước khi pha, là 58,6% pha ORS đúng quy trình, có 89,4% các
bà mẹ cho uống ORS đúng; (5) Trong số các bà mẹ pha ORS sai có 100% các
bà mẹ chia nhỏ gói ORS ra để pha nhiều lần
Kết luận. Kết quả nghiên cứu này cho thấy: cần tiếp tục chương trình
CDD, tập trung vào thông tin về tác dụng ORS và cách nuôi dưỡng trẻ khi
tiêu chảy và cách pha ORS đúng quy cách để tránh những tai biến điều trị
đáng tiếc.
Từ chủ: Bà mẹ, kiến thức, kỹ năng, thái độ, tiêu chảy cấp, oresol.
ABSTRACT
KNOWLEDGE, ATTITUDE AND SKILL OF UTILIZATION OF
ORS IN MOTHERS
OF CHILDREN WITH ACUTE DIARRHEA ADMITTED IN BACH
MAI HOSPITAL
Phan Thi Cam Hang, Nguyen Van Bang


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 4 - 2007:
88 – 93
Objective. To assess knowledge, attitude and skill of mothers taking
care their children suffering from acute diarrhea by managing ORS.
Population and methods. This cross-sectional study was carried out
on a population of 85 young mothers.
* Bộ môn Nhi, ĐHYHN

Results. The study showed that: (1) 58.8% of mothers were aware of
usefulness of ORS, 41.2% were aware of at least 2 kinds of ORS packet
existing in the pharmacy, 72.9% ignored the composition of ORS packet and
21.2% ignored correct amount of ORS necessary to rehydrate a child with
acute diarrhea. (2) 57.6% of mothers had appropriate knowledge on other
solutions possible to use in case of shortage or lack of ORS; however, up to
65.9% lacked knowledge on adequate feeding a child with acute diarrhea.
(3) 69.4% of mothers got ORS packets at home, 88,2% considered that ORS
was helpful in diarreal children and 94.1% thinked of using ORS again if
their child suffered from diarrhea. (4) 92.9% of mothers checked the quality
of ORS packet before using, 58.6% knew how to prepare correctly solution
from the ORS packet, 89.4% of mothers knew how to rehydrate correctly
their child by ORS. (5) 100% of 29 mothers, who did not know to prepare
correctly the solution, devided the content of ORS packet into several
preparations.
Conclusion. Results from the study suggest that it’s primary and
crutial to maintain the program of Control of Diarrheal Disease focussing on
improvement of knowledge and skills of mothers in ORS usage during
taking care of their children with acute diarrhea.
Key-words: Acute diarrhea, attitude, knowledge, skill, oresol,
mothers.
ĐẶT VẤN ĐỀ

Tiêu chảy cấp (TCC) vẫn là một trong những bệnh nhiễm trùng phổ
biến nhất, là gánh nặng kinh tế xã hội đối với nhiều nước, nhất là các nước
đang phát triển. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), hàng năm có khoảng
gần 1 tỷ trẻ em dưới 5 tuổi bị tiêu chảy cấp. Trung bình mỗi trẻ mắc 1,3
lượt/năm, trong đó có hơn 3 triệu trẻ tử vong
(Error! Reference source not found.)
. Liệu
pháp điều trị phục hồi dịch và điện giải để điều trị và dự phòng mất nước do
tiêu chảy đã được hướng dẫn và tuyên truyền rộng rãi trên thế giới cũng như
ở Việt Nam
(Error! Reference source not found 9)
. Ở nước ta hiện nay, 90% trẻ em dưới
5 tuổi được bảo vệ bởi chương trình này
(6,7,10)
. Hiệu quả của liệu pháp này
phụ thuộc vào sự hiểu biết và nhất là sự chấp nhận và kỹ năng sử dụng dung
dịch oresol (ORS) của người mẹ hoặc của người chăm sóc trẻ. Vì vậy, việc
nâng cao kiến thức và kỹ năng thực hành của bà mẹ trong việc sử dụng ORS
đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong việc điều trị tiêu chảy ở trẻ. Đã có
khá nhiều nghiên cứu đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ
trong dự phòng và điều trị trẻ tiêu chảy ở Việt Nam
(1-7)
, nhưng chưa có nhiều
nghiên cứu đi sâu đánh giá riêng về kiến thức, thái độ và kỹ năng của các bà
mẹ trong việc sử dụng ORS để bù dịch và điện giải cho trẻ TCC. Vì vậy,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm (1) khảo sát kiến thức và thái độ
của các bà mẹ có con bị tiêu chảy cấp đối với việc sử dụng ORS, (2) đánh
giá kỹ năng sử dụng ORS của các bà mẹ khi trẻ đang bị tiêu chảy cấp được
điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

