PHẠM NGỌC THẠCH
(1909-1968)
Bác sĩ Phạm ngọc Thạch sinh ngày 7 tháng 5 nǎm 1909, học Đại học Y Hà Nội từ
nǎm 1928, tốt nghiệp bác sĩ ở Paris nǎm 1934.
Tham gia hoạt động cách mạng ở Sài Gòn từ thời kỳ Mặt trận Bình dân (1936-
1939), vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 3 nǎm 1945.
Từ tháng 3 nǎm 1945, là một thủ lĩnh của tổ chức Thanh niên Tiền phong, tham
gia cướp chính quyền tháng 8 nǎm 1945.
Từ 27 tháng 8 nǎm 1945 là Bộ trưởng Y tế đầu tiên của Chính phủ Lâm thời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ủy viên ủy ban Nhân dân Nam Bộ, rồi lần lượt Thứ
trưởng Phủ Chủ tịch, Trưởng phái đoàn chính phủ tại Nam Bộ (1948-1950), Chủ
tịch ủy ban Kháng chiến Hành chính Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn, Trưởng ban Y tế
của Đảng, Thứ trưởng Y tế (1954-1958), từ 1958 là Bộ trưởng Y tế. Hy sinh trên
chiến trường Miền Nam ngày 7 tháng 11 nǎm1968.
Bộ Trưởng Phạm Ngọc Thạch với ngành Y tế nhân dân:
Nǎm 1958 khi ông trở về phụ trách ngành y tế, sức khỏe của nhân dân ta suy giảm
rất nhiều, nhất là ở những vùng mới được giải phóng tình hình bệnh tật rất nghiêm
trọng: bệnh lao chiếm tới 4 % dân số, bệnh sốt rét lan tràn ở miền núi với tỷ lệ
người mắc 80-90% làm rất nhiều người chết, người phong lang thang khắp nơi
thiếu nơi chạy chữa, bệnh mắt hột làm hàng triệu người mù loà, chưa có cơ sở y tế
chǎm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em, tỷ lệ trẻ em chết bệnh rất cao, nạn hữu
sinh vô dưỡng phổ biến trong xã hội, các dịch bệnh như dịch tiêu chảy, thổ tả,
thương hàn, đậu mùa, sởi, ho gà, bạch hầu , các bệnh lây theo đường tình dục
như giang mai, lậu, hoành hành khắp nơi với tỷ lệ người mắc và người chết rất
cao, tuổi thọ trung bình của người dân chưa tới 40
Ngành y tế nước ta đã phát triển mạnh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đáp
ứng có hiệu quả yêu cầu chǎm sóc sức khỏe nhân dân trong các vùng tự do, nhưng
trước nhiệm vụ mới nặng nề hơn phải quản lí và chǎm sóc sức khỏe cho cả nửa đất
nước hoàn toàn giải phóng thì còn yếu và thiếu.
Quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, dựa vào sự ưu việt của chế độ ta, vào
điều kiện thực tế của ta, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã tìm ra con đường thích hợp
nhất, hiệu quả nhất, xây dựng nền y tế nhân dân, xây dựng 5 phương châm nguyên
tắc chỉ đạo việc xây dựng và phát triển ngành kết hợp chặt chẽ chính trị và chuyên
môn, tư tưởng và tổ chức, phòng bệnh và chữa bệnh, quán triệt phương châm
phòng bệnh là chính, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại, đông y và tây y,
kết hợp y và dược trong công tác phòng và chữa bệnh, xây dựng mạng lưới y tế
từ trung ương đến xã và hợp tác xã, xây dựng y tế nông thôn, tổ chức và thực hiện
có hiệu quả công tác phòng chống dịch bệnh, sản xuất vaccin, tiêm chủng toàn
dân, dấy lên trong cả nước phong trào "vệ sinh yêu nước", vệ sinh phòng bệnh,
xây dựng các công trình vệ sinh - giếng nước, hố xí, nhà tắm, tổ chức và triển khai
các cuộc vận động thực hiện phong trào bảo vệ bà mẹ trẻ em, đào tạo và xây dựng
đội ngũ cán bộ, tổ chức sản xuất thuốc men, dụng cụ trang thiết bị y tế giải quyết
