Câu chuyện xét nghiệm iốt trong
nước tiểu
Bệnh bướu cổ (BC) và các rối loạn do thiếu iốt (RLTI) là một
bệnh nội tiết và chuyển hoá phổ biến nhất hiện nay trên toàn
thế giới. Vấn đề được quan tâm hơn cả là thiếu iốt cơ thể bị
một số rối loạn và bệnh lý như: bướu cổ, thiểu năng giáp,
chậm phát triển trí tuệ, đần độn, chậm phát triển thể chất,
tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ nhỏ và sảy thai Điều này ảnh
hưởng rất lớn tới sự duy trì và phát triển nòi giống cả về thể
chất lẫn trí tuệ, từ đây ảnh hưởng tới các mặt hoạt động kinh
tế, văn hoá xã hội, quốc phòng của quốc gia.
Động học xúc tác làm chuyển mình công tác PCCRLTI
Để đánh giá và phân loại tình trạng thiếu iốt,
có nhiều tiêu chí quan trọng nhưng không
thể thiếu được tiêu chí hàm lượng iốt trong
nước tiểu (gọi là iốt niệu). Tiêu chí này cho biết lượng iốt được
cơ thể thu nhận trong ngày.
Có nhiều kỹ thuật định lượng iốt niệu. Để phục vụ dịch tễ học và
cộng đồng, các nhà chuyên môn (dịch tễ và hoá học) đã thống
Mẫu nước tiểu xét
nghiệm iốt.
nhất định lượng iốt niệu bằng phương pháp động học xúc tác,
trong đó iốt đóng vai trò là một chất xúc tác là thích hợp hơn cả.
Tuy nhiên xét nghiệm iốt niệu bằng kỹ thuật động học xúc tác là
một trong những xét nghiệm hoá sinh khó. Cuối năm 1990, BVNT
cử BS. Nguyễn Trí Dũng sang Bỉ học về kỹ thuật định lượng iốt
niệu (phương pháp G) và về ứng dụng tại BVNT. Năm 1993,
UNICEF sang làm việc với Bộ Y tế và BVNT có dành thời gian
thăm và kiểm tra labo iốt niệu. Với 34 mẫu nước tiểu được chia
làm 2, phía Việt Nam (labo iốt niệu BVNT) định lượng iốt trước và
giao cho UNICEF kết quả định lượng. Phía UNICEF đưa các mẫu
nước tiểu này cho một labo iốt niệu chuẩn của họ đặt tai Lubec
(CHLB Đức). Văn phòng Trung ương của UNICEF đã so sánh kết
quả iốt niệu của 2 labo này. Thật bất ngờ, kết quả iốt niệu của
BVNT tương tự kết quả iốt niệu của labo Lubec (sai khác rất
không đáng kể). UNICEF đã đánh giá labo iốt niệu BVNT đã đạt
chất lượng của một labo iốt niệu chuẩn quốc tế và cho phép labo
này tham gia vào công tác điều tra đánh giá phòng chống các rối
loạn do thiếu iốt (PCCRLTI).
Từ năm 1993 trở đi, công tác PCCRLTI chuyển mình rất mạnh.
Các tổ chức quốc tế như UNICEF, CEMUBAC (Bỉ), SAGRIC
(Australia) tập trung giúp đỡ chúng ta thanh toán CRLTI. Khối
lượng xét nghiệm iốt niệu tăng lên đột ngột, đòi hỏi tìm một
phương pháp định lượng iốt niệu khác có năng xuất cao hơn
phương pháp trước đây và tiến tới xây dựng thêm các labo iốt
niệu trên toàn quốc. Năm 1995, Tổ chức SAGRIC và UNICEF
yêu cầu Chương trình quốc gia PCCRLTI của Việt Nam và BVNT
cử một đoàn cán bộ sang Australia học tập phương pháp định
lượng iốt niệu A (phương pháp acid chloric), định lượng TSH
trong máu giọt của trẻ sơ sinh. Phương pháp A không đòi hỏi
trang thiết bị đắt tiền, khó kiếm trên thị trường, ít độc hại hơn và
năng xuất lại cao hơn phương pháp G. Đoàn lần này gồm có 4
người do BS. Nguyễn Trí Dũng phụ trách. Sau khóa học, đoàn đã
có những kết quả học tập tốt và đã được bạn công nhận. Bạn đã
viện trợ cho chúng ta toàn bộ những trang thiết bị và hóa chất
cần thiết làm xét nghiệm iốt niệu và định lượng TSH máu giọt của
trẻ sơ sinh. Thế nhưng khi ở trong nước, cũng vẫn trang thiết bị
và hóa chất đó, chúng ta lại không triển khai được xét nghiệm iốt
niệu. Tháng 4/1996, phía Tổ chức SAGRIC cử các chuyên gia
sang BVNT để kiểm tra hoạt động PCCRLTI ở Việt Nam (trong
dự án mà bạn viện trợ), trong đó có BS. Mauric Wellby - một
chuyên gia hóa sinh của Bệnh viện Queen Elizabet thuộc bang
South Australia. Ông M.Wellby hằng ngày sang làm việc với labo
iốt niệu của BVNT nhưng kết quả vẫn không có tiến bộ. BS. Dũng
đã phải trực tiếp làm xét nghiệm dưới sự giám sát của ông
Mauric Wellby và thường làm việc đến 7 - 8 giờ tối trong thời gian
ông này ở Việt Nam. Bộ phận cán bộ làm xét nghiệm iốt niệu
cùng ông M.Wellby đã thử đi tìm các nguyên nhân gây nên sự
không thành công và khắc phục như mua nước cất thật tinh khiết,
rửa tráng dụng cụ thật sạch, kiểm định các dụng cụ đo lường như
máy đo quang, pipet, bể đốt khô, nhưng kết quả vẫn không đạt
được
Và câu chuyện đáng nhớ
Trước ngày ông Mauric Wellby về nước, sau nhiều ngày nung
nấu suy nghĩ, BS. Dũng đã quyết định điều chỉnh nhiệt độ ủ các
ống nghiệm ở giai đoạn phản ứng xuống tới một nhiệt độ thích
hợp và thật không ngờ đường chuẩn iốt đã xây dựng được đẹp
như đường chuẩn in trong sách hướng dẫn. Làm đi làm lại nhiều
lần, đường chuẩn iốt vẫn được hiện ra như thế và kết quả của
các mẫu nước tiểu kiểm tra đều đúng như giá trị đã cho trước.