Đối tượng nghiên cứu
Là các bà mẹ có con dưới 5 tuổi bị TCC vào điều trị tại khoa Nhi bệnh
viện Bạch Mai từ tháng 1 đến tháng 5-2007. Khảo sát kiến thức và thái độ
trong việc sử dụng ORS của bà mẹ bằng nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang,
dựa vào bộ câu hỏi được xây dựng theo mục tiêu nghiên cứu
(1,Error! Reference source
not found.,6)
. Đánh giá kỹ năng sử dụng ORS của các bà mẹ được dựa vào các
bảng kiểm đã được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây ở Việt Nam và trên
thế giới
(1,7,8-10)
. Xử lí số liệu theo phần mềm Epi Info 6.0
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 1 đến tháng 5-2007 có 85 trẻ
dưới 5 tuổi bị TCC vào điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai trong đó 56
trẻ trai (66%), 43 trẻ (50,6%) dưới 12 tháng, 30 (35,3%) từ 12-24 tháng, 39
trẻ mất nước độ A (46%), 45 trẻ độ B (53% và 1 trẻ mất nước độ C. Đặc
điểm của các đối tượng nghiên cứu được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1 Đặc điểm cơ bản của 85 bà mẹ có con TCC trong nhóm
nghiên cứu
Đặc
điểm
Phân
loại
n

Tỷ
lệ %
 30
tuổi

58 68,2

Tuổi
mẹ
>30
tuổi
27 31,8

Trình
đ
ộ văn hóa
Phổ
thông
25 29,4

Trung
h
ọc, cao
đẳng
24 28,2

mẹ
Đại
học, trên đ
ại
học
36 42,2

Lao
đ

ộng gián
ti
ếp (trí
th
ức, văn
phòng)
56 65,9

Ngh

nghiệp mẹ
Nghề
khác
29 34,1

Kết quả khảo sát về kiến thức, thái độ và kỹ năng sử dụng ORS của
các bà mẹ được trình bày trong các bảng 2,3,4. Những sai sót chủ yếu trong
việc sử dụng ORS của các bà mẹ trình bày trong bảng 5. Bảng 6 trình bày
kết quả đánh giá một số yếu tố liên quan đến kỹ năng sử dụng ORS của các
bà mẹ.
Bảng 2. Kiến thức sử dụng ORS của 85 bà mẹ trong nhóm nghiên cứu
Ki
ến
thức
Phân
loại
n

Tỷ
lệ %

Bi
ết 1
loại
12

14,1
Bi
ết 2
loại
35

41,2
Bi
ết 3
loại
6 7,1
Biết
loại ORS
Không
biết
32

37,6
Đúng
hoàn toàn
0 0
Đúng
một phần
22


25,9
Biết
thành ph
ần
gói ORS
Sai 1 1,2
Ki
ến
thức
Phân
loại
n

Tỷ
lệ %
Không
biết
62

72,9
Đúng
hoàn toàn
12

14,1
Đúng
một phần
48

56,5

Sai 18

21,2
Biết

ợng ORS
cho tr

uống
Không
biết
7 8,2
Đúng 29

34,1Biết
ti
ếp tục
cho ăn
ho
ặc bú
sữa mẹ
Sai 56

65,9
Bảng 3. Thái độ của 85 bà mẹ đối với việc sử dụng ORS khi trẻ bị
TCC
Thái
độ
Phân
loại

n

Tỷ
lệ%
Có 59 69,4Có
s
ẵn ORS ở
nhà
Không

26 30,6
Tốt 75 88,2
Chưa
tốt
5 5,9
Không
tốt
0 0
Đánh
giá tác
d
ụng điều
tr
ị TCC
bằng ORS
Khôn
g
biết
5 5,9
Ch

ấp
nh
ận sử
d
ụng ORS
Tiếp
tục d
ùng
ORS
80 94,1
Chưa
biết
4 4,7
khi tr
ẻ bị
TCC l
ần
sau
Không
dùng nữa
1
*

