World AIDS Day 
1December 2012 
Newspaper : Viet Nam News 
Date : December 1, 2012 
Page : 3 
 
 
 
Newspaper : VN Express 
Date : December 1, 2012 
Page/Link :  
 
The innocent victims of HIV 
Những nạn nhân vô tội của HIV 
Nhận viên thuốc từ tay bà, không cho ngay vào miệng, nước mắt Trâm chảy dài trên đôi gò má đen 
xạm vì biến chứng HIV. Sự sống của cô bé 11 tuổi mồ côi cha mẹ chỉ còn tính bằng ngày. 
>Trẻ nhiễm HIV bị từ chối đến trường/Nạn kỳ thị đẩy trẻ nhiễm HIV ra ngoài trường học 
Thấy cháu chần chừ không chịu uống thuốc và khóc, bà Sáu - ngoại của Trâm cũng khóc 
theo. Bà kéo cô cháu gái vào lòng: “Ráng uống thuốc đi con. Uống hết bệnh để còn về mà đi 
học với bạn bè”. Có lẽ không muốn bà phải khóc thêm, cô bé cho nửa viên thuốc vào miệng, 
ực nước thật nhanh rồi tháo tay bà để ra phía hành lang bệnh viện nhìn xuống khoảng sân đầy 
nắng. 
 
Trẻ nhiễm HIV sẽ gặp nhiều rào cản trong cuộc sống. Điều này 
có thể được khắc phục nếu mẹ xét nghiệm máu khi mang thai và 
con được điều trị sớm. Ảnh: Thiên Chương. 
Mắc bệnh từ khi mới lọt lòng, bố mẹ lần lượt qua đời, 8 tuổi thì các triệu chứng bùng lên, ba 
năm nay Trâm phải nằm bệnh viện cùng bà ngoại. 
Bích Trâm chào đời tại Bình Phước năm 2001, chị Thúy mẹ Trâm khi ấy là cô công nhân cạo 
mủ cao su cho công trường. Người phụ nữ mới ngoài 20 không hề biết chồng mình nhiễm 
HIV nên cứ vô tư mang thai rồi sinh con. 
“Nhà nghèo quá, con gái tôi mang bụng bầu đi làm, nó chỉ khám thai thông thường mà không 
một lần thử máu hay làm xét nghiệm. Khi con bé được 7 tuổi thì hai vợ chồng nó lần lượt qua 
đời. Tôi sợ quá đưa con bé đi về Sài Gòn khám mới biết nó cũng mắc bệnh”, bà Sáu kể. 
Theo tư vấn của bác sĩ, Trâm được điều trị ngoại trú bằng cách mang thuốc về nhà uống và 
tái khám theo lịch. Việc chữa trị kéo dài chưa đến một năm thì cô học sinh lớp 2 phải bỏ học 
để nhập viện vì chứng sốt cao kéo dài kèm tiêu chảy. 
“Con phải vô bệnh viện thường xuyên đã 3 năm rồi, lần nào bà cũng nói uống thuốc cho mau 
khỏi bệnh để được về đi học. Nhưng con biết bệnh con nặng lắm. Bà chỉ nói vậy thôi”, Trâm 
nói. 
Tại khoa Nhiễm - Thần Kinh, Bệnh viện Nhi Đồng 1, TP HCM, Trâm không phải là trường 
hợp duy nhất biết mình nhiễm HIV. Mỗi năm có đến hàng trăm bé mắc bệnh tương tự. Phát 
hiện sớm thì sau sinh vài ba tháng, chậm thì năm bảy năm sau khi chào đời, khi mà các bệnh 
đã bắt đầu đồng loạt bùng lên dữ dội. Minh Dũng là một trong những trường hợp như vậy. 
Chào đời tại trạm y tế của một xã nghèo thuộc huyện Cần Giuộc, Long An, mẹ Dũng cũng 
không biết mình nhiễm HIV trước khi mang thai nên không hề đi thử máu và vô tư sinh nở. 
"Mãi đến khi con được 3 tuổi, chồng tôi có những triệu bệnh và thừa nhận đã sang AIDS, đi 
xét nghiệm, tôi mới tá hỏa mình cũng bị lây. Từ đó, tôi im lặng nuôi hy vọng con mình không 
nhiễm. Thế nhưng việc gì đến đã đến, một năm trước bé bắt đầu vào sốt kéo dài", mẹ bé cho 
biết. 
Không biết mình bị bệnh hiểm nghèo vì bố mẹ giấu kín, Dũng vẫn tin chắc mình sẽ mau 
được xuất viện trở về nhà để được đến trường. "Ba năm liền con đã được học sinh giỏi, năm 
nay con nhất định sẽ tiếp tục học giỏi để ba mẹ vui", câu nói của cậu con trai khiến người bố 
gầy gò vì bệnh và người mẹ trẻ nhìn nhau rơm rớm. Bởi hơn ai hết, họ là những người hiểu rõ 
bản chất của căn bệnh này. 
Nhập viện được gần 6 tháng, hiện Dũng vẫn còn phải điều trị cho dứt những bệnh do HIV 
gây nên trước khi các bác sĩ quyết định phác đồ điều trị lâu dài. Đây là một trong những 
trường hợp nhập viện muộn khiến việc không chế bệnh gặp nhiều khó khăn. 
Bác sĩ Trương Hữu Khanh, Trưởng khoa Nhiễm - Thần Kinh cho biết, hoàn cảnh của 
Dũng, của Trâm đã trở nên quá quen thuộc. Mỗi năm bệnh viện này tiếp nhận 80-100 ca 
nhiễm mới, trong số ấy có 10-20 bé phải tử vong, có bệnh nhi vừa chuyển đến bác sĩ chẩn 
đoán xong thì đã chết. 
"Hầu hết các trường hợp đều do mẹ nhiễm HIV mà không biết, một số trường hợp mẹ biết 
mình nhiễm bệnh nhưng nghĩ con mình chắc chắn nhiễm nên bỏ qua, không thăm khám để 
điều trị dự phòng", bác sĩ Khanh nói. 
Không chỉ bị đe dọa tính mạng, trẻ mắc HIV còn dễ rơi vào tình cảnh cô đơn bởi có đến 60% 
trẻ nhiễm HIV không còn đủ cha lẫn mẹ. "Phần lớn các bé phải sống với bố hoặc mẹ bệnh tật 
chờ chết hoặc sống với ông bà đã già yếu. Đó là chưa kể các em còn phải chịu sự kỳ thị của 
xã hội", bác sĩ Khanh nói. 
Để tránh hạn chế tình trạng trẻ sơ sinh mắc HIV, bác sĩ Khanh khuyên các bà mẹ nên xét 
nghiệm máu khi mang thai. "Nếu can thiệp tốt, chỉ khoảng 3% trẻ có mẹ nhiễm HIV bị nhiễm 
bệnh khi chào đời. Còn số này sẽ tăng lên gấp 10 lần nếu không được tầm soát", bác sĩ Khanh 
nói. 
Tại TP HCM, đại diện Ủy ban phòng chống HIV/AIDS cho biết, thai phụ có thể đến thăm 
khám và xét nghiệm máu tại các cơ sở y tế. Kết quả xét nghiệm sẽ được bảo mật tuyệt đối. 
Nếu xét nghiệm dương tính HIV, thai phụ sẽ được tham gia chương trình phòng ngừa lây 
truyền từ mẹ sang con để được điều trị dự phòng. 
Tại Việt Nam, số ca nhiễm mới HIV đã giảm xuống trong vòng ba năm qua. Tuy nhiên, trong 
khi tỷ lệ nhiễm mới ở nam giới đang trên đà giảm thì ở một số tỉnh phía Bắc và đồng bằng 
sông Cửu Long, số ca nhiễm mới ở phụ nữ lại tăng lên, ông Jesper Moller, Phó đại diện Quỹ 
Nhi đồng Liên Hợp Quốc tại Việt Nam cho biết. 
