Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Điều tra kinh tế xã hội của các hộ gia đình khai thác hải sản ở phường vĩnh nguyên, vĩnh trường, xương huân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.84 KB, 46 trang )


1






CHƯƠNG I:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT

KINH TẾ XÃ HỘI

2
I.1. Một số vấn đề về giám sát kinh tế xã hội (GSKTXH):
I.1.1. Khái niệm:
GSKTXH đưa ra một bản hướng dẫn đơn giản, được tiêu chuẩn hóa về
việc làm thế nào để sắp đặt một chương trình giám sát kinh tế xã hội tại một khu
vực quản lý bờ biển ở Đông Nam Á. Bản hướng dẫn đưa ra một danh mục ưu tiên
những chỉ tiêu kinh tế xã hội hữu dụng nhất cho việc quản lý vùng bờ cũng như
những câu hỏi cần thiết cho việc thu thập dữ liệu được tiến hành để:
- GSKTXH thiết lập một phương pháp luận đơn giản, tiêu chuẩn cho việc
thu thập thường xuyên những dữ liệu kinh tế xã hội cơ bản hữu ích cho việc quản
lý vùng bờ ở mức độ khu vực.
- Cung cấp một cơ sở cho một hệ thống khu vực, qua đó những dữ liệu cấp
độ vùng có thể bổ sung vào cơ sở dữ liệu của quốc gia, vùng và quốc tế để so
sánh.
- GSKTXH cũng muốn cung cấp cho những nhà quản lý, mà đa phần
trong số họ đến từ các quá trình đào tạo các kiến thức sinh vật học, thấu hiểu
được “kinh tế xã hội” nghóa là gì, các thông tin kinh tế xã hội có thể hữu dụng


như thế nào cho công tác quản lý, và dữ liệu kinh tế xã hội nào có thể hữu dụng
cho việc quản lý ở chỗ họ.
I.1.2. Cách thức vận hành của GSKTXH:
GSKTXH diễn tả việc thiết lập một chương trình giám sát kinh tế xã hội
như thế nào trong việc quản lý vùng bờ đòa phương. Quá trình thiết lập một
chương trình giám sát kinh tế xã hội bao gồm 5 bước chính:
- Sự chuẩn bò trước, bao gồm nhận biết mục đích của thu thập dữ liệu kinh
tế xã hội và các chỉ tiêu thích hợp;
- Dữ liệu thu thập thông qua nguồn thứ cấp;
- Dữ liệu thu thập thông qua người cung cấp thông tin chủ yếu;
- Dữ liệu thu thập thông qua phỏng vấn hộ gia đình;
- Phân tích dữ liệu, viết báo cáo và trình bày với việc chú ý đến những
liên quan về việc quản lý.

3
Đây là một quá trình lặp đi lặp lại, sẽ đòi hỏi sự mềm dẻo và thích nghi.
Kết quả của mỗi bước sẽ có thể ảnh hưởng đến các quyết đònh trước và có thể đòi
hỏi nhắc lại trong các bước tiếp theo.
I.1.3. Đối tượng phục vụ của GSKTXH:
Những mục tiêu cần phổ biến mà GSKTXH nhắm đến gồm có những
người quản lý vùng bờ, chính quyền đòa phương, các tổ chức phi chính phủ, người
dân đòa phương (các tổ chức đòa phương như là hiệp hội ngư dân) và những người
quản lý dự án. GSKTXH mong muốn cung cấp cho họ một nhận thức về những gì
liên quan đến việc thiết lập chương trình giám sát kinh tế xã hội và kết quả các
dữ liệu kinh tế xã hội có thể giúp họ quản lý tốt hơn như thế nào. Mục tiêu thứ
hai là các viện nghiên cứu và các tổ chức quốc tế và khu vực.
I.1.4. Những hạn chế của GSKTXH:
GSKTXH là những hướng dẫn xây dựng cơ bản. Nó không bao gồm tất cả
các chỉ tiêu giám sát kinh tế xã hội (chẳng hạn nó không thảo luận tỉ mỉ về giới tính).
GSKTXH cũng không cung cấp tỉ mỉ việc thu thập dữ liệu như thế nào

(chẳng hạn bố trí phỏng vấn như thế nào).
Giám sát kinh tế xã hội dựa trên GSKTXH sẽ không cung cấp đầy đủ các
câu trả lời khi nó là những hướng dẫn đơn giản và tiêu chuẩn hóa.
I.1.5. Vai trò của GSKTXH:
I.1.5.1. Nhận biết những nguy cơ, vấn đề, giải pháp và cơ hội.
Khi việc thu thập như là một phần của chương trình giám sát đang tiến
hành, thay vì đánh giá một lần, những thông tin kinh tế xã hội có thể được sử
dụng để nhận biết các xu hướng thay đổi trong nhân khẩu cộng đồng và hộ gia
đình, các hoạt động vùng bờ và sự nhận thức của con người về những vấn đề
vùng bờ và cộng đồng. Những thông tin này có thể được dùng để nhận biết các
nguy cơ, vấn đề, giải pháp và cơ hội cho việc quản lý nguồn lợi vùng bờ. Ví dụ,
một sự gia tăng trong số người nhập cư và khu vực có thể biểu thò nguy cơ tiềm tàng từ
việc đánh cá quá mức và sử dụng đất phát triển, chẳng hạn như chặt bỏ cây đước.




4
I.1.5.2. Nhận biết tầm quan trọng, giá trò, ý nghóa văn hóa của nguồn lợi và các
cách sử dụng chúng.
Các thông tin kinh tế xã hội có thể được sử dụng để biểu thò tầm quan
trọng và giá trò của nguồn lợi vùng bờ và dòch vụ - cả tự nhiên và nhân tạo -, như
là rạn san hô, rừng ngập mặn và truyền thống canh tác, cho toàn thể xã hội, các
nhóm người liên đới và người ra quyết đònh, những người mà có thể giúp đưa ra
những hỗ trợ lớn hơn cho chương trình quản lý vùng bờ. Ví dụ, việc hiểu biết giá
trò của các rạn san hô có thể được sử dụng để đònh giá lợi ích và giá của sự phát
triển thay thế, các chương quản lý và bảo tồn ( chẳng hạn quyết đònh cho phép
lặn trong khu vực có thể dựa trên những công việc được mong đợi và thu nhập
cho cộng đồng từ các hoạt động du lòch).
I.1.5.3. Đánh giá những tác động tiêu cực và tích cực của các phương pháp

quản lý.
Các thông tin kinh tế xã hội có thể được dùng để xác đònh những ảnh
hưởng của quyết đònh quản lý trên hộ gia đình, từ đó có thể giúp đưa những chính
sách quyết đònh tác động tiêu cực nhỏ nhất và tác động tích cực lớn nhất tới hộ
gia đình. Ví dụ, một chính sách hạn chế các loại ngư cụ khai thác hiện tại có thể
ảnh hưởng đến cơ cấu nghề nghiệp trong cộng đồng và giá trò sản phẩm thủy sản.
Bằng các dẫn chứng những thay đổi trong cơ cấu nghề nghiệp và giá trò sản phẩm
thủy sản trước và sau khi chính sách được thi hành, người quản lý có thể xác đònh
những ảnh hưởng của chính sách tốt hơn. Tương tự, người quản lý có thể dùng
thông tin kinh tế xã hội để dự báo những ảnh hưởng của chính sách thay đổi trong
cộng đồng. Ví dụ, bằng việc biết được số lượng ngư dân các khu vực khác nhau,
người quản lý có thể dự đoán bao nhiêu ngư dân sẽ bò mất việc do khu vực cấm
đánh cá thay thế.
I.1.5.4. Đánh giá các cơ quan quản lý làm việc như thế nào ?(Hiệu quả của
công tác quản lý )
Thông tin kinh tế xã hội có thể được dùng để đánh giá tính hiệu quả của
chương trình quản lý tài nguyên vùng bờ trong việc hoàn thành các chỉ tiêu và
mục tiêu của chúng .Ví dụ, nếu một chỉ tiêu của chương trình quản lý tài nguyên
ven biển là tăng cường sự tham gia của những người hưởng lợi đòa phương trong