1,2
Bảng 4. Kỹ năng sử dụng ORS của 70 bà mẹ có con TCC được quan
sát
Kỹ
năng
Phân
loại

n

Tỷ
lệ%
Có 65

92,9Ki
ểm
tra gói ORS
trư
ớc khi
pha
Không

5 7,1
Biết
≥2 biểu hiện

23

35,4
Nh
ận
bi
ết chất

ợng gói
ORS
Bi
ết 1

biểu hiện
40

61,5
Không
biết
2 3,1
Đúng 41

58,6
Theo
đúng quy
trình pha
ORS
Sai 29

41,4
Đúng
hoàn toàn
36

42,4
Đúng
một phần
41

48,2
Cho
u
ống ORS

đúng cách
Sai 8 9,4
Bảng 5. Các sai sót trong cách pha và cho uống ORS của 29 bà mẹ
K

năng sai
Phân
loại
n

Tỷ
lệ %
Khi
pha ORS

Không
rửa tay
4 13,8
K

năng sai
Phân
loại
n

Tỷ
lệ %
Không
tráng d
ụng

cụ
1 3,4
Đo
lượng nư
ớc
không chính
xác
7 24,1
Không
pha c
ả gói
ORS trong 1
lần pha
29 100

Kh
ông
đậy nắp bình

6 20,7
Dùng
quá 24 giờ
1 3,4
K

năng sai
Phân
loại
n


Tỷ
lệ %
Chọn
dụng cụ sai
13 26,5
X
ử trí
sai khi tr

không ch
ịu
uống
17 34,7
Khi
cho tr

uống
ORS
X
ử trí
sai khi tr

nôn
20 40,8
Bảng 6. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng sử dụng ORS của các bà
mẹ
Các yếu tố ản
h
hưởng
Sử dụng ORS đúng


Ki
ểm
tra (n=65)
Pha
(n=70)
Cho
uống
(n=85)

30
tuổi
14/43

27/47 24/58

Tuổi
mẹ
>30
tuổi
9/22 14/23 12/27

Lao
đ
ộng gián
tiếp
19/48

33/50*


26/56

Ngh

mẹ
Ngh

khác
4/17 8/20 10/29

Phổ
thông
1/13*

6/15 11/25

Học
vấn mẹ
CĐ,
ĐH
22/52

35/55 35/60

Lần
đầu
21/59

35/63 32/78


Lần
điều trị
Lần
thứ 2
2/6 6/7 4/7
Lần
đầu
11/32

22/41 23/48

Lần
TCC
Lần
thứ 2
12/33

19/29 13/37

* p<0,05
BÀN LUẬN
Khi được hỏi về tác dụng của ORS, chỉ có 21,2% các bà mẹ trả lời
đúng là ORS dùng để bù nước và điện giải; 58,8% các bà mẹ trả lời được
một phần tác dụng của ORS như chống mất nước, bù nước. Có 2,4% trả lời
sai như làm ngừng tiêu chảy, hạ sốt, giữ nước, tăng sức đề kháng. Có tới
17,6% các bà mẹ không biết ORS có tác dụng gì, do vậy vẫn cần nâng cao
hiểu biết của bà mẹ hơn nữa để họ có thể sử dụng ORS để điều trị và phòng
bệnh TCC chủ động hơn. Khi được hỏi về thành phần gói ORS chỉ có 11 bà
mẹ (12,9%) trả lời đuợc là có muối, đường và điện giải, trong khi nghiên
cứu tại Nigeria có 1/3 số người được hỏi có sử dụng ORS và hơn 80% trong

số đó biết thành phần gói ORS
(8)
. Đa số các bà mẹ đều không trả lời chính xác
lượng ORS cần cho uống là bao nhiêu, các câu trả lời hầu hết là 1,2 gói một
ngày, 200-500ml mỗi ngày. Chỉ có 14,1% các bà mẹ biết đúng cần phải cho ntrẻ
uống bao nhiều khi vẫn tiêu chảy cấp. Tỷ lệ này là rất thấp, tương đương như
trong nghiên cứu ở Zimbabwe và Thái Lan
(9)
.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 57,6% các bà mẹ biết loại dịch
thay thế ORS đúng như nước cháo muối, nước đường muối, nước lọc, nước
hoa quả. Có 11,8% các bà mẹ biết sai như nước muối pha loãng, nước
đường pha đậm đặc, nước quả hồng xiêm rang hay các loại nước chế biến từ
các vị thuốc đông y có tác dụng cầm ỉa và 30,6% các bà mẹ không biết loại
dịch thay thế ORS. Lâm Văn Thư (1998) nghiên cứu tại Lạng Sơn thấy có
18,5% và Lê Nguyễn Ngọc (2000 tại Cao Bằng) thấy 34% biết dùng nước
cháo muối tại nhà khi con bị tiêu chảy; Ngô Thị Thanh Hương (2004 tại Đak
Lak), thấy 37,72% biết dùng dung dịch thay thế
(6)
. Tuy tỷ lệ các bà mẹ biết
dịch thay thế trong nghiên cứu của chung tôi có cao hơn các nghiên cứu tên
đây, nhưng vẫn còn 30,6%) các bà mẹ chưa biết dịch thay thế trong nghiên
cứu này cho thấy vẫn cần tiếp tục tuyên truyền giáo dục, thậm chí cần hướng
dẫn các bà mẹ về các dung dịch thay thế ORS tại nhà cũng như cách pha chế
các loại dịch đó đúng cách để chương trình phòng chống tiêu chảy cấp và
điều trị mất nước đạt hiệu quả như mong muốn.
Một trong những nguyên tắc quan trọng của điều trị TCC tại nhà đó là
cho trẻ ăn nhiều thức ăn giàu dinh dưỡng để đề phòng suy dinh dưỡng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 34,1% các bà mẹ trả lời đúng c ỏch
cho trẻ ăn khi đang bị TCC. Đa số các bà mẹ đều cho con ăn ít hơn bình

