Sứ thần các Triều đại – An Nam Chí
Lược Quyển Đệ Thập Tứ Chung
Sứ-thần đời Triệu
Thời Cao-Hậu nhà Hán, Nam-Việt Triệu-Đà khiến Nội-sử Phan, Trung-uý
Cao, Ngự-sử Bình, ba bọn người dâng thư tạ tội, đều chẳng trở về. Đà bèn
tiếm xưng đế-hiệu, rồi con cháu noi theo. Khoảng niên-hiệu Nguyên-Đỉnh
(116-111 trước Công-Nguyên) (Hán Vũ-Đế), Nam-Việt nội-thuộc Trung-
quốc, nhà Hán đặt quan phủ cai trị, trải mấy triều không thay đổi. Đến đời
Ngũ-Đại (907-959), biến loạn, Giao-Chỉ Đinh-Bộ-Lĩnh bèn cứ quốc xưng
vương.
Sứ-thần đời Đinh
Đầu đời Tống, Đinh-Bộ-Lĩnh khiến sứ tiến cống, Thái-Tổ (960-975), phong
Bộ-Lĩnh làm Giao-Chỉ Quận-vương. Khoảng niên-hiệu Khai-Bửu (968-975),
Đinh-Liễn kế tập ngôi cha, khiến Trịnh-Tú, Vương-Thiệu-Tộ, Giang-Cự-
Hoàng tiến cống vàng lụa, tê-ngưu voi.
Sứ-thần đời Lê
Nhà Tống, năm Thái-Bình-Hưng-quốc thứ 5 (980), Lê-Hoàn cướp ngôi họ
Đinh, khiến Triệu-Tử-Ái, Trương-Thiệu-Bằng cống vật thổ-sản, Thái-Tông
phong Hoàn làm Giao-Chỉ Quận-vương.
Nhà Tống, hiệu Cảnh-Đức năm đầu (1004), Lê-Hoàn khiến con là Lê-Minh-
Đề vào cống. Thái-Tông vời đến tiện-điện vũ ủi thăm hỏi và phong tước cho
Minh-Đế. Tháng 3 năm thứ 3 (1006), Lê-Hoàn mất, con là Long-Đỉnh lên
làm vua, khiến em là Lê-Minh-Vĩnh cùng Chưởng-thư-ký Hoàng-Thành-
Nhã vào cống. Thiên-Tử vời vào điện, vỗ về thăm hỏi rất lâu, phong tước
vương cho Long-Đỉnh và ban cho tên Chí-Trung, bọn Minh-Vĩnh cũng được
phong chức tước.
Sứ-thần đời Lý
Nhà Tống năm Đại-Trung-Tường-Phù thứ 3 (1010), Lý-Công-Uẩn soán ngôi
họ Lê, được Nhân-Tông phong làm Giao-Chỉ quận-vương, Công-Uẩn khiến
bồi-thần Lương-Nhiệm-Văn, Lê-Tái-Nghiêm tiến cống. Thiên-Tử ban tước-
mệnh cho bọn Nhiệm-Văn. Năm thứ 5 (1012), khiến Lý-Nhân-Mỹ, Đào-
Khánh Văn, Đào-Thạc, Ngô-Hoài-Tự vào cống, sứ-thần đều được phong
quan. Năm Thiên-Hy thứ 3 (1019) Công-Uẩn khiến em là Lý-Hạc vào cống.
Năm đầu Càn-Hưng (1022) lại khiến Lý-Khoan-Thái, Nguyễn-Thủ-Cường
vào cống, mừng Nhơn-Tông lên ngôi. Năm Thiên-Thánh thứ hai (1024),
Thiên-Tử xuống chiếu hồi đáp, ban cho Công-Uẩn tiền bạc, vật-dụng để tỏ ý
cưu mến người xa.