Điều trị cho những phụ nữ mang thai nhiễm HIV không chỉ giúp họ sống sót và sống tốt mà 
còn giúp dự phòng lây nhiễm cho con họ trong quá trình mang thai, sinh nở và cho con bú. 
Điều trị cũng giúp phòng chống lây nhiễm qua đường tình dục từ phụ nữ nhiễm HIV sang 
bạn tình không nhiễm. 
Newspaper : Gia Dinh va Xa Hoi (Family and Society) 
Date : December 1, 2012 
Page/Link :  />em-nhiem-hiv-can-duoc-dieu-tri.htm 
HIV+ pregnant women and children need treatment 
Phụ nữ mang thai và trẻ em nhiễm HIV 
cần được điều trị 
GiadinhNet - Tỉ lệ nhiễm HIV mới ở trẻ em đã giảm xuống, tuy nhiên, để đạt được mục tiêu một 
thế hệ mới không có HIV thì cần phải điều trị cho phụ nữ mang thai và trẻ em có HIV - Giám 
đốc Điều hành UNICEF Anthony Lake cho biết, nhân Ngày Thế giới phòng chống HIV/AIDS 
1/12/2012. 
Nhờ mức độ cam kết toàn cầu đáng khích lệ, các ca nhiễm HIV mới ở trẻ em trên toàn thế giới đã 
giảm xuống 24%, từ 430.000 trẻ em nhiễm HIV năm 2009 xuống còn 330.000 trẻ em nhiễm HIV năm 
2011. Kể từ tháng 12/2011, có thêm hơn 100.000 trẻ em nhiễm HIV được điều trị ARV so với năm 
2010. 
Mặc dù có những tiến bộ như vậy, tỉ lệ trẻ em và phụ nữ mang thai nhiễm HIV được điều trị ARV vẫn 
thấp hơn 1/3, so với tỉ lệ trung bình toàn cầu ở người lớn nói chung là 54%, điều này có nghĩa là 
những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong xã hội cũng lại là những đối tượng ít được nhận những 
điều trị cần thiết hơn.  
Sinh viên TP Cần Thơ tuyên truyền thông điệp "Xét nghiệm HIV 
để bảo vệ chính mình và người thân" tại mittinh hưởng ứng Ngày 
Thế giới phòng chống HIV/AIDS. Ảnh: Phượng Hoàng. 
“Người lớn có khả năng được điều trị theo nhu cầu cao hơn gấp 2 lần trẻ em là hoàn toàn không hợp 
lý” - Giám đốc Điều hành UNICEF Anthony cho hay: “Theo định nghĩa, một thế hệ không có AIDS 
có làm được hay không phụ thuộc vào việc bảo vệ những đối tượng trẻ tuổi nhất và dễ bị tổn thương 
nhất khỏi bị nhiễm HIV. Chúng ta cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để giúp những bà mẹ và trẻ em đang 
sống chung với HIV có thể được sống mà không có AIDS. Chúng ta cần cống hiến nhiều hơn nữa để 
tăng số phụ nữ mang thai và trẻ em được xét nghiệm và điều trị thông qua các chương trình cơ bản về 
sức khỏe thai sản và trẻ em”. 
Mặc dù tỉ lệ phụ nữ mang thai bị nhiễm HIV ở Châu Á – 
Thái Bình Dương thấp, quy mô dân số nổi trội của khu vực, 
khoảng 69 triệu người mang thai mỗi năm, đòi hỏi sự quan 
tâm lớn hơn và hành động mạnh mẽ hơn. Tại Việt Nam, số ca 
nhiễm mới đã giảm xuống theo từng năm trong vòng 3 năm 
qua và cho thấy những nỗ lực lớn của trung ương và cấp tỉnh 
trong việc phòng chống HIV bắt đầu mang lại kết quả. 