thường hoặc chỉ cho ăn cháo loãng. Nguyễn Thị Như Mai nghiên cứu năm
2006 tại viện Nhi Trung ương thấy tỉ lệ cho ăn đúng là 71,8%
(Error! Reference
source not found.)
. Qua đó ta thấy việc tuyên truyền giáo dục bà mẹ cho trẻ ăn
đúng cách khi bị TCC cần được tăng cường hơn nữa, bởi thói quen không
cho trẻ ăn đủ chất khi bị TCC hoặc ăn ít hơn bình thường, thậm chí không
cho ăn vì sợ trẻ đi ngoài nhiều hơn, đã làm giảm hiệu quả điều trị TCC
Một trong những tiêu chí mà chúng tôi cho là để đánh giá thái độ của bà
mẹ đối với việc sử dụng ORS đó là việc các bà mẹ có dự trữ sẵn ORS ở nhà.
Kết quả cho thấy có 59 bà mẹ (69,4%) có sẵn ORS ở nhà. Khi được hỏi ORS
có tốt cho trẻ khi bị TCC không, có 88,2% các bà mẹ trả lời ORS tốt, 5,9%
trả lời ORS chưa tốt lắm và 5,9% trả lời không biết ORS có tốt không. Như
vậy, việc nâng cao hiểu biết cho các bà mẹ là cần thiết để họ có kiến thức
đầy đủ về ORS hơn, chấp nhận sử dụng thường xuyên hơn. Đa số các bà mẹ
(94,1%) trả lời là sẽ tiếp tục dùng với các lí do như họ thấy ORS tốt hay các
bác sĩ khuyên nên dùng. Có 4,7% các bà mẹ không biết sẽ dùng hay không
với lí do chờ ý kiến của bác sĩ, hay nếu điều trị lần này khỏi thì lần sau sẽ
dùng tiếp, chỉ có 1,2% các bà mẹ trả lời sẽ hỏi ý kiến bác sĩ trước mà không
dùng ORS ngay. Qua đó ta thấy rằng việc điều trị tại bệnh viện có sự hướng
dẫn của nhân viên y tế đem lại lòng tin cho các bà mẹ nen h? chấp nhận việc
sử dụng ORS một cách dễ dàng hơn.
Trong số các bà mẹ được phỏng vấn có 82,4% đã từng sử dụng ORS ít
nhất là một lần. Kết quả này cao hơn kết quả của Ngô Thị Thanh Hương năm
2004 tại Đak Lak (56,2%) và của Bùi Thị Thúy Ái năm 2000 tại Thanh Xuân,
Hà Nội (56,2%)
(1,6)
. Khi quan sát 70 bà mẹ đã từng pha ORS, có 65 bà mẹ
chiếm 92,9% có kiểm tra gói ORS trước khi pha, trong số các bà mẹ kiểm tra
gói ORS có 35,4% các bà mẹ nhận biết từ 2 biểu hiện trở lên của gói ORS