Sứ-thần đời Trần
Mùa Đông năm Đinh-Tỵ (1257), nhà Đại-Nguyên, Đại-Súy Ngột-Lương-
Hộp-Thái đem binh tới An-nam, Trần-Thái-Vương khiến bồi-thần Viện-
Học-Sĩ dâng biểu cống phương vật. Năm Tân-Dậu, Trung-Thống thứ 2
(1261), Trần-Thái-Vương khiến Đại-phu Nguyễn-Thâm, Nguyễn-Diễn tiến
cống. Năm Quý-Hợi thứ 4 (1263), khiến điện-tiền Phạm-Cự-Địa và Trần-
Kiều, tiến cống voi. Thiên-Tử xuống ân chiếu khiến An-nam ba năm một lần
triều cống.
Năm Bính-Dần Chí-Nguyên thứ 3 (1266), khiến Đại-phu Dương-An-Dưỡng
và Võ-Hoàn tiến cống.
Năm Mậu-Thìn, Chí-Nguyên (1268), khiến Đại-phu Phạm-Nhai và Châu-
Lãm đi cống.
Năm Canh-Ngọ, Chí-Nguyên (1270), khiến Đại-phu Lê-Đà và Đinh-Củng-
Viên đi cống.
Năm Nhâm-Thân Chí-Nguyên (1272), khiến Đại-phu Đồng-Tử-Dã và Đỗ-
Mộc đi cống.
Năm Tân-Vị, Chí-Nguyên (1271), khiến Đại-phu Phùng-Trang và Nguyễn-
Nguyên đi cống.
Năm Ất-Hợi Chí-Nguyên (1275) khiến Đại-phu Lê-Khắc-Phục và Lê-Văn-
Túy đi cống, gặp lúc đạibinh đánh nhà Tống, năm sau (1276), bọn Khắc-
Phục mới đi theo đường Hồ, Quảng về nước.
Năm Đinh-Sửu Chí-Nguyên thứ 14 (1277), Trần-Thái-Vương mất, con lên
ngôi, khiến Đại-phu Châu-Trọng-Ngạn và Ngô-Đức-Thiệu tiến cống. Năm
sau Thế-Tổ Hoàng-Đế khiến Lễ-Bộ Thượng-Thư Sài-Thung qua vời Thế-Tử
vào chầu. Thế-Tử lấy cớ đương đau không đi, khiến đại-phu Trịnh-Đình-
Toản và Đỗ-Quốc-Kế vào cống. Đình-Toản bị câu-lưu ở Kinh-sư.
Năm Canh-Thìn, Chí-Nguyên (1280), lại khiến Sài-Thượng-Thơ đưa Đỗ-
Quốc-Kế về và đưa chỉ dụ Thế-Tử. Thế-Tử sợ, khiến Tùng-thúc (chú thúc
bá) Trần-Di-Ái vào chầu thay mình, Lê-Trọng-Đà làm phó.
Năm Nhâm-Ngọ thứ 19 (1282), Thế-Tử khiến Đại-phu Lê-Nổ và Đặng-
Hữu-Điểm vào cống.
Năm Quí-Vỵ Chí-Nguyên (1283), khiến Đại-phu Nguyễn-Đạo-Học vào
cống.
Năm Nhâm-Ngọ Chí-Nguyên (1282), sai Hữu-Thừa Toa-Đô đánh Chiêm-
Thành. Mùa đông năm Giáp-Thân (1284), Triều-đình khiến sứ dụ Thế-Tử
mượn đường tiến binh, khiến giúp quân, vận tống lương-thực. Thế-Tử sợ,
khiến Đại-phu Trần-Khiêm-Phủ và Trần-Quân đến Hành-sảnh Chiêm-Thành
ở Kinh-Hồ cầu xin hoãn binh, không chấp thuận. Lại khiến Đoàn-Yến và
Lê-Quý vào cống. Khi ấy đại-binh đã lên đường, nên câu-lưu bọn Đoàn-Yến
ở lại Kinh-sư, Thế-Tử lại khiến Nguyễn-Văn-Hàn xin đình việc quân lại.
Mùa đông năm ấy, đại-binh của Trấn-Nam-Vương đến biên-cảnh, bắt Văn-
Hàn làm hướng-đạo, phá được cửa ải Nội-Bàng, Trấn-Nam-Vương mừng và
tha Văn-Hàn cho về dụ chúa đầu hàng cho sớm. Thế-Tử không nghe, Văn-
Hàn bèn dụ tôn-tử Văn-Nghĩa-Hầu Trần-Tú-Viên đem gia-quyến qui thuận.
Năm sau, triều-đình cho Văn-Hàn làm Trung-thuận đại-phu Qui-hoá-giang-
lộ Tuyên-Vũ-sứ (hư hàm).
Tháng giêng năm Ất-Dậu hiệu Chí-Nguyên (1285), quan-binh hạ La-Thành,
Thế-Tử khiến Tôn nhơn Trung-Hiếu-Hầu Trần-Thang và Đại-phu Nguyễn-
Nhuệ làm phó, đến xin hoà. Sứ-thần bị câu-lưu ở trong quân. Tháng 5, Trấn-
Nam-Vương, vì nắng lụt, rút quân, đem Nguyễn-Nhuệ về bắc. Nhuệ trốn nép
dưới cỏ, bị quân lính bắt được đem chém.
Năm Bính-Tuất Chí-Nguyên (1286), khiến đại-phu Nguyễn-Nghĩa-Toàn và
Nguyễn-Đức-Vinh tiến cống. Triều-đình vì cớ Thế-Tử không vào chầu, lưu
Nghĩa-Toàn lại Kinh-sư.
Năm Đinh-Hợi Chí-Nguyên (1287), khiến Đại-phu Nguyễn-Văn-Ngạn và
Bạch-Xá vào cống, gặp lúc triều-đình lại cử binh đi đánh, lưu bọn Văn-Ngạn
ở lại vài năm, sau tha cho về nước.
Mùa xuân năm Mậu-Tý hiệu Chí-Nguyên (1288), Trấn-Nam-Vương rút
quân về nước, Thế-Tử khiến cận-thị-quan Lý-Tu và Đoàn-Khả-Dung tiến
cống phương-vật, tạ tội.
Năm Kỷ-Sửu Chí-Nguyên (1289), khiến Đại-phu Đàm-Chúng vào cống,
năm sau Thế-Tử mất.
Năm Tân-Mão Chí-Nguyên (1291), Thế-Tử (Trần-Nhân-Tông) khiến Đại-
phu Nghiêm-Trọng-Duy và Trần-Tử-Trường vào cống.
Năm Nhâm-Thìn Chí-Nguyên (1292), Thế-Tử khiến Lệnh-Công Nguyễn-
Đại-Phạp và Trung-Tán Hà-Duy-Nghiêm vào cống.
Năm Quý-Tỵ Chí-Nguyên (1293), khiến Tể-tướng Đào-Tử-Kỳ và Đại-phu
Lê-Văn-Táo tiến cống. Triều-đình vì cớ Thế-Tử bị triệu, không chịu vào
chầu, nên giữ Tử-Kỳ ở lại Giang-Lăng, lập An-nam Hành sảnh để đem binh
qua đánh. Năm sau Thành-Tông Hoàng-đế lên ngôi, tha tội Thế-Tử và thả
bọn Tử-Kỳ về nước.
Năm đầu Nguyên-Trinh Ất-Vị (1295), khiến Đại-phu Nguyễn-Mạnh-Hiền
và Trần-Khắc-Dụng tiến cống. Năm đầu Đại-Đức, Đinh-Dậu (1297), khiến
Đại-phu Nguyễn-Văn-Tịch và Phạm-Cát vào cống.