Lúc này đã 10 giờ đêm. Khi về nhà cùng cậu con trai, tuy đã thấm
mệt nhưng BS. Dũng rất phấn khởi vì đã chẩn đoán được đúng
bệnh của xét nghiệm này và đã "điều trị" được nó. BS. Dũng đã
thông báo ngay cho kỹ thuật viên (KTV) Nguyễn Phương Khanh
và yêu cầu KTV này sáng mai ra làm việc sớm tại labo. Sáng
sớm hôm sau, KTV Khanh đã thực hiện xét nghiệm iốt niệu dưới
sự hướng dẫn của BS. Dũng và cũng đạt những kết quả như của
BS. Dũng. Vào giờ hành chính, BS. Dũng trình bày kết quả khảo
nghiệm với Giám đốc BVNT (lúc đó là BS. Lê Mỹ), đồng thời xin
một chuyến xe đưa sang Sân bay Nội Bài gặp ông Mauric Wellby
để thông báo những kết quả đã đạt được. Hai anh em ôm lấy
nhau vui mừng trước cửa phòng làm thủ tục xuất cảnh. Khoảng
vài ba tháng sau, ông Mauric Wellby thông báo rằng, những cải
tiến của labo iốt niệu của BVNT đã được thực hiện lặp lại ở
Australia và đã cho kết quả tương tự và thậm chí đường cong
chuẩn iốt còn đẹp hơn khi đoàn Việt Nam học ở Bệnh viện Queen
Elizabet. Từ khi khai thông được kỹ thuật, chúng tôi thực hiện xét
nghiệm iốt niệu hằng ngày một cách nhẹ nhàng và đều có kết quả
tốt đẹp. Cuối năm 1996, kinh nghiệm nói trên của Việt Nam về xét
nghiệm iốt niệu đã được đăng tải trong một tạp chí nổi tiếng của
Mỹ và thế giới, tạp chí International Journal of Clinical Chemistry.
Xét nghiệm iốt niệu ở Khoa Hoá sinh BVNT đã giúp nhiều học
viên cao học và nghiên cứu sinh có thêm được một chỉ tiêu
nghiên cứu không thể thiếu được là iốt niệu trong các luận văn,
luận án liên quan tới PCCRLTI. Nhờ công trình nghiên cứu này là
chủ yếu, BS. Dũng đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu
Thầy thuốc ưu tú năm 1997.
Sau đó qua một vài lần ngoại kiểm tra với các labo iốt niệu chuẩn
quốc tế do ICCIDD và UNICEF tổ chức, với kết quả hầu như
không có sự khác biệt nào đáng kể, UNICEF và Ban chủ nhiệm
Chương trình quốc gia PCCRLTI đã mở thêm các labo iốt niệu
khác ở Việt Nam như Thái Nguyên, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ
An, Trung tâm dinh dưỡng TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Quy
Nhơn. Từ năm 1996 đến nay, chúng ta không phải gửi hàng vạn
mẫu nước tiểu ra nước ngoài nhờ định lượng iốt nữa vì chúng ta
đã tự làm được xét nghiệm này. Để đảm bảo chất lượng xét
nghiệm (cả iốt niệu và iốt muối) chúng ta kết hợp với UNICEF
hàng năm tổ chức ngoại kiểm tra với các labo iốt chuẩn của họ.
Riêng BS. Dũng năm 2000 được UNICEF cử làm chuyên gia
sang giúp nước bạn Lào hoàn thiện labo iốt niệu.
Câu chuyện triển khai về xét nghiệm iốt niệu không có gì to tát
nhưng lại có những kỷ niệm thú vị. Các cán bộ tham gia triển khai
và thực hiện xét nghiệm iốt niệu có một niềm vui nho nhỏ là đã
đóng góp trí tuệ giải quyết khó khăn cho Nhà nước, tiết kiệm
được ngân sách và để lại ấn tượng tốt đẹp cho những tổ chức
quốc tế giúp Việt Nam PCCRLTI.