không đảm bảo chất lượng để bỏ gói ORS ấy đi không dùng. Có 61,5% các bà
mẹ chỉ nhận biết được một biểu hiện và 3,1% dù có kiểm tra nhưng không nhận
biết được. Đa số các bà mẹ đều biết không được dùng khi gói ORS đã quá hạn
nhưng lại không biết cách phát hiện gói ORS thủng, rách từ trước, màu chất
ORS thay đổi, chất ORS vón cục hay khi pha ra nếm thấy có vị khác lạ. Tỉ lệ
các bà mẹ biết kiểm tra gói ORS trước khi pha ORS trong nghiên cứu này là
tương đối cao.
Trong số 70 bà mẹ được quan sat khi pha ORS, có 41 bà mẹ (58,6%)
pha đúng tất cả các bước rửa tay và tráng dụng cụ pha, dụng cụ chứa, đồ
dùng để uống trước khi pha ORS, đo lượng nước chính xác, dùng nước sôi
để nguội, pha cả gói ORS trong một lần pha, đậy nắp bình và dụng cụ chứa,
chỉ dùng dung dịch đã pha trong 24 giờ. Tỉ lệ này tương đương với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Thị Như Mai (2006) có 54,5% pha dung dịch ORS
đúng
(7)
. nhưng cao hơn trong nghiên cứu của Lưu Thị Minh Châu (2001) có
39% các bà mẹ pha dung dịch ORS đúng
(4)
. Trong số 29 bà mẹ pha dung
dịch ORS sai trong nghiên cứu của chúng tôi, có 100% các bà mẹ chia nhỏ
gói ORS ra để pha nhiều lần. Mặc dù tỉ lệ này không cao (so với các bà mẹ
biết cách pha đúng) nhưng chúng tôi cho rằng cần nâng cao trình độ hiểu
biết của các bà mẹ hơn nữa để tránh tình trạng dù bà mẹ có biết dung dịch
ORS nhưng lại không biết cách pha đúng liều lượng khiến cho trẻ bị rối loạn
nước và điện giải, đặc biệt là ngộ độc muối rất nguy hiểm, khó điều trị do
pha ORS quá đặc. Trong nghiên cứu của chúng tôi có trường hợp bệnh nhi
Vũ Anh D. 15 tháng tuổi vào viện trong tình trạng mất nước nặng do mẹ cho
uống nước quả hồng xiêm rang và nước đường đậm đặc. Kết quả điện giải
đồ ngày đầu tiên vào viện của bệnh nhi đó như sau: Na
+

: 161 mmol/l, K
+
:
2,5 mmol/l, Cl
-
: 137mmol/l.
Chúng tôi có thử tìm hiểu sự tác động của một số thông số nghiên cứu lên
kỹ năng sử dụng ORS của các bà mẹ có con TCC được nghiên cứu, nhưng chỉ
thấy có vai trò của học vấn của bà mẹ (các bà mẹ học trên phổ thông có kỹ năng
kiểm tra gói ORS tốt hơn) và của nghề nghiệp mẹ (các bà mẹ làm lao động văn
phòng, trí thức có tỷ lệ pha đúng ORS cao hơn các bà mẹ lao động tay chân). Tuy
nhiên, cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn bé, nên việc đánh giá tác động của
các yếu tố ảnh hưởng còn rất hạn chế. Cần có nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để
đánh giá chính xác và sâu hơn về lĩnh vực này.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang khảo sát kiến thức, thái độ, và quan sát
kỹ năng sử dụng ORS ở 85 bà mẹ có con bị bệnh TCC tại Khoa Nhi Bệnh
viện Bạch Mai từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2007 chúng tôi thu được kết quả
như sau:
- Có 58,8% các bà mẹ biết một phần tác dụng của ORS, 41,2% biết
được 2 loại gói ORS có bán ở các hiệu thuốc, 72,9% không biết thành phần
gói ORS và 21,2% biết sai lượng dịch ORS cho trẻ uống khi đang TCC.
- Có 57,6% các bà mẹ biết đúng loại dịch thay thế ORS, nhưng có tới
65,9% không biết cách cho trẻ ăn thêm khi trẻ đang bị TCC.
- Có 69,4% các bà mẹ dự trữ sẵn ORS ở nhà, 88,2% cho rằng ORS tốt
cho con của họ và 94,1% chấp nhận sử dụng ORS nếu con của họ bị TCC
lần sau.
- Có 92,9% có kiểm tra ORS trước khi pha, là 58,6% pha ORS đúng
quy trình, có 89,4% các bà mẹ cho uống ORS đúng.
- Trong số các bà mẹ pha ORS sai có 100% các bà mẹ chia nhỏ gói ORS ra

để pha nhiều lần
Qua kết quả nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy: còn một tỷ lệ khá
lớn bà mẹ chưa có đủ kiến thức về thành phần, tác dụng của ORS và nhất là
cách cho trẻ ăn trong và sau tiêu chảy. Cần tiếp tục chương trình CDD, tập
trung vào thông tin về tác dụng ORS và cách nuôi dưỡng trẻ khi tiêu chảy.
Mặt khác, cần có thêm những thông tin cụ thể về những tai nạn do sử dụng
ORS sai để giúp bà mẹ tránh những tai biến điều trị đáng tiếc.

×