“Tuy nhiên, phụ nữ và trẻ em vẫn còn là những đối tượng đặc 
biệt dễ bị tổn thương; trong khi tỉ lệ nhiễm mới ở nam giới 
đang trên đà giảm, ở một số tỉnh phía Bắc và Đồng bằng sông 
Cửu Long, số ca nhiễm mới ở phụ nữ lại tăng lên và nhiều 
phụ nữ ở các vùng xa xôi hẻo lánh gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ điều trị và chăm 
sóc.” - Ông Jesper Moller - Phó Đại diện UNICEF Việt Nam cho biết. 
Việt Nam đã mở rộng cung cấp điều trị ARV để duy trì mạng sống cho các bệnh nhân HIV/AIDS với 
sự hỗ trợ của các nhà tài trợ. Nhu cầu điều trị ARV tăng lên đáng kể trong vài năm tới nhưng khả 
năng cung ứng thuốc không đủ đáp ứng nhu cầu tăng lên. UNICEF hiện đang phối hợp với các đối tác 
LHQ và các Tổ chức phi chính phủ khác nhằm xây dựng các giải pháp cho vấn đề này, duy trì trọng 
tâm đặc biệt vào nhu cầu đảm bảo tiếp cận đại trà và miễn phí thuốc ARV cho trẻ em và phụ nữ mang 
thai. 
Tại Hội thảo Sơ kết 3 năm thực hiện Quyết định số 
84/2009/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch 
Hành động Quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đến 
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 tại Hà Nội ngày 
17/11/2012, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã 
nhấn mạnh một lĩnh vực khác cần quan tâm mà UNICEF Việt 
Nam đã và đang nỗ lực giải quyết: Đó là sự kỳ thị và phân biệt 
đối xử với trẻ em sống với HIV và tác động của kỳ thị và phân 
biệt đối xử với khả năng trẻ em nhiễm HIV được đi học. 
“UNICEF Việt Nam sẽ hợp tác với các đối tác chính phủ có liên 
quan ở cấp trung ương và cấp tỉnh nhằm nâng cao nhận thức về 
vấn đề này và xây dựng những hướng tiếp cận thực tế đối với 
giải pháp này” - ông Moller nói thêm. 
Điều trị cho những phụ nữ mang thai nhiễm HIV không chỉ giúp họ sống sót và sống tốt mà còn giúp 
dự phòng lây nhiễm HIV cho con họ trong quá trình mang thai, sinh nở và cho con bú. Điều trị cũng 
giúp phòng chống lây nhiễm qua đường tình dục từ phụ nữ nhiễm HIV sang bạn tình không nhiễm 
HIV. 
Những nỗ lực chấm dứt tình trạng nhiễm mới ở trẻ em đến năm 2015 và giúp các bà mẹ có HIV sống 
sót là một thành tố quan trọng trong khuôn khổ cam kết chung của UNICEF đối với sự sống còn của 
trẻ em theo phong trào toàn cầu, “Một lời hứa tiếp tục được gìn giữ”. 
 Hà Anh 
Trong khi các quốc gia có thu 
nhập cao từ lâu vẫn duy trì mức 
độ bao phủ gần như phổ cập các 
thuốc kháng vi rút cho phụ nữ 
mang thai, ở các quốc gia thu 
nhập thấp và trung bình, độ bao 
phủ cần thiết để dự phòng lây 
nhiễm từ mẹ sang con chỉ đạt 
57%, trong đó, khu vực Châu Á có 
độ bao phủ thậm chí còn thấp 
hơn, ở mức 18%. 
Tại Việt Nam, UNICEF đã hỗ 
trợ Bộ Y tế lồng ghép dự phòng 
lây nhiễm HIV từ mẹ sang con 
vào hệ thống chăm sóc sức 
khỏe sinh sản và sức khỏe bà 
mẹ và trẻ em chính thức. Điều 
này sẽ mang lại hiểu quả cao 
hơn trong việc cung cấp các 
dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh 
sản và sức khỏe bà mẹ - trẻ em 
và giảm gánh nặng chi phí lên 
Chính phủ nếu không thực hiện 
lồng ghép như hiện nay.