5
quá trình quản lý, sau đó có thể tăng sự hiểu biết của người dân về việc quyết
đònh tham gia vào quản lý tài nguyên ven biển.
Giám sát kinh tế xã hội có thể cho phép cải tiến việc quản lý tài nguyên
ven biển thông qua học tập, mô phỏng, dự đoán những vấn đề có ảnh hưởng đến
nguồn lợi và các chương trình quản lý nguồn lợi vùng bờ nhằm đạt được những
mục tiêu và mục đích đề ra. Ví dụ, sự thay đổi trong nhận thức, làm theo và tuân
thủ pháp luật và những quy chế của dân chúng có thể cho biết sự thành công hay thất bại
của hoạt động quản lý và sự cần thiết phải có cho sự thay đổi hoạt động cưỡng chế.
I.1.5.5. Xây dựng sự tham gia của những bên liên đới, các chương trình đào tạo

và nhận thức thích hợp.
Thông tin kinh tế xã hội có thể được dùng để hướng dẫn sự chú ý, quan
tâm và tham gia của các quỹ tín dụng vào trong hoạt động quản lý. Nó cũng còn
được sử dụng để lập kế hoạch và điều khiển các chương trình nhận thức và đào
tạo cho việc quản lý tài nguyên vùng bờ. Ví dụ, nhận biết của cộng đồng và
những tổ chức liên đới trong khu vực có thể giúp đỡ các nhà quản lý vùng bờ
trong việc đảm bảo rằng các ý kiến đóng góp của các bên liên đới có cơ hội để
tham gia trong quá trình quản lý tài nguyên bờ biển.
I.1.5.6. Thẩm đònh và lập chứng từ đánh giá thực trạng về hoàn cảnh kinh tế xã
hội trong khu vực, những biến động của cộng đồng và nhận thức của các bên
liên đới.
Việc thu thập và phân tích các dữ liệu kinh tế xã hội là rất quan trọng để
kiểm tra và đánh giá một cách khoa học các điều kiện của cộng đồng. Với bất kỳ
chương trình quản lý nguồn lợi tự nhiên nào cũng phải có những hiểu biết rộng
rãi về các điều kiện của đòa phương. Ví dụ, có sự thống nhất ý kiến về tình trạng
bò tàn phá của rừng ngập mặn. Nhà quản lý cần nghiên cứu dữ liệu để chứng
minh và đưa ra dẫn chứng cho tình trạng đó. Nếu không có bằng chứng khoa học,
đó chỉ là ý kiến lý thuyết. Việc đánh giá và văn bản hóa về tương lai của mọi
người cũng quan trọng như các điều kiện kinh tế xã hội, những việc rất dễ dàng
bò thành kiến do những lo lắng và giá trò của mọi người. Bằng sự thực hiện một
nghiên cứu khách quan, có hệ thống, nhà quản lý có thể xác đònh được thực trạng

6
kinh tế xã hội thực sự của đòa phương, bao gồm có việc sử dụng tài nguyên, sự
biến động của cộng đồng dân cư và nhận thức của các bên liên quan.
I.1.5.7. Lập nét tiểu sử cơ bản của hộ gia đình và cộng đồng.
Việc thu thập thông tin kinh tế xã hội nằm ở giai đoạn bắt đầu của chương
trình quản lý tài nguyên vùng bờ có thể giúp cho nhà quản lý hiểu được cộng
đồng và hộ gia đình và lập hồ sơ làm điều kiện cơ bản cho việc so sánh trong
tương lai. Những thông tin cơ bản này có hữu dụng đặc biệt trong việc vận dụng

cách quản lý. Khi các mục tiêu và hoạt động của chương trình thay đổi nhà quản
lý có thể so sánh hiện trạng hiện tại với các điều kiện cơ bản nếu “hỗ trợ truyền
thống của đòa phương” không phải là mục đích chính của chương trình quản lý
vùng bờ, thì các điều kiện về những truyền thống đòa phương có lẽ không cần
phải luôn luôn được giám sát.Tuy nhiên nếu có được một cách đồng bộ thông tin
cơ bản về các truyền thống đòa phương, những nhà quản lý có thể dựa vào đó để
đánh giá xem truyền thống đòa phương được thay đổi như thế nào.
I.2. Nội dung của GSKTXH:
I.2.1. Đối tượng thực hiện việc giám sát:
Việc giám sát kinh tế xã hội có thể được một người hay một đội thực hiện.
Tuy nhiên lý tưởng nhất là việc giám sát kinh tế xã hội do một đội giám sát do
một ai đó trong đội quản lý vùng bờ đứng đầu thực hiện ( thí dụ cơ quan giám sát
từ MPA, nhân viên giáo dục của tổ chức môi trường ) có chuyên môn về một
trong những lónh vực khoa học xã hội (chẳng hạn xã hội học, nhân chủng học,
kinh tế học, chính trò học, tâm lý học hoặc đòa lý học). Người đội trưởng chòu
trách nhiệm lập kế hoạch cho việc giám sát, thu thập phân tích và trình bày các
dữ liệu, và đảm bảo cho chương trình đó được thực hiện một cách lâu dài. Những
người khác trong đội giám sát sẽ trợ giúp trong việc thu thập dữ liệu như là phỏng
vấn, phân tích và viết báo cáo.
I.2.2. Quá trình thực hiện giám sát:
Nhìn chung có 5 bước để thực hiện việc giám sát kinh tế xã hội, bao gồm:
- Các công việc chuẩn bò, bao gồm xác đònh mục đích, xác đònh quá trình
thực hiện giám sát kinh tế xã hội, chọn lựa và tham vấn với những bên liên quan,
xác đònh các mục tiêu, chọn lựa các chỉ tiêu và chọn lựa đội giám sát.

7
- Đánh giá của những dữ liệu thứ cấp.
- Những cuộc phỏng vấn thu thập thông tin chính yếu.
- Phỏng vấn hộ gia đình.
- Phân tích dữ liệu, viết báo cáo và trình bày.

Đây là một phương pháp lặp lại được lập đi lập lại trong suốt thời gian để
cập nhật và thêm các thông tin và dữ liệu mới. Nó cũng là phương pháp phải
được vận dụng mềm dẻo như những bước trong việc giám sát kinh tế xã hội
không phải lúc nào cũng phải luôn luôn theo một trình tự. Những thông tin mới có
thể tạo nên những nhu cầu mới, vì thế toàn đội phải xem xét lại quá trình tiến
hành và thay đổi kế hoạch để bổ sung cho tình hình mới.
I.2.3. Quá trình thu thập dữ liệu:
Có 4 phương pháp thu thập dữ liệu chính:
- Dữ liệu thứ cấp.
- Những cuộc phỏng vấn thu thập thông tin chính yếu.
- Phỏng vấn hộ gia đình.
- Quan sát.
Tổng quát là, dữ liệu thứ cấp phải được thu thập trước, theo những cuộc
phỏng vấn thu thập thông tin chính yếu. Phỏng vấn hộ gia đình được sắp xếp để
thu được những dữ liệu hơn về cá nhân hay hộ gia đình trong cộng đồng. Quan sát
tiến hành tiếp tục trong cộng đồng. Toàn đội phải tuân theo những qui tắc hướng
dẫn tuân theo trong suốt quá trình thu thập dữ liệu:
- Chú ý đến những người liên đới và cộng đồng, chẳng hạn như lòch làm
việc, phong tục đòa phương và tôn giáo.
- Ghi nhận những thông tin thành kiến.
- Tế nhò về những vấn đề giới tính.
- Hướng tới những khu vực thiếu khả năng kiểm tra.
- Khéo léo đối với sự khác biệt ngôn ngữ.
- Ghi chép tỉ mỉ .
I.2.3.1. Dữ liệu thứ cấp:
Dữ liệu thứ cấp là những dữ liệu đã được thu thập từ trước và được công bố
dưới dạng này hay dạng khác, bao gồm:

8
- Những tư liệu chính thức và không chính thức.

- Các báo cáo thống kê .
- Các báo cáo đánh giá và khảo sát trước đây.
- Các báo cáo nghiên cứu.
- Những văn kiện của các dự án trước đây hoặc đang tiến hành bao gồm
cả những báo cáo đánh giá và giám sát.
- Các bản đồ.
- Ảnh không gian và ảnh vệ tinh.
- Các tư liệu và tính toán lòch sử.
- Các trang Web, internet.
Việc đánh giá các dữ liệu thứ cấp bao gồm hoàn thiện, đánh giá, tổng quan
các dữ liệu liên quan đến chỉ tiêu .
I.2.3.2. Những cuộc phỏng vấn thu thập thông tin chính yếu:
Những người cung cấp thông tin chính yếu là những cá nhân nhờ vào đòa vò
kinh nghiệm hoặc kiến thức của họ có thể cung cấp hiểu biết sâu sắc và thông tin
về những điều kiện kinh tế xã hội và quần chúng rộng lớn. Việc phỏng vấn một
số những người cung cấp thông tin chính yếu là rất quan trọng nhằm thu được
hiện thực sinh động. Những người cung cấp thông tin chủ yếu rất cần cho việc thu
thập thông tin về toàn bộ cộng đồng. Những người cung cấp thông tin chủ yếu có
thể đưa ra những thông tin khái quát, chia sẻ những hiểu biết và những kiến thức
đặc biệt. Chẳng hạn như đội không nhất thiết phải hỏi các thành viên của hội
đồng để xác đònh xem có kế hoạch quản lý nghề cá hay không thay vì họ chỉ cần
xem xét các tư liệu của viên chức phụ trách nghề cá hoặc hỏi giám đốc cơ quan
phụ trách nghề cá. Hầu hết các chỉ tiêu thu thập được bằng cách sử dụng những
người cung cấp thông tin chủ yếu hướng tới những sự kiện cơ bản (chẳng hạn như
diện tích vùng cộng động, chủ thể quản lý chính thức). Thông thường để thực
hiện phỏng vấn người cung cấp thông tin chủ yếu là phải có dạng câu hỏi riêng
được chuẩn bò sẵn và tiếp tục hỏi những câu hỏi tương tự với mọi người cung cấp
thông tin chủ yếu cho đến khi cảm thấy những câu trả lời tương tự được đưa ra thì
dừng lại. Việc chọn lọc những người cung cấp thông tin chủ yếu thường là bước
đầu tiên trong các cuộc phỏng vấn được thiết kế một phần theo lòch mùa vụ.


9
I.2.3.3. Phỏng vấn hộ gia đình:
Những cuộc phỏng vấn hộ gia đình phải nhờ đến các cuộc khảo sát với
những bản câu hỏi có cấu trúc chặt chẽ và những câu hỏi chuẩn xác. Những bản
câu hỏi bao gồm những câu hỏi đặc biệt với những cách trả lời hạn chế (chẳng
hạn có nhiều cách chọn để trả lời, câu hỏi dạng có/không ) để sau này qua số liệu
được lượng hóa có thể dùng một phương pháp thống kê để phân tích.
Những cuộc phỏng vấn hộ gia đình rất quan trọng để hiểu được trạng thái
của từng cá nhân. Chẳng hạn nếu đội muốn hiểu mọi người nghó gì về cách thức
quản lý vùng bờ họ cần phải hỏi một số người. Hầu hết những chỉ tiêu đó đều
nhắm tới nhận thức (chẳng hạn những giá trò phi thò trường hoặc phi sử dụng,
những vấn đề của cộng đồng được nhận thức, những cuộc phỏng vấn hộ gia đình
có lợi thế và nó không cần đến những người được đào tạo cao thực hiện, các bản
câu hỏi tương đối dễ dàng có thể nắm bắt được và đòi hỏi thời gian không nhiều
của người cung cấp thông tin như là các cuộc phỏng vấn. Tuy nhiên các cuộc
phỏng vấn hộ cũng có những nhược điểm, đó là mức độ tương đồng rất hạn chế
và thật khó xác đònh nếu như những người cung cấp thông tin thường cung cấp
những thông tin mà người phỏng vấn muốn nghe và thật khó hỏi được câu hỏi
liên quan đến những vấn đề nhạy cảm.
I.2.3.4. Quan sát:
Trong một số trường hợp dữ liệu có thể được thông qua quan sát. Những
quan sát thường là mô tả được những thuộc tính mà thành viên của đội nhìn thấy
và có được nhờ quan sát một cách kỹ lưỡng và theo dõi môi trường xung quanh.
Chẳng hạn thành viên của đội có thể thu thập được thông tin về các loại vật liệu
được dùng bằng việc quan sát các vật liệu được dùng để làm nhà, mái lợp, sàn,
cửa Quan sát là một phương pháp tốt vì cả đội sẽ học được về cách hoạt động
toàn diện.
I.2.4. Thời hạn giám sát:
Thời gian mất cho mỗi một đợt đánh giá kinh tế xã hội sẽ thay đổi phụ

thuộc vào hoàn cảnh, bao gồm quy mô của cộng đồng, khả năng và tiềm lực của
đội, kích cỡ của đội, số người phỏng vấn được chọn. Lần đầu tiên nói chung sẽ
diễn ra dài nhất, từ lúc quá trình là mới và danh sách của những người được
10
phỏng vấn có thể sẽ dài hơn những sự lựa chọn cho lần giám sát tương lai. Nói
chung, ước lượng tổng quát là nó sẽ mất từ 1 đến 5 tuần (5 đến 25 ngày làm việc
thực tế) để bố trí một đợt giám sát. Những ngày làm việc thực tế này có thể được
chia ra một thời gian dài khi mỗi hoạt động không nhất thiết phải tuân theo một
thứ tự trực tiếp. Việc chuẩn bò cho các hoạt động có thể mất 3 đến 5 ngày. Thu
thập dữ liệu thứ cấp có thể mất 3 đến 5 ngày. Phỏng vấn những người chủ yếu
mất 3 đến 5 ngày. Phỏng vấn hộ có thể mất 3 đến 10 ngày. Phân tích dữ liệu và
chuẩn bò báo cáo có thể mất 3 đến 5 ngày. Số ngày thực tế sẽ lại phụ thuộc trên
hoàn cảnh và nguồn lực có thể cung cấp.
I.2.5. Kinh phí cho hoạt động giám sát:
Ngân sách cũng sẽ thay đổi phụ thuộc vào những cần thiết của vò trí,
nguồn lực hiện có và giá cả đòa phương. Ngân sách có thể được chuẩn bò và có
thể theo thực tế. Một cách tổng quát cho rằng các khoản mục ngân sách bao gồm,
nhưng không hạn chế ở các khoản:
- Đi đến các văn phòng cơ quan nhà nước để thu thập dữ liệu thứ cấp.
- Lương cho 3-4 khảo sát viên .
- Bút, giấy, tập, các dụng cụ văn phòng khác.
- Bản đồ, bản đồ biển, ảnh vệ tinh.
- Đến khu vực nghiên cứu (xe, tàu).
- Camera, ống nhòm, băng ghi âm, ghi hình.
- Máy photocopy.
- Máy tính, phần mềm, bảng thống kê.
I.2.6. Chu kỳ của hoạt động giám sát:
Giám sát kinh tế xã hội cơ bản thường được đặc trưng bởi đã ứng dụng đầy
đủ nhất các chỉ tiêu làm cơ sở dữ liệu cho việc tham khảo trong tương lai. Những
nỗ lực giám sát thường xuyên có thể bao gồm một số chỉ tiêu ít hơn so với giám

sát cơ bản vì có một số các chỉ tiêu sẽ được thu thập thường xuyên hơn các chỉ
tiêu khác. Người quản lý vùng bờ cần phải xác đònh tần số thích hợp nhất dựa vào
trạng thái và nhu cầu dữ liệu cần thiết cho việc quản lý. Căn cứ vào những nhu
cầu quản lý vùng bờ các chỉ tiêu có thể cần phải thu thập thường xuyên hơn, ở
những vùng có mật độ dân số cao hơn và những thay đổi về mặt kinh tế thì các dữ
11
liệu có thể cần phải được thu thập thường xuyên hơn để đánh giá chiều hướng
trong khi ở những cộng đồng ổn đònh hơn các dữ liệu không cần phải được thu
thập thường xuyên như vậy.
I.2.7. Đòa điểm giám sát:
Việc thu thập dữ liệu nói chung có thể diễn ra ở 2 đòa điểm:
- Với dữ liệu thứ cấp: Chính quyền, trường đại học, viện nghiên cứu, các
tổ chức phi chính phủ và các cơ quan khác, thường là ở bên ngoài cộng đồng.
- Với những người phỏng vấn chủ yếu, phỏng vấn hộ gia đình và quan
sát, ở trong khu vực cộng đồng nghiên cứu hoặc cộng đồng được sắp đặt để phỏng
vấn hay quan sát.
I.2.8. Thảo luận về kết quả GSKTXH:
Trước khi nhận công việc giám sát kinh tế xã hội, điều quan trọng là phải
nhận biết ý kiến công luận cho việc chú ý hướng tới và phát triển dự án cho cộng
đồng và kết quả sau mỗi lần hoàn thành việc giám sát. Ý kiến thảo luận có thể
phụ thuộc vào việc những thông tin kinh tế được sử dụng như thế nào:
- Nhận biết mối đe dọa, vấn đề, giải pháp và cơ hội.
- Xác đònh tầm quan trọng, giá trò và ý nghóa nuôi trồng của nguồn lợi và
cách sử chúng.
Ÿ Đánh giá những ưu và nhược điểm hiện có của phương pháp quản lý
vùng bờ
Ÿ Đánh giá người quản lý làm việc như thế nào ( hiệu quả của công tác
quản lý)
Ÿ Thiết lập sự tham gia của những người liên quan và những chương trình
giáo dục và nhận thức thích hợp

Ÿ Thiết lập tiểu sử cơ bản của hộ gia đình và cộng đồng
Bằng việc hiểu được những mục đích thảo luận về thông tin kinh tế xã hội,
những quá trình và kết quả có thể được hướng theo cách làm nảy sinh và thông
tin cho nhau những kết quả hiệu quả nhất.
Một cách đơn giản và hữu hiệu cho việc nhận biết ai có thể chú ý tới kết
quả của việc giám sát kinh tế xã hội là phân tích thảo luận ( McCann và Parks
12
2002). Những phân tích qua thảo luận như vậy đáp ứng được hàng loạt các vấn đề
theo cách giúp ta sau đó có thể hỗ trợ cho việc lập ra các kế hoạch thông tin.
Những vấn đề được nảy sinh thông qua phân tích bằng thảo luận bao gồm:
- Ai trong số những người thảo luận có tiềm năng nhất có thể có lợi từ
hoặc được chú ý trong việc thông tin kết quả của bạn.
- Ai trong số những người thảo luận hội trường là những người liên đới ở
trong vùng đối với việc quản lý vùng bờ? Ai trong số họ là người ngoại cuộc?
- Với mỗi cuộc thảo luận mức độ ảnh hưởng và quan tâm mà họ có đối
với việc quản lý vùng bờ là như thế nào? Việc liên hệ với mỗi một cuộc thảo luận
có tầm quan trọng như thế nào và nhu cầu giữa mối quan hệ thông tin về quản lý
nguồn lợi vùng bờ với họ được đặt ở vò trí cần thiết như thế nào.
- Đối với mỗi cuộc thảo luận chúng ta sẽ biết gì về phương pháp người ta
thích nhận thông tin nhất? Theo đó có thể liên quan chặt chẽ tới khả năng kỹ
thuật của họ. Chẳng hạn họ thích đọc các thông tin hay nghe radio hoặc tivi? Họ
có dùng ngôn ngữ máy tính hay internet thường xuyên hay không? Họ có thường
xuyên gặp gỡ hay hội họp không? Nếu như thế thì bao giờ lại xảy ra.
- Ngôn ngữ nào được sử dụng trong mỗi cuộc thảo luận? Mức độ học vấn
trung bình của họ là như thế nào? Họ thích về kỹ thuật hay những vấn đề lý
thuyết nhất qua việc chọn phương thức đàm thoại hay là phân tích? Thông thường
những thông tin được phát biểu thường đươc thực hiện ở đâu và như thế nào?
- Bạn mong đợi điều gì nhất với mỗi lần thảo luận để thực hiện những
kết quả và thông tin mà bạn trình cho họ? Những hành động nào bạn muốn họ
thực hiện sau khi chia sẽ những kết quả của bạn? Những kỳ vọng đó liên hệ như

thế nào đối với những mục đích và những mục tiêu của việc quản lý nguồn lợi
vùng bờ.
Xem xét các vấn đề một cách toàn diện sẽ cho phép chọn ra những mục
tiêu ưu tiên hoặc chính yếu và cách thảo luận. Sự ưu tiên này là rất rộng dựa vào
mức độ những nhu cầu được nhận thức để đạt tới những cuộc thảo luận như vậy
và quản bá và ghi nhận những hành động mà các cuộc thảo luận như vậy có thể
thực hiện. Từ đó, những phương tiện chung hoặc khác biệt (ví dụ phương pháp
nhận thông tin được ưa chuộng nhất, những hành động có thể được họ thực hiện)
13
có thể được chọn lựa trong các cuộc thảo luận về mục đích và những phương tiện
đó có thể ghép thành từng nhóm với nhau hoặc chia ra tùy theo. Khi đưa ra một
kết luận ngắn gọn của mỗi lần hội thảo có mục đích hoặc một nhóm hội thảo và
những đặc trưng của chúng có thể dễ dàng tạo ra những cách phân tích liên tục.
I.2.9. Vấn đề cần lưu ý:
Bất kỳ một dự án phát triển hay nghiên cứu nào mà đã được tiến hành hiện
nay đều bao gồm một phương pháp phân tích kinh tế xã hội. Kết quả của những
phương pháp phân tích này có thể được dùng trong phạm vi các phương pháp
phân tích hiện tại, để tránh sự trùng lặp, và dữ liệu để so sánh nếu có bất kỳ hoạt động
nào đang diễn ra trong khu vực theo sự hướng dẫn của một phương pháp nghiên cứu.
I.3. Những số liệu cần thu thập:
Để lập ra nội dung cho việc thu thập số liệu đầu tiên đội cần phải phát
triển nhận thức về vùng nghiên cứu, những người tham gia và những hành động.
Những chỉ tiêu đó có thể được đánh giá đầy đủ trong các cuộc phỏng vấn; tuy
nhiên để xác đònh được nên nghiên cứu ở đâu và phải phỏng vấn bao nhiêu người
ít nhất 3 chỉ tiêu đó phải được đánh giá trước.
I.3.1 Các chỉ tiêu cần thu thập:
Các chỉ tiêu kinh tế xã hội sẽ được biểu hiện nhờ các phương pháp thu
thập số liệu: các nguồn thứ cấp, những thông tin chủ yếu hoặc các cuộc phỏng
vấn hộ gia đình. Nó được chia ra bằng cách tương quan với 2 loại hướng dẫn
phỏng vấn: một cách cho nguồn dữ liệu thứ cấp và những thông tin chủ yếu còn

cách khác cho những cuộc phỏng vấn hộ gia đình.
Một số chỉ tiêu như giới tính, tuổi tác và học vấn được thu thập thông qua
những người cung cấp thông tin chủ yếu hoặc các nguồn thứ cấp cũng như thông
qua các cuộc phỏng vấn hộ gia đình. Làm như vậy để kiểm tra chéo các kết quả
và cũng vì cả hai tập hợp dữ liệu ấy bổ sung lẫn cho nhau. Những người cung cấp
thông tin chủ yếu và nguồn tư liệu thứ cấp cung cấp ở mức độ cộng đồng thông
tin tổng hợp để đánh giá những biến động và xu hướng trong khi các tư liệu
phỏng vấn hộ gia đình cung cấp thông tin chính xác hơn về những hộ gia đình
riêng rẽ trong cộng đồng. Chẳng hạn, thông tin ở mức độ cộng đồng về nghề
nghiệp và dân số cho ta hiểu biết chung về số phần trăm số người có việc làm
14
trong cộng đồng qua mỗi loại nghề nghiệp và từng nhóm tuổi, trình độ văn hóa
chiếm bao nhiêu phần trăm trong cộng đồng. Ngược lại, thông tin hộ gia đình về
nghề nghiệp và dân số rất hữu ích cho việc xác đònh những đặc trưng đối với các
nhóm liên quan khác nhau. Chẳng hạn, thông tin có thể được dùng để xác đònh
tính dân tộc chủ đạo của mỗi một người đánh cá, của những người chủ khách sạn
hoặc những loại khác.
I.3.2. Các chỉ tiêu được lựa chọn sử dụng:
Nếu không có khả năng đánh giá toàn bộ các chỉ tiêu trong GSKTXH thì
đội sẽ giám sát ưu tiên các chỉ tiêu dựa trên sự suy xét sau:
I.3.2.1. Mục đích của những thông tin kinh tế xã hội
Quan trọng nhất, đội cần phải làm sáng tỏ tại sao dữ liệu sẽ được thu thập,
nhất là chúng được sử dụng như thế nào sau khi thu thập. Ví dụ, nếu đội quan tâm
đến nhận biết những nguy cơ thì họ có thể tập trung trên danh mục chỉ tiêu để
nhận biết những nguy cơ.
I.3.2.2. Tầm quan trọng chung của thu thập dữ liệu
Trong một vài trường hợp mục đích của việc giám sát kinh tế xã hội có thể
không rõ ràng và quỹ thời gian, nguồn lực có thể không cho phép đội thực hiện
tất cả các mục tiêu. Với trường hợp này, các chỉ tiêu được chia ra theo chỉ tiêu
nào được xem xét chung là quan trọng nhất và chỉ tiêu quan trọng thứ 2 để thu

thập. Chỉ tiêu quan trọng nhất được lựa chọn dựa trên:
- Khả năng hữu dụng cho việc quản lý.
- Dữ liệu dễ thu thập.
- Đúng sự thật và cung cấp các thông tin mới.
Bởi vì phỏng vấn hộ gia đình tốn thời gian hơn người cung cấp thông tin
chính và nguồn dữ liệu thứ cấp rất nhiều, nên chỉ có các chỉ tiêu phỏng vấn người
cung cấp thông tin chính/nguồn thứ cấp được xem xét cho việc thu thập dữ liệu sơ cấp.
I.3.2.3.Những điều kiện vò riêng
Có lẽ quan trọng nhất là, đội cần phải lựa chọn các chỉ tiêu dựa trên tầm
quan trọng được đặt trong khu vực nghiên cứu. Ví dụ, nếu như việc lãng phí là
việc quan trọng được đưa ra, thì đội có thể quan tâm đến cơ sở hạ tầng của cộng
đồng và thêm vào những câu hỏi riêng nhằm để tháo gỡ những sự lãng phí.
15
Đội cũng phải xem xét đến sự mong đợi thay đổi trong tương lai trong việc
quản lý và trong cộng đồng. Ví dụ, nếu du lòch đang phát triển thì đội có thể đặt
thêm những câu hỏi liên quan đến công nghiệp du lòch và những tác động của nó.
I.4. Phương pháp xử lý những dữ liệu thu thập được:
I.4.1. Phân tích
Phân tích cuối cùng là hoạt động đặc thù của đội. Phân tích số liệu cuối
cùng để có nhiều thông tin hơn trong các bài học thu thập được và các quy tắc cơ
bản cho việc phân tích. Việc phân tích dữ liệu có một vài bước bao gồm:
- Soạn tất cả các dữ liệu thu thập (chẳng hạn tập hợp tất cả các dữ liệu
thứ cấp, phỏng vấn những người cung cấp thông tin chính và phỏng vấn hộ gia
đình). Toàn đội phải tập trung tại cuộc họp để xem xét lại, phân tích và báo cáo
những tài liệu tìm được của mình.
- Chuẩn bò dữ liệu về số lượng và chất lượng bằng cách hoàn thành các
bảng phân tích bao gồm chuyển những liệu thứ cấp, phỏng vấn những người cung
cấp thông tin chủ yếu, phỏng vấn hộ gia đình sang các bảng phân tích.
- Trình giải các dữ liệu. Đội phải xem xét kết quả từ các bảng phân tích
để nhận biết và hệ thống những thông tin có liên quan đến việc nhận đònh những

mục đích ban đầu của việc giám sát kinh tế xã hội. Những điều đó có thể nhận
biết được bằng cách xem xét, liên hệ và tương quan dữ liệu để nhận ra những xu
hướng và mô hình nổi bật. Những mô hình và xu hướng sẽ trở thành những bài
học chính yếu. Những kết quả sau đó được soạn ra nhận biết dữ liệu bổ sung cho
các bài học chính yếu. Ví dụ, nếu như mục đích của việc giám sát là nhận biết
những tác động của việc quản lý vùng bờ thì một trong những mục tiêu chú ý có
thể thay đổi giữa cơ cấu nghề nghiệp và các hoạt động sử dụng như là kết quả
của sự thay đổi sẽ làm hạn chế một vài cách sử dụng. Về phân tích, có thể có xu
hướng chuyển đổi trong nghề nghiệp như là người dân chuyển từ đánh cá sang
nghề khác, trong cách sử dụng và nơi đánh bắt, nếu có việc chuyển đổi nghề
đánh cá thì bài học chính yếu có thể là sự hạn chế đã tác động vào hoạt động
đánh cá và người dân đã bỏ nghề đánh cá. Kết quả của cơ cấu nghề nghiệp và
các cách sử dụng có thể bổ sung cho bài học chính yếu này. Bằng việc xem xét
16
lại, liên hệ và xem xét tương quan với những phần khác của dữ liệu cho ta khả năng
nhận ra những thay đổi trong việc sử dụng và cách đối xử với nguồn lợi.
- Phác thảo của báo cáo cuối cùng. Đội phải quyết đònh kiểu của báo
cáo cuối cùng dựa trên mục đích và mục tiêu của buổi thảo luận.
- Hoàn thành bài học chính yếu. Đội thống nhất bài học chính yếu và các
thông tin bổ sung cho bài học chính yếu được nhận biết.
- Phê chuẩn các tài liệu phát hiện được. Các tài liệu phát hiện được trình
bày cho những bên tham gia để bình luận.
- Chuẩn bò báo cáo cuối cùng.
- Trình bày báo cáo cuối cùng để nhận biết buổi thảo luận và người hưởng lợi.
I.4.2. Truyền bá thông tin
Phương diện quan trọng nhất trong cả quá trình giám sát là thông tin các
kết quả liên quan tới các mục đích phản hồi lại cho những người tham gia thảo
luận nhằm vận dụng vào quản lý vùng bờ bao gồm cả việc sử dụng thông tin cho
việc cải tiến phương pháp quản lý sẽ được sử dụng trong tương lai. Chẳng hạn,
nếu như mục đích của việc giám sát kinh tế xã hội là nhằm để hiểu được giá trò

và tầm quan trọng của rạn san hô thì những kết quả liên quan đến nhận thức của
mọi người với những giá trò phi thò trường và phi sử dụng có thể dùng để hiểu giá
trò và tầm quan trọng. Nếu như các kết quả chỉ ra rằng nhận thức về giá trò của
việc bảo vệ rạn san hô tốt và có chiều hướng tăng lên thì điều đó chứng tỏ cho
công chúng và các nhà hoạch đònh chính sách tầm quan trọng của việc đặt nguồn
lợi trong sự bảo vệ các rạn san hô.
Theo các nguyên tắc thế thì các kết quả của việc giám sát kinh tế xã hội
rất cần được báo cáo trở lại cộng đồng thậm chí ngay cả khi họ không phải là
những người thảo luận có mục đích. Việc đó được thực hiện như một sự ưu ái với
những thành viên của cộng đồng, những người đã tốn thời gian cho các cuộc
phỏng vấn. Điều đó cũng sẽ giúp để bảo đảm cho những mối quan hệ thân thiện
sau này để làm việc với các cộng đồng. Sự vất vả của người đi phỏng vấn có
quan hệ mật thiết trong nỗ lực giám sát kinh tế xã hội và sẽ lôi kéo được nhiều
người tham gia vào quá trình và có được cách tiếp cận tới những kết quả mọi
người mong muốn tham gia vào các hoạt động giám sát thường xuyên.
17
Có rất nhiều cách truyền bá kết quả với những cuộc thảo luận. Những kết
quả của giám sát kinh tế xã hội có thể được truyền bá tới các cuộc thảo luận khác
nhau qua việc sử dụng những cơ chế thông tin một đường và hai đường. Những cơ
chế truyền thông một đường gồm:
- Các tư liệu bằng văn bản (báo cáo, các bài báo)
- Các tư liệu nhìn (áp phích, tranh ảnh)
- Trình bày miệng
- Báo chí (báo, tập san, radio, tivi)
- Internet
Cơ chế truyền thông tin 2 đường gồm:
- Thảo luận nhóm
- Thảo luận tay đôi
- Các bản in
- Truyền tin có điều kiện (điện thoại, Video phone, ghi hình trang web)

- Internet
Nếu các kết quả được truyền bá dưới dạng văn bản, mỗi báo cáo được
trình bày cho một mục đích hội họp. Báo cáo có thể có một số hình thức phụ
thuộc vào báo cáo cho loại hội họp nào.Một số những người sử dụng cuối cùng
như các nhà hoạch đònh chính sách có lẽ ít thích thú với cách mô tả chung chung
về vùng và các cộng đồng được nghiên cứu nhưng có lẽ họ lại quan tâm tới các
vấn đề và các kết luận sâu sắc. Ngược lại, những người sử dụng như các nhà
nghiên cứu, các cơ quan hoạch đònh kế hoạch phát triển ở trong vùng, các nhà
quản lý nguồn lợi vùng bờ lại muốn mô tả tỉ mỉ mọi điều kiện kinh tế xã hội và
các yếu tố ảnh hưởng tới những người dính líu đến nguồn lợi.
Thông thường báo cáo sẽ bao gồm:
- Tóm tắt chính: là tóm tắt thảo luận về các vấn đề nêu ra, các vấn đề
phải giải đáp, các cơ hội và các kết luận được sàng lọc từ giám sát.
- Lời giới thiệu: một thảo luận về mục đích chủ yếu và riêng biệt của
việc giám sát kinh tế xã hội.
18
- Phương pháp: thảo luận về các phương pháp chọn mẫu, các phương
pháp thu thập dữ liệu, đònh tính và đònh lượng các dữ liệu thu được và các phương
pháp phân tích được dùng.
- Các kết quả: trình bày kết quả chủ yếu từ việc giám sát bao gồm các
biểu bảng sơ đồ, tương quan giữa các chỉ tiêu và thảo luận về các quan hệ lệ
thuộc. Những kết quả cá biệt có thể được trình bày cho mỗi một trường hợp được
ghi trong phần phân tích cho mỗi trường hợp và bảng phân tích.
- Thảo luận: thảo luận về những bài học chủ yếu rút ra và những ứng
dụng kết quả được tổ chức xung quanh những mục đích được chọn lọc của giám
sát.
- Các khuyến nghò: các hành động quản lý được kiến nghò và các kết
luận cần phải thực hiện như là kết quả của việc giám sát.













19














CHÖÔNG II:
THỰC TRẠNG KINH TẾ XÃ HỘI
CUÛA CÁC HỘ GIA ĐÌNH KHAI
THÁC HẢI SẢN Ở PHƯỜNG
VĨNH NGUYÊN, VĨNH TRƯỜNG,

XƯƠNG HUÂN.

20
II.1. Lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh Khánh Hoà:
Khánh Hoà là một trong những tỉnh miền duyên hải Nam Trung bộ.Phía Bắc
giáp tỉnh Phú Yên, phía Nam giáp tỉnh Ninh Thuận, phía Tây giáp 2 tỉnh Đắc Lắc
và Lâm Đồng, phía Đông giáp biển Đông. Khánh Hoà có vị trí đặc biệt quan trọng
của cả nước. Địa bàn tỉnh nằm trên trục quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc –Nam,
là cửa ngõ của Tây Nguyên xuống đồng bằng qua quốc lộ 26, là tỉnh có nhiều cảng
biển quan trọng, đặc biệt là cảng Cam Ranh, đây là một trong ba cảng biển có điều
kiện thiên nhiên nổi tiếng trên thế giới. Khánh Hoà còn có đường hàng không nằm
trong hành lang bay của đường bay nội địa Bắc- Nam.
Diện tích tự nhiên của tỉnh Khánh Hoà cả trên đất liền và của hơn 200 đảo và
quần đảo là 5197 km2. Đất nông nghiệp tương đối phì nhiêu, có điều kiện thuận lợi
cho sản xuất các loại cây lương thực, cây công nghiệp và cây ăn trái có giá trị. Bờ
biển tỉnh Khánh Hoà kéo dài từ mũi Đại Lãnh (cap Varella) tới cuối vịnh Cam Ranh
và có độ dài khoảng 385 km (tính theo mép nước) với nhiều cửa lạch, đầm vịnh, với
hàng trăm đảo lớn, nhỏ và vùng biển rộng lớn. Đặc biệt huyện đảo Trường Sa là nơi
có vị trí kinh tế, an ninh quốc phòng quan trọng của cả nước. Biển Khánh Hoà có tài
nguyên phong phú, với nhiều loại hải đặc sản như: tôm, mực, các loại cá…đặc biệt
là yến sào, một loại đặc sản quý hiếm, được coi là “vàng trắng”, có giá trị xuất khẩu
cao.
Khánh Hoà là một vùng đất không rộng nhưng thiên nhiên đã ưu đãi cho
Khánh Hoà nhiều danh lam thắng cảnh. Các bải biển như Đại Lãnh, Dốc Lết, Bãi
Trũ, Nha Trang, vịnh Vân Phong, Cam Ranh…là những cảnh đẹp nổi tiếng từ xưa
được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến.Sông ngòi ở Khánh Hoà không
lớn nhưng mật độ sông suối khá dày. Toàn tỉnh có khoảng trên 40 con sông lớn nhỏ,
trong đó có hai sông chính là sông Cái Nha Trang (sông Cù) dài 75 km và sông Cái
Ninh Hoà (sông Dinh) dài 49 km. Nằm trong khu vực duyên hải miền Trung, Khánh
Hoà chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng khô ráo ôn hoà, quanh năm

nắng ấm, thường chỉ có hai mùa rõ rệt. Lượng mưa cũng tương đối ít, trung bình
năm từ 1200 đến 1800 mm.
Với các điều kiện thiên nhiên ưu đãi nói trên, Khánh Hoà là vùng đất có
nhiều thuận lợi để phát triển nền kinh tế hàng hoá, dịch vụ du lịch, cũng như xây
dựng và củng cố an ninh quốc phòng.
Theo các nguồn tài liệu trong các bộ sử của nước ta, vào mùa xuân năm Quý
Tỵ 1653, trong tiến trình mở rộng cương giới tổ quốc Đại Việt (nay là Việt Nam),
theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Tần, cai cơ Hùng Lộc Hầu (chưa rõ họ tên) đã lấy
vùng đất từ bờ sông Phan Rang (tỉnh Ninh Thuận ngày nay) đặt dinh Thái Khang.
21
Về mặt hành chính, dinh Thái Khang được chia thành hai phủ là phủ Thái Khang và
phủ Diên Ninh. Phủ Thái Khang trông coi, quản lý hai huyện là Quảng Phước và
Tân Định (tức là toàn bộ phần đất hai huyện Vạn Ninh và Ninh Hoà ngày nay),phủ
Duyên Ninh trông coi, quản lý ba huyện Vĩnh Xương, Phước Điền, Hoa Châu (tức
là toàn bộ phần đất của thành phố Nha Trang,huyện Diên Khánh, Khánh Vĩnh,
Khánh Sơn, thị xã Cam Ranh tỉnh Khánh Hoà và một phần đất từ sông Phan Rang
ra đếm địa phận Khánh Hoà-Ninh Thuận của tỉnh Ninh Thuận ngày nay). Dinh
đóng ở huyện Tân Định phủ Thái Khang (huyện Ninh Hoà ngày nay).
Như vậy, với việc đặt dinh Thái Khang và chia dinh thành hai phủ Thái
Khang, Diên Ninh trông coi 5 huyện như trên, chúa Nguyễn đã đưa vùng đất Khánh
Hoà ngày nay hội nhập vào lãnh thổ Đại Việt (nước Việt Nam ngày nay). Sự kiện
lịch sử này được coi là mốc thời gian mở đầu cho sự hình thành địa phận hành
chính tỉnh Khánh Hoà ngày nay.
Sau giải phóng 2/4/1975, Khánh Hoà đứng trước nhiều vấn đề phức tạp do
hậu quả của chiến tranh để lại. Đó là một nền kinh tế phụ thuộc và phục vụ cho
chiến tranh. Sản xuất nông nghiệp là chủ yếu nhưng manh mún và lạc hậu. Hàng
vạn người không có việc làm, đồng bào dân tộc miền núi bị đói kém, bệnh tật. Bọn
phản động do Mỹ cài lại lén lút phá hoại…Mặc dù vậy, Đảng bộ và nhân dân
Khánh Hoà đã nhanh chóng tiếp quản, làm chủ tình hình từ thành thị đến nông thôn,
từ đất liền đến hải đảo, từ các cơ sở quân sự đến các cơ sở kinh tế, hành chính của

địch. Tổ chức chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng được xây dựng
nhanh chóng từ tỉnh đến xã, phường.
Song song với công tác tiếp quản, thiết lập và củng cố chính quyền cách
mạng, trấn áp bọn phản cách mạng, tỉnh đã khẩn trương bắt tay vào việc ổn định đời
sống, nhất là giải quyết nạn đói, việc làm, tổ chức lại các ngành nghề trở lại bình
thường. Cùng với những việc làm đó, tỉnh đã tổ chức thu dụng số công nhân viên
chức cũ trở lại làm việc, sắp xếp việc làm cho những người lao động khác. Các nhà
máy điện, máy nước, bệnh viện, trường học…được khôi phục trở lại hoạt động,
phục vụ cuộc sống của nhân dân. Nhờ những cố gắng nói trên, cuộc sống của nhân
dân trong tỉnh sớm được ổn định để bước vào thời kỳ mới.
Trước yêu cầu đổi mới của đất nước, nhằm tạo điều kiện phù hợp cho mỗi
địa phương có thể phát huy cao độ mọi tiềm năng của mình, ngày 1/7/1989 theo
Quyết định của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII (kỳ
họp thứ năm) tỉnh Phú Khánh được tách ra thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà.
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế của tỉnh phát triển tương đối toàn
diện và liên tục, với nhịp độ tương đối cao. Thời gian qua, tổng sản phẩm nội địa
22
(GDP) tăng bình qn thời kỳ 1991- 1995 là 13- 14%; thời kỳ 1996 -2000, trong bối
cảnh tình hình kinh tế có nhiều yếu tố khơng thuận lợi, nhất là các cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực nhưng vẫn đạt ở mức 8.2%; thời kỳ 2001- 2003 là
11.05%. Đến năm 2003,GDP bình qn đầu người đạt 545 USD; giá trị xuất khẩu
cơng nghiệp đạt 6280 triệu đồng; tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt 305
triệu USD; doanh thu du lịch đạt 360 tỷ đồng.Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo
hướng tăng dần tỷ trọng cơng nghiệp và du lịch, phù hợp với cơ chế thị trường, tạo
ra các mặt hàng chủ lực mang lại giá trị kinh tế cao. Lĩnh vực thu ngân sách nhà
nước trên địa bàn tỉnh liên tục có sự bức phá ngoạn mục. Nếu như tổng thu ngân
sách giai đoạn 1996- 2000 tăng gấp 2.5 lần so với 5 năm trước và năm 2000 chúng
ta mới gia nhập”Câu lạc bộ 1000 tỷ”, thì đến năm 2001 số thu ngân sách đã đạt trên
1300 tỷ, năm 2002 là 1772 tỷ và năm 2003 đạt 2300 tỷ đồng. Đặc biệt, trên cơ sở
vận dụng linh hoạt các chính sách của Trung ương, tỉnh đã quyết định đầu tư đúng

hướng, chủ động xây dựng cơ chế, huy động được nhiều nguồn vốn để tập trung
xây dựng thành cơng và thực hiện thành cơng một số chương trình kinh tế xã hội
trọng điểm nhằm phát triển cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực sản xuất, tạo tiền đề
quan trọng cho bước phát triển trong những năm tiếp theo.
II.2. Tình hình kinh tế xã hội của các hộ gia đình khai thác hải sản ở phường
Vónh Nguyên:
Phường Vónh Nguyên trước đây có tên là vònh Vónh Xương, sau giải phóng
(1975) thì đổi tên thành phường Vónh Nguyên. Phường Vónh Nguyên là phường
biển nằm về phía Đông Nam của thành phố Nha Trang, diện tích 40,2 Km
2
với
4300 hộ gia đình, khoảng 23.000 dân, cấu thành nên 22 tổ dân phố, có 6 cụm dân
cư ở đất liền và 6 cụm dân cư ở các đảo (Trí Nguyên, Bích Đầm,Đầm Bấy, Hòn
Nọc,Vũng Ngán, Vũng Bè, Bãi Trủ – Vũng Me). Đòa bàn phường là 1 trong
những đòa điểm phát triển du lòch của thành phố Nha Trang, bình quân 1 ngày có
gần 1000 khách du lòch trong và ngoài nước đi tham quan ở các đảo, có ngày cao
điểm lên tới 5000 khách. Đại đa số người dân làm bằng nghề biển chiếm khoảng
60% dân số; 10-15% là cán bộ công nhân viên chức; 10% làm dòch vụ du lòch;
còn lại làm các nghề buôn bán nhỏ và chăn nuôi khác. Năm 2004 phường có 495
chủ phương tiện với công suất gần 8050 mã lực ( CV).
23
Với quỹ thời gian có hạn và trong khả năng của mình, trong đợt thực tập
này em tìm hiểu về tình hình kinh tế xã hội của các hộ ngư dân ở phường những
vấn đề sau :
1. Số thành viên trong hộ gia đình
2. Trình độ văn hoá của các thành viên
3. Thời gian tham gia khai thác của các thành viên
4. Tình hình tài chính của các hộ gia đình
5. Công suất máy của tàu các nghề
6. Tình hình đánh bắt của các hộ gia đình

7. Quan điểm và nhận thức của các hộ gia đình
8. Mức tiêu thụ cá của các hộ gia đình
II.2.1. Số thành viên trong hộ gia đình :

Bảng 1: Điều tra số thành viên trong hộ gia đình

Số thành viên trong hộ gia
đình (người)
Số hộ gia đình

Tỷ trọng (%)
2 1 1.8
3 4 7.1
4 5 8.9
5 14 25
6 15 26.8
7 9 16.1
8 4 7.1
9 2 3.6
10 1 1.8
11 1 1.8
Tổng cộng 56 100
24
So thanh vien trong gia dinh
So thanh vien trong gia dinh
111098765432
Percent
30
20
10

0


Hình 1: Biểu đồ số thành viên trong hộ gia đình

Bảng 2: Tổng hợp số thành viên trong hộ gia đình







Số thành viên trong hộ gia
đình (người)
Số hộ gia đình Tỷ trọng (%)
Dưới 5 thành viên 10 17.9
Từ 5 đến 9 thành viên 44 78.6
Từ 10 thành viên trở lên 2 3.6
Tổng cộng 56 100
25
So thanh vien
So thanh vien
Tu 10 thanh vien troTu 5 den 9 thanh vieDuoi 5 thanh vien
Percent
100
80
60
40
20

0

Hình 2 : Biểu đồ tổng hợp số thành viên trong hộ gia đình

Qua các bảng số liệu trên ta thấy trong tổng số 56 hộ gia đình thì: số hộ có
dưới 5 thành viên chiếm 17.9%, số hộ gia đình có từ 5 đến 9 thành viên chiếm
78.6%, số hộ gia đình có trên 10 thành viên chiếm 3.6%.
Như vậy, ở phường chủ yếu là những gia đình có từ 5 đến 9 thành viên,
trong một hộ gia đình mà có từ 5 đến 9 thành viên thì đây là một con số không
nhỏ, điều này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của các thành viên vì hiện
nay Chính Phủ ta đang khuyến khích mỗi gia đình chỉ nên có từ 1 đến 2 con để
nuôi dạy và chăm sóc tốt hơn. Vì vậy, các cấp chính quyền cần cố gắng hơn trong
công tác tuyên truyền kế hoạch hoá gia đình đến từng hộ gia đình.

Bảng 3: Điều tra số thành viên tham gia khai thác trong các hộ gia đình

Số thành viên trong hộ gia
đình tham gia khai thác
Số hộ gia đình Tỷ trọng (%)
1 20 35.7
2 21 37.5
3 8 14.3
4 7 12.5
Tổng cộng 56 100

×