hàng loạt những vấn đề cơ bản của sự nghiệp y tế, thanh toán những bệnh tật, dịch
bệnh do chế độ cũ để lại, bảo vệ, chǎm sóc và tǎng cường có hiệu quả sức khỏe
nhân dân. Chỉ trong vòng 3 nǎm, đến nǎm 1958 chúng ta đã chiến thắng được hai
dịch bệnh lớn tồn tại đã bao đời là đậu mùa và dịch tả. Chưa đầy 10 nǎm sau mọi
dịch bệnh lớn đã bị đẩy lùi: sởi, ho gà, bạch hầu, uốn ván giảm hẳn, sốt rét,
thương hàn không còn phát triển thành dịch nữa, mắt hột được thanh toán, bại liệt
được giảm thiểu, người bệnh phong, bệnh lao được tập trung trong các nhà điều
dưỡng, các bệnh viện chuyên khoa để chạy chữa và phục hồi chức nǎng, các bệnh
giang mai, lậu được ngǎn chặn để không phát sinh trường hợp mới, các ổ dịch, ổ
lây nhiễm bị triệt phá, người mắc bệnh cũ được điều trị tích cực, khắc phục các di
chứng, mạng lưới y tế phát triển rộng khắp từ trung ương xuống đến các bản làng
hẻo lánh nhất, tổ chức y tế cơ sở được thành lập có từ 3-5 cán bộ y tế bao gồm nữ
hộ sinh, thầy thuốc đông y, y sĩ hoặc y tá do dân nuôi, xã hoặc hợp tác xã đảm
nhiệm, chi trả mọi chi phí, thuốc men, trang thiết bị, mạng lưới y tế nông thôn,
niềm tự hào lớn của sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành y tế, được tạo lập,
hoạt động có hiệu quả, nhờ đó công tác chỉ đạo phong trào vệ sinh, phòng chống
dịch bệnh, tiêm chủng phòng dịch có thể tiến hành rất kết quả ngay tại cơ sở. Trên
cơ sở mạng lưới y tế chung đó, mạng lưới chống lao, mắt hột, sốt rét, ba tai họa xã
hội lớn nhất của đất nước cũng đã được xây dựng, hệ thống bệnh viện tuyến
huyện, tuyến tỉnh được phát triển, từng bước lớn mạnh, các bệnh viện tuyến trung
ương được mở rộng, nâng cao nǎng lực kĩ thuật, nhiều viện, bệnh viện chuyên
khoa được thành lập là cơ sở cho những thành tựu về công tác chǎm sóc sức khỏe
nhân dân trong các lĩnh vực này.
Công việc xây dựng ngành đang tiến hành rất tốt đẹp thì cuộc đấu tranh chống Mỹ
cứu nước bùng nổ, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch lại cùng Đảng đoàn và lãnh đạo Bộ Y
tế tổ chức lại ngành phù hợp với điều kiện khó khǎn, ác liệt của cuộc chiến đấu
mới, tiếp tục các sự nghiệp trên, xây dựng ngành trong điều kiện mới của cuộc
chiến tranh, đa khoa hóa, ngoại khoa hóa cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng không
ngừng về mọi mặt đội ngũ cán bộ y tế. Bất cứ nơi nào địch đánh phá, nơi đó tổ
chức y tế có thể giải quyết mọi vấn đề của công tác cấp cứu chiến thương, xây
dựng 4 tuyến điều trị, phát triển mạnh mẽ mạng lưới y tế, đưa kỹ thuật xuống
tuyến dưới, giải quyết một cách tốt đẹp nhất mọi mặt của công tác bảo vệ, chǎm
sóc sức khỏe nhân dân và các lực lượng vũ trang, hết lòng hết sức chi viện cho y tế
Miền Nam.
Nǎm 1968 hệ thống y tế ở miền Bắc cơ bản đã vững chắc. ở Miền Nam chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai chuyển sang giai đoạn mới ngày càng ác
liệt hơn, hi sinh tổn thất nhiều hơn nhưng chiến thắng cũng nhiều hơn, vang dội
hơn. ở tuổi 59, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch lại thiết tha xin vào chiến trường Miền
Nam xây dựng và phát triển ngành và đã hy sinh anh dũng trong khi làm nhiệm
vụ.
Đánh giá những đóng góp to lớn của Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch trong việc xây
dựng và phát triển nền y học, y tế nhân dân, nhà nước ta đã nêu: đứng trước rất
nhiều vấn đề khó khǎn và phức tạp của việc bảo vệ sức khỏe của nhân dân và bộ
đội, đồng chí Phạm Ngọc Thạch, thấm nhuần những tư tưởng và tình cảm lớn của
Đảng và phát huy sức mạnh vĩ đại của quần chúng đã cố gắng giải quyết những
vấn đề đó một cách cơ bản, có hiệu quả và kịp thời với khả nǎng và phương tiện
hiện có của chúng ta. Đồng chí Phạm Ngọc Thạch đã đã nhìn thấy tất cả những
bệnh tật hiểm nghèo, di sản của chế độ phong kiến và thực dân cần thanh toán
nhanh chóng và tận gốc; đồng chí đã tìm tòi và ra sức phát huy vốn cổ truyền rất
quí của dân tộc về y và dược, đã cố gắng vận dụng những hiểu biết, những thành
tựu mới nhất của y học thế giới, của y học các nước XHCN cũng như y học các
nước khác Cùng với tập thể lãnh đạo Bộ và đông đảo cán bộ, nhân viên trong
ngành, đồng chí Phạm Ngọc Thạch đã tổ chức tiêm chủng nhằm bài trừ và phòng
ngừa các bệnh tật, di sản của thời trước; tổ chức phong trào vệ sinh yêu nước rộng
khắp ở Miền Bắc; tổ chức mạng lưới y tế từ trung ương cho đến hợp tác xã, khu
phố, xí nghiệp và mạng lưới cứu thương rất có hiệu quả trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ; tổ chức cuộc vận động bảo vệ bà mẹ và trẻ em với những thành tích tốt
đẹp ngay trong thời chiến; tổ chức việc đào tạo và không ngừng bồi dưỡng về mọi
mặt đội ngũ cán bộ y tế đủ sức giải quyết những vấn đề quan trọng nhất và cấp
bách nhất của việc bảo vệ sức khỏe cho nhân dân và lực lượng vũ trang trong cuộc
chiến đấu chống chiến tranh cực kì dã man, tàn bạo của đế quốc Mỹ. Đó là những
thành tựu rất quí báu và đẹp đẽ trong biết bao thành tựu, bông hoa của chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc mà nhân dân ta rất tự hào và nhiều bè bạn ta khắp nơi hết lòng
khen ngợi." (Phạm Vǎn Đồng).
Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch với chuyên ngành Lao và Bệnh phổi:
Phạm Ngọc thạch là một trong những thầy thuốc chuyên khoa lao đầu tiên ở Việt
Nam. ông đã sớm đi sâu vào chuyên khoa này trong thời gian học cũng như khi đã
ra là việc ở Pháp cũng như ở Sài Gòn, là hội viên độc nhất ở Đông Dương của Hội
Nghiên cứu về Lao của Pháp từ 1936, là người sáng lập và Viện trưởng đầu tiên
của Viện Chống Lao Việt Nam, ủy viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Chống Lao
Thế giới, là người có công lớn nhất xấy dựng chuyên khoa, là người thầy lớn nhất
của chuyên khoa lao-bệnh phổi.
