Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thử thách lớn nhất và cũng là bi đátnhất của Thúy Kiều ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.54 KB, 27 trang )



Thử thách lớn nhất và cũng là bi đát
nhất của Thúy Kiều
chính là hoàn cảnh mà nàng đã bị đẩy vào: làm kĩ nữ
chốn lầu xanh. Nói gì đến giữ gìn danh tiết với Kim Trọng,
trong hoàn cảnh ấy, ngay cái nhân cách tối thiểu của
người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào để giữ cho
khỏi bị mai một được? Làm thế nào để viết về thực tế ấy –
thực tế của cái cảnh “sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn
thể hiện được nhân cách của nhân vật, vẫn bộc lộ được
thái độ trân trọng, sự cảm thông, vẫn nói lên được sự đau
khổ, thương thân phận mình của nhân vật? Tài năng nghệ
thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần
nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn
trong đoạn trích “Nỗi thương mình”.
“Rường cao rút ngược dây oan
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha,
trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15
năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc
lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần
nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước
ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng
khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng
không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở
Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên:
“Thân lươn bao quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau
xin chừa”. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã
của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem tấm thân
trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm


tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của Kiều
trong thời gian ấy.
Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác
của Thanh Tâm tài nhân thì trọng tâm của đoạn này: một
mặt là bài ca kể về thân phận Thúy Kiều từ khi gia biến
đến khi bị Sở Khanh lừa và phải đồng ý tiếp khách, mặt
khác tập trung vào lời dạy của Tú Bà về nghề kĩ nữ. Đến
Nguyễn Du, cách xử lí nghệ thuật đã có sự thay đổi hoàn
toàn. Gốc rễ của cách xử lí nghệ thuật độc đáo ấy là cách
nhìn mới mẻ và chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ của nhà thơ.
Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là
“Những nỗi lòng tê tái”. Trong sách giáo khoa mới, “Nỗi
thương mình” chỉ vẻn vẹn 20 câu nhưng đã nói lên tất cả
nỗi tê tái của Kiều nhưng quan trọng hơn là đoạn trích đã
thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu sắc và tiến bộ: ý thức
về thân phận, phẩm giá của nàng Kiều – ý thức thương
thân, xót thân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học trung
đại Việt Nam.
Có một bài toán “nan giải” đặt ra với Nguyễn Du: tác giả
muốn tố cáo một cách sâu sắc nơi đã vùi dập Kiều, những
thân phận như Kiều. Đó cũng là một hình ảnh thu nhỏ của
xã hội phong kiến mà Kiều đang sống với tất cả sự nhơ
nhớp, mục ruỗng của nó. Cái khó là: nói về cảnh lầu xanh
nhưng làm sao cho sự miêu tả hiện thực đó không gây ra
phản cảm với độc giả, không hạ thấp nhân vật, thể hiện
được nhân cách, phẩm giá của nhân vật trong sự cảm
thông của nhà thơ. Nguyễn Du đã thành công với những
xử lí nghệ thuật độc đáo của mình.
Đoạn trích có một kết cấu lôgíc với diễn biến tâm trạng:
đoạn đầu giới thiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều, “khi tỉnh

rượu… nào biết có xuân là gì” đi sâu vào tâm tình, nỗi
niềm của Kiều trong cảnh sống ấy, và đoạn cuối tả cảnh
để cực tả tâm trạng cô đơn, ý thức về thân phận, phẩm
giá của Kiều.
Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là cả một hiện thực tàn
nhẫn mà Kiều phải chịu đựng: chốn lầu xanh với những
đặc trưng của nó:
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.
Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng nhuần
nhuyễn đến mức trở thành một công cụ nghệ thuật đắc
lực. Bởi vì trên thực tế, nếu phải gọi sự thật bằng đúng cái
tên của nó thì Kiều trong đoạn trích này là một cô gái lầu
xanh. Một loạt từ ngữ dẫu là ước lệ vẫn đủ để thông báo
về tình cảnh và thân phận của Kiều – mặc dù bốn câu đầu
này, nhân vật không hề được miêu tