LỊCH SỬ TRANG PHỤC CÁC TRIỀU ĐẠI
TRONG KIẾN VIỆT NAM
VƯƠNG QUỐC VĂN LANG CỔ ĐẠI VÀ ÂU
LẠC
Trong lịch sử Việt Nam, thời kì vương quốc Văn
Lang là một gian đoạn lịch sử cội nguồn quan trọng.
Ngày nay còn tồn tại nhiều huyền sử bảo vệ đất nước
chống ngoại xâm và các sự tích về nếp sống văn hóa
xưa như: Phù Đổng Thiên Vương, Bánh chưng bánh
dầy, Sơn Tinh và Thủy Tinh, tục xăm mình, lệ cưới
xin… Sách Việt sử lược (1960) ghi: “Đến đời Trang
Vương nhà Chu (696 – 682 TCN) ở bộ Gia Ninh có
người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự
xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu
nước là Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác,
chính sự dùng lối kết nút, truyền 18 đời gọi là Hùng
Vương". Tiếp đến là thời kì vương quốc Âu Lạc,
Thục Phán xưng là An Dương Vương dời kinh đô về
Cổ Loa để xây dựng một kinh đô mới, nơi đây xuất
hiện và phát triển kĩ nghệ đồng thau – nghề hội tụ từ
vùng Yên Bái. Ở Yên Bái đã phát hiện thạp đồng
Đào Thịnh nổi tiếng và có nhiều công cụ trống đồng,
dao đồng, rìu đồng và nhiều đồ đồng thau. Tới Cổ
Loa đồ đồng cũng được tìm thấy nhiều như: các công
cụ lao động, đặc biệt là hàng tạ mũi tên đồng. Những
hiện vật khảo cổ tìm thấy trong quá khứ hé mở một
nền mỹ thuật cổ. Văn hóa Đông sơn rực rỡ đã bị đứt
khúc, ngăn cách bởi ngàn năm Bắc thuộc.
Để tìm lại quá khứ lịch sử, tìm lại một nền mỹ thuật
cổ đại Lạc Việt xa xưa, từ năm 1960 đến năm 1970,
nhà nước VNDCCH đã tổ chức nghiên cứu đồng bộ
nhiều ngành khoa học gồm: khảo cổ, địa chất, sử học,
thư tịch, dân tộc học, hóa học, mỹ thuật… Trong 10
năm nghiên cứu, kết hợp với những tài liệu và thành
tựu nghiên cứu trước của nhiều nhà khoa học các
nước, Hội đồng nghiên cứu khoa học Việt Nam đã
làm thức dậy nền văn hóa và mỹ thuật Đông Sơn. Kết
quả nghiên cứu cho thấy: thời Hùng Vương là đại
diện của cư dân bản địa, có bản sắc riêng thuộc ngữ
hệ Đông Nam Á ở Bắc Việt Nam hợp thành vương
quốc Văn Lang, Âu Lạc. Đây là một cộng đồng cư
dân có sinh hoạt văn hóa bản địa riêng biệt, dựa trên
nền tảng sản xuất nông nghiệp (văn mình sông Hồng,
sông Mã). Cộng đồng dân cư này phát triển từ chiếm
hữu nô lệ đến xã hội có giai cấp sơ kì, mang đặc điểm
hình thái châu Á, có phong tục tập quán văn hóa
riêng, phát triển mỹ thuật riêng, tồn tại bền vững với
tinh thần dân tộc, không bị đồng hóa trong một ngàn
năm Bắc thuộc.
Từ năm 43 đến năm 905 SCN là buổi đầu xâm lược
của nhà Hán sang nước ta. Thời đó đạo quân xâm
lược của Đông Hán rất lớn và rất mạnh, chúng gồm
khoảng 20.000 quân lính ở khắp nơi kết hợp với 2002
gồm thuyền xe lớn nhỏ do các tướng có nhiều kinh
nghiệm chỉ huy, đặc biệt chúng luôn đàn áp các cuộc
khởi nghĩa. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, mấy
nghìn quân bị hy sinh và hơn một vạn quân bị bắt, hai
bà đã rút quân vào vùng núi để kháng chiến. Theo
Mã Viện truyện, ghi về cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng như sau: trận Cửu Chân, Mã Viện đã “chém
giết bắt bớ hơn 5000 nghìn người”. Trong trận Cẩm
Khê, Mã Viện đã “đánh bại họ mấy lần, họ mới bỏ
chạy tản đi” và đã “giết hơn ngàn, bắt hơn 2 vạn”[1].
Cuối năm 43, Mã Viện tâu về triều Hán rằng: “… Kẻ
hạ thần đã cùng một vạn hai nghìn tinh binh hợp với
đại binh thành 2 vạn, thuyền xe lớn nhỏ 2000 cỗ, tự
vào đất Giao Chỉ đến nay đã thành công…”[2].
Thông qua tư liệu sử sách ta thấy cuộc chiến đấu diễn
ra không cân sức và vô cùng ác liệt để bảo vệ đất
nước của Hai Bà Trưng. Ngay từ buổi đầu xâm lược,
nhà Hán với chủ trương Hán hóa nên chúng cố ý
nhập cư ồ ạt theo con đường xâm lược. Hiện nay ở
nước ta số lượng mộ cổ thời Đông Hán còn lại quá
lớn, chứng tỏ sự có mặt của người Đông Hán thời kì
này. Trong sách “Bắc kì thời cổ” của Ca. Madrole đã
nói tới “con đường xâm lược” hồi đầu công nguyên
của Đông Hán đi vào miền lưu vực sông Hồng nước
ta. Khởi đầu từ ven biển Yên Hưng (Quảng Ninh),
Thủy Nguyên, Uông Bí, Mạo Khê, Đông Triều, Chí
Linh, Phả Lại qua sông về Giang Lương, Thuận
Thành tới Văn Giang, thủ phủ là Luy Lâu. Ở những
địa danh trên và Luy Lâu đều phân bố dày đặc mộ
Đông Hán. Tại khu lò nung gốm xóm Chùa xã Đại
Lai – Hà Bắc, năm 1982 tư liệu khai quật cho ra kết
luận: trước kia ở đây có một khu vực gốm lớn hình
thành phục vụ cho người Trung Hoa thống trị. Thành
viên làm chủ nghề thủ công này đi từ Trung Hoa sang
nên từ cấu trúc lò, kỹ thuật nung tới loại hình sản
phẩm đều mang đậm dấu ấn văn hóa Hán nhằm mục
đích đồng hóa dân ta. Mã Viện tổ chức cai trị, xây
thành quách, phá văn hóa Việt bằng cách vơ vét trống
đồng ở các địa phương và đồ vật tượng trưng uy
quyền của tù trưởng thời Âu Lạc. Sử sách ghi lại, mỗi
trống đồng tương đương một ngàn con bò thời bấy
giờ. Việc phá hoại các báu vật nhằm thủ tiêu uy
quyền của tầng lớp quý tộc Việt. Theo Hậu Hán Thư,
Nam man truyện, việc đưa đi đày các thủ lĩnh xa khỏi
đất nước, sang tận Hồ Nam, Trung Quốc nhằm xóa
bỏ sức chiến đấu chống xâm lược của ta. Ngày ấy Mã
Viện vơ vét trống đồng đúc thành hình con ngựa cao
3 thước 5 tấc, rộng 4 thước 4 tấc (cao khoảng 1m40,
thân dài khoảng 1m80) để dâng vua Hán Quang Vũ.
Riêng Mã Viện chở một xe châu báu cướp được của
Âu Lạc vào năm Giáp Thìn 44 SCN. Ngay từ buổi
đầu văn hóa Hán xâm nhập, chúng đã muốn thay thế
và xóa bỏ văn hóa Lạc Việt. Luồng văn hóa Trung
Hoa dày đặc tiếp tục lan truyền qua nhiều triều đại:
Hán, Đường, Tống, đặc biệt thời Đường ráo riết hơn
và ảnh hưởng tới đất nước ta nhiều hơn. Từ cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng và liên tục các cuộc nổi dậy
trong những thế kỉ tiếp theo đã phá vỡ âm mưu bành
trướng của người phương Bắc xuống nước ta – một
vương quốc đã có nền văn minh bản địa, ý chí quật
cường và vị trí cao trong vùng Đông Nam Á.