Sau kháng chiến chống Pháp, chúng ta tiếp quản một xã hội dầy rẫy bệnh tật trong
đó bệnh lao có tỷ lệ mắc tới 4% dân số. Chế độ cũ không hề quan tâm tới việc
phòng chống bệnh lao. Công tác chống lao trong xã hội cũ gần như phó mặc cho
các tổ chức từ thiện, các bà sơ, người bệnh tự lo. Trong cả nước chỉ có 3
dispensaire (trạm chống lao) để làm công tác tuyên truyền nhiều hơn làm công tác
chống lao. Về chữa bệnh, cả miền Bắc chỉ có một chuyên khoa lao nhỏ ở Bệnh
viện Bạch Mai là cơ sở giảng dạy của trường đại học y khoa (không kể 2 phân
viện 71 và 74 do ta mới xây dựng). Tỷ lệ lao chết rất cao, nǎm 1942 lên đến
560/100 000 dân, bằng tỷ lệ chết của các nước châu Âu thời trung cổ, cao hơn cả
tỷ lệ chết thời kỳ Nga hoàng (300 trong 100 000 người). Đến nǎm 1954 tỉ lệ này
cũng chưa thay đổi được bao nhiêu. Hàng nǎm khi đó cả nước có hàng trǎm nghìn
người chết vì bệnh lao. Đội ngũ cán bộ chuyên khoa lao lại quá ít ỏi, cả nước vẻn
vẹn không quá 10 người. Riêng Viện Chống Lao khi đầu thành lập chỉ có 3 bác sĩ,
1 dược sĩ, 1 phòng xét nghiệm nhỏ với 2 kính hiển vi cổ. Trên cái nền vô cùng khó
khǎn đó bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã bắt đầu công tác chống lao với việc thành lập
Viện Chống Lao từ ngày 24 tháng 6 nǎm 1957, trở thành trung tâm nghiên cứu và
tổ chức chống lao trong nước, trung tâm đào tạo huấn luyện bổ túc cán bộ, chỉ đạo,
kiểm tra, đôn đốc, tuyên truyền giáo dục phòng lao. Bộ chỉ đạo công tác chống lao
qua hoạt động của Viện do ông trực tiếp làm viện trưởng. Ông đã xây dựng cho
chuyên khoa một đường lối chống lao đúng đắn, đường lối nghiên cứu khoa học
thực tiễn, phong phú, đa dạng, một hệ thống tổ chức, chỉ đạo, một mạng lưới
chống lao hoàn chỉnh dựa vào mạng lưới chung của toàn ngành y tế, đã chǎm lo
đào tạo một đội ngũ những người làm công tác chống lao đông đảo, có nhiệt tình
và có khả nǎng, tạo nên những nhân tố quyết định cho sự thành công của công tác
chống lao ở nước ta đến tận ngày nay.
Từ nǎm 1960, công tác chống lao đã đến được các cơ sở y tế ở nông thôn, thành
thị cũng như miền núi, đến hầu hết mọi xã, thôn, bản. ở các xã đã hình thành tổ
bệnh nhân, một hình thức sinh hoạt của bệnh nhân để quản lí bệnh nhân, giúp đỡ
nhau và kiểm tra lẫn nhau trong điều trị lâu dài dưới sự quản lí của trạm chống lao
(xana) xã. Xana xã có nhiệm vụ chữa bệnh lao tại trạm hay tại nhà, kiểm tra việc
thực hiện tiêm phòng BCG, theo dõi và tiêm phòng BCG cho các gia đình bệnh
nhân, quản lí toàn diện việc chữa cũng như phòng bệnh lao cho cả bệnh nhân và
gia đình họ. ở những nơi làm tốt chỉ trong vòng 4 nǎm hiệu quả của công tác
phòng chống bệnh lao do các xana mang lại thấy rất rõ. Các trạm xá xã cũng là nơi
tập trung và cách ly được những thể lao nặng khỏi gia đình, tách nguồn lây lao ra
xa cộng đồng, từng bước khống chế bệnh lao và bước đầu giảm thiểu lao trẻ em.
Hệ thống mạng lưới chống lao huyện cũng được xây dựng vững chắc với trạm
chống lao hay tổ chống lao huyện. Các tỉnh có trạm chống lao tỉnh. Tại những tỉnh
lớn trạm chống lao tỉnh có các bộ phận X quang, vi trùng, điều trị ngoại trú và một
bệnh viện từ 100-500 giường. Tại những tỉnh nhỏ máy X quang dùng chung với
bệnh viện đa khoa nhưng trạm vẫn có riêng 10-20 giường để điều trị cấp cứu và
phục vụ công tác nghiên cứu theo dõi. Mỗi trạm chống lao tỉnh có kế hoạch chống
lao cho tỉnh mình, bao gồm những chỉ tiêu về tiêm phòng lao bằng BCG cho sơ
sinh, trẻ em và người lớn, về số lượng bệnh nhân điều trị ngoại trú tại các trạm
trong tỉnh cũng như trong bệnh viện, một chương trình nghiên cứu khoa học chủ
yếu về dịch tễ học.
Từ 1961-1968 đã tiêm BCG phòng lao và BCG tái chủng cho 20triệu lần/18 triệu
dân. Như vậy hầu như đại đa số nhân dân miền Bắc đã được phòng lao. Việc điều
trị chủ yếu tổ chức tại nhà. Nǎm 1964 hơn 11 vạn bệnh nhân lao đã được điều trị
ngoại trú với hồ sơ, sổ sách theo dõi chặt chẽ. Nǎm 1964 toàn miền Bắc có 6 bệnh
viện lao, 55 trạm chống lao tỉnh, thành phố, thị trấn, 240 trạm chống lao xã, 61
trạm an dưỡng tại các xí nghiệp, cơ quan, trường học. Tổng số giường cho bệnh
nhân lao lên đến 6444 giường.
Nhờ xây dựng được mạng lưới chống lao rộng khắp đến tận cơ sở, công tác tiêm
phòng lao rộng rãi, tỷ lệ lao tiền nhiễm giảm rất nhiều, số trẻ lao màng não và chết
vì lao màng não ít hẳn đi, tỉ lệ chết lao từ 400-500/100000 dân xuống còn 20-
40/100000 dân, tỉ lệ lao chung trong vòng 3-5 nǎm giảm ít nhất 50%. Hiệp hội
Chống Lao Thế giới đã đánh giá tổ chức chống lao của Việt Nam là "một mẫu
mực tổ chức chống lao cho những nước có nền kinh tế thấp". Chuyên ngành lao đã
có thể từ công tác phòng chống lao là chủ yếu triển khai từng bước sang lĩnh vực
các bệnh phổi khác ngay trong mấy nǎm cuối của 10 nǎm xây dựng chuyên ngành
lao trong thời kỳ Phạm Ngọc Thạch lãnh đạo chuyên ngành này. Đánh giá cao
những thành tựu và những đóng góp của ông trong công tác phòng chống lao, tại
Đại hội liên hoan Anh hùng Chiến sỹ thi đua Toàn quốc lần thứ nhất, nǎm 1958,
ông đã được nhà nước tuyên dương là một trong hai Anh hùng Lao động đầu tiên
của ngành y tế.
Phạm Ngọc Thạch và sự nghiệp khoa học:
Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là một nhà khoa học của nhân dân, vì nhân dân, người
có tài về khoa học quản lí - quản lí ngành y tế, quản lí sức khỏe cộng đồng, quản lí
chuyên ngành lao và bệnh phổi.
Trong khoa học quản lí, điều quan trọng nhất là có đường lối, quan điểm đúng,
có cách thức tiến hành phù hợp, có đội ngũ cán bộ đủ số lượng, chất lượng để có
thể thực thi công việc, có mạng lưới rộng khắp ở mọi nơi, mọi tuyến. Bác sĩ Phạm
Ngọc Thạch đã làm được điều đó cả về mặt lí luận cũng như về thực tiễn.
Quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng về công tác y tế, ông đã xây dựng
nên 5 phương châm nguyên tắc chỉ đạo, quản lí ngành: kết hợp chặt chẽ chính trị
với chuyên môn, tư tưởng với tổ chức, phòng bệnh với chữa bệnh, y với dược,
đông y với tây y; luôn luôn nêu cao phương châm phòng bệnh, coi phòng bệnh là
chính trong công tác bảo vệ sức khỏe. Ông đã xây dựng được mạng lưới y tế từ
trung ương tới xã, hợp tác xã, vấn đề quyết định nhất cho sự thành bại của khoa
học quản lí, gây dựng và phát động rộng rãi các phong trào vệ sinh yêu nước, vệ
sinh phòng bệnh, phòng dịch, tiêm chủng có tính chất quần chúng, phong trào bảo
vệ bà mẹ trẻ em, công tác đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ, sản xuất thuốc
men, trang thiết bị y tế nghĩa là trong khoa học quản lí ngành y tế ông đã có
quan điểm, cách tiến hành rất khoa học, bài bản, đầy đủ, sáng tạo. Những điều ông
đã làm thực sự đã đóng góp lớn cho khoa học quản lí ngành y tế không những giai
đoạn đó mà cả sau này.
Trong khoa học quản lí, ông còn là người có tầm nhìn xa mang tính chiến lược
về nhiều mặt trong y học và y tế dự phòng, phòng chống dịch bệnh, vấn đề y tế
nông thôn, tiêm chủng, vệ sinh phòng bệnh, phòng chống lao, phong, mắt hột, sốt
rét, bướu cổ, bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em, các bệnh lây lan theo đường tình dục,
vấn đề dinh dưỡng và đã có những chủ trương đúng, giải pháp đúng, chương
trình khoa học giải quyết những vấn đề này như trong công tác chǎm sóc sức khỏe
lấy phòng bệnh làm chính, trong y học dự phòng tổ chức tốt phong trào tiêm
chủng rộng rãi, nghiên cứu phương pháp tiêm trong da tiết kiệm và có hiệu quả
cao, y tế nông thôn tập trung vào vấn đề phân, nước, rác, nghiên cứu và tổ chức
triển khai rộng rãi việc dùng hố xí hai ngǎn, ủ phân tại chỗ, đẩy mạnh phong trào
xây dựng hố xí, giếng nước, nhà tắm, giải quyết nạn mù loà do mắt hột bằng cách
vận động dùng nước sạch, nước giếng, giải phóng kĩ thuật, cho mổ quặm tại
huyện, xã, giải quyết tình trạng thiếu dinh dưỡng bằng cách nghiên cứu và khuyến
khích sử dụng mọi loại đạm động vật, thực vật, tổ chức tẩy giun bằng các dược
phẩm sẵn có trong dân, nghiên cứu các bài thuốc dân gian
Trong khoa học quản lí, một đóng góp đáng lưu ý nữa là việc cho thành lập các
viện, bệnh viện chǎm lo công tác bảo vệ sức khỏe cho nhiều chuyên ngành: Viện
Bảo vệ Sức khỏe Trẻ em, Viện Bảo vệ Sức khỏe Bà mẹ và Trẻ sơ sinh, Viện Sốt
rét Ký sinh trùng và Côn trùng y học, Viện Nghiên cứu Đông y có vai trò đầu
ngành, các viện và bệnh viện này đã là điểm tựa, là nơi xuất phát cho những bước
tiến về công tác chǎm sóc sức khỏe nhân dân trong các lĩnh vực này.
Trong khoa học lâm sàng ông đã tìm ra phương pháp tiêm chủng phòng lao
bằng BCG chết sau khi đã tiến hành nghiên cứu cùng các cộng tác viên của mình
trên môi trường nuôi cấy, trên thực nghiệm và trên lâm sàng. Thành công của
nghiên cứu này đã khiến việc phòng bệnh lao vượt qua được khó khǎn lớn lao khi
đó vì nếu dùng BCG sống thì phụ thuộc vào tủ lạnh, vào nguồn điện bảo quản lạnh
vaccin, làm cho việc tiêm chủng phòng lao có thể tiến hành rộng rãi, bảo vệ sức
khỏe nhân dân đặc biệt là trẻ em khỏi các dạng lao nặng, giảm tỉ lệ nhiễm lao ở trẻ
em, giảm được số trẻ em bị các thể lao kê, lao màng não, giảm tử vong lao ở trẻ.
Hơn 20 triệu lượt người trên tổng số 16-18 triệu dân miền Bắc được tiêm chủng,
tái chủng tức là hầu hết nhân dân được bảo vệ chống lây nhiễm lao.
Kết hợp đông tây y trong công tác chữa bệnh, ông đã nghiên cứu dùng filatov
tiêm vùng huyệt phổi kết hợp với các thuốc chống lao để điều trị bệnh lao. Trong
điều tra dịch tễ bệnh lao ông đã đề ra chương trình nghiên cứu các kĩ thuật thuần
nhất đờm đơn giản có thể áp dụng cho mọi tuyến, đặc biệt cho các cơ sở lưu động,
nghiên cứu và tìm ra các môi trường có thể sản xuất bằng các nguyên liệu trong
nước để nuôi cấy vi trùng lao có thể phổ biến dễ dàng cho các địa phương. Một
đóng góp khoa học rất lớn khác của ông là đã đề ra và tổ chức thực hiện ở nước ta
việc phát hiện lao trong điều tra dịch tễ lao bằng đờm ngay từ nǎm 1956, một vấn
đề khoa học đi trước thời đại mấy chục nǎm khi Tổ chức Y tế Thế giới còn đang
chủ trương phát hiện lao bằng chụp huỳnh quang rất tốn kém và ít hiệu quả. Vấn
đề này đã được trình bày tại Hội nghị quốc tế chống lao ở New Delhi 1957. Hàng
chục nǎm sau Hiệp hội Chống Lao Quốc tế đã thấy rõ giá trị của phương pháp này,
phương pháp mà ngày nay Tổ chức Y tế Thế giới coi là quan trọng nhất, đặc hiệu
nhất trong việc điều tra phát hiện lao.
Về các bệnh phổi ông cũng tiến hành nghiên cứu nhiều bệnh ở nước ta còn ít hoặc
chưa hề được nói đến như các bệnh bụi phổi, bệnh nhiễm bụi than, nhiễm bụi silic,
nấm phổi, sán lá phổi, viêm phế quản mạn tính, giãn phế quản khô chảy máu, hen,
ung thư phổi, thâm nhiễm phổi mau bay, xơ phổi, các vấn đề về miễn dịch
những nghiên cứu đã mở ra nhiều chương mới trong bệnh học phổi ở nước ta.
Không kể đến những bài nghiên cứu đǎng trong các tạp chí chuyên môn nước
ngoài từ những nǎm 1937-1938, chỉ tính trong vòng 10 nǎm từ 1957 khi ông làm
Viện trưởng Viện Chống Lao, ông đã công bố hơn 60 công trình nghiên cứu, bài
báo khoa học đǎng trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước hoặc được trình
bày tại các hội nghị quốc tế. Nhiều công trình đã được đánh giá cao, được trao đổi
rộng rãi và giới thiệu lại trên các tạp chí khoa học nước ngoài.
Có thể kể tới một số công trình nghiên cứu, bài báo khoa học của ông:
- Phòng lao cho người đã có dị ứng bằng BCG chết,
- Về giá trị các môi trường VCL1 và VCL2 trong nuôi cấy vi trùng lao.
- Điều trị bệnh nhân lao ngoài bệnh viện, vaccin BCG chết trong công tác chống
lao trẻ em ở Việt Nam.
- Về bệnh nhiễm trùng do Mycobacteria ở Việt Nam.
- Nghiên cứu về tình hình sơ nhiễm ở trẻ em do trực trùng không điển hình.
- Vấn đề phục hồi chức nǎng phổi trong việc điều trị lao phổi mạn tính.
- Bệnh viêm phế quản mạn tính nghề nghiệp.
- Cơ chế kích sinh chất filatov trong điều trị lao phối người lớn tiêm ở vùng huyệt
phổi phối hợp với uống INH
Các sách khoa học đã xuất bản của ông:
- Cơ sở lý luận y học Việt Nam.
- Quán triệt phương châm phòng bệnh trong công tác bảo vệ sức khỏe.
- Mười nǎm xây dựng y tế nông thôn.
Đánh giá những thành tựu đóng góp của ông trong nghiên cứu khoa học, nhà nước
ta đã nhận định "Đồng chí Phạm Ngọc Thạch đã nêu một tấm gương về cách nhìn,
cách nghĩ, cách nghiên cứu để giải quyết một cách sáng tạo và độc đáo những vấn
đề khó khǎn và phức tạp của việc thanh toán những bệnh tật do chế độ cũ để lại,
trong việc vệ sinh phòng bệnh và bảo vệ sức khỏe nhân dân và đồng chí đã thành
công trong nhiều công trình nghiên cứu quan trọng"(Phạm Vǎn Đồng). Nǎm 1997,
ông đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh ngay từ đợt đầu tiên.