Năm Đại-Đức Mậu-Tuất (1298), khiến Đại-phu Đặng-Bất-Văn và Vũ-Bất-
Quỹ vào cống.
Năm Canh-Tý Đại-Đức (1300), khiến Đại-phu Đặng-Lâm (Đặng-Nhữ-Lâm)
và Nguyễn-Tất tiến cống.
Năm Nhâm-Dần Đại-Đức (1302), khiến Tể-Tướng Lê-Khắc-Phục và Đại-
Phu Đào-Vĩnh vào cống.
Năm Giáp-Thìn Đại-Đức (1304), khiến Đại-Phu Nguyễn-Nhược-Chuyết và
Tô-Hân vào cống.
Năm Bính-Ngọ Đại-Đức (1306) khiến Đại-phu Phí-Mộc-Đạc và Lê-
Nguyên-Tông vào cống.
Năm đầu Chi-Đại, Mậu-Thân (1308), khiến Đại-Phu Nguyễn-Khắc-Tuân và
Phạm-Kính-Tư đi cống, mừng Vũ-Tông lên ngôi. Sau đó Thế-Tử mất, con
lên ngôi.
Năm Kỷ-Dậu, Chí-Đại (1309), Thế-Tử (Trần-Anh-Tông) khiến đại-phu
Đồng-Ứng-Thiều và Tạ-Đại-Huân vào cống.
Năm Tân-Hợi Chí-Đại (1311) khiến Đại-Phu Lê-Nhân-Kiệt và Võ-Tử-Ban
vào cống.
Năm Hoàng-Khánh thứ 2 (1313), khiến đại-phu Nguyễn-Văn-Diệm và Lê-
Thời-Mạo vào cống, mừng Nhân-Tông Hoàng-đế lên ngôi.
Năm đầu Diên-Hựu Giáp-Dần (1314), khiến Đại-phu Đặng-Quốc-Dụng và
Ngô-Nguyên-Lão vào cống.
Năm Đinh-Tỵ Diên-Hựu (1317), khiến Đại-phu Doản-Thế-Thôn và Đinh-
Quan vào cống.
Năm Canh-Thân Diên-Hựu (1320), Anh-Vương mất, Thế-Tử khiến bồi-thần
Đặng-Cung-Kiệm và Đỗ-Sĩ-Tốn vào cống.
Năm đầu Chí-Trị Tân-Dậu (1321), khiến Đại-phu Mạc-Tiết-Phu và Lại-
Duy-Cựu vào cống.
Năm Ất-Dậu Thái-Định thứ 2 (1325), khiến Đại-phu Lê-Lão-Ngô và
Nguyễn-Duy-Hàn vào cống.
Năm đầu Thiên-Lịch, Mậu-Thìn (1328), khiến đại-phu Nguyễn-Xử-Lạc và
Đàm-Ngô-Thiếu vào cống.
Năm đầu Chí-Thuận, Canh-Ngọ (1330), khiến đại-phu Đoàn-Tử-Lai và Lê-
Khắc-Tốn vào cống.
Năm Nhâm-Thân Chí-Thuận (1332), khiến đại-phu Đặng-Thế-Diên tiến
cống, mừng Văn-Tông Hoàng-đế tức vị.
Năm Giáp-Tuất Nguyên-Thống thứ 2, (1324) Hoàng-Đế đổi niên-hiệu làm
Chí-Nguyên năm đầu, Thế-Tử khiến đại-phu Đồng-Hòa-Khanh và Nguyễn-
Cố-Phu vào cống, mừng Hoàng-thượng đương kim (Thuận-đế) lên ngôi.
Năm Đinh-Sửu Chí-Nguyên (1337), khiến đại-phu Phan-Công-Trực và
Nguyễn-Tất-Chiếu vào cống.
Năm Kỷ-Mão Chí-Nguyên (1339), khiến đại-phu Trần-Quốc-Thiệt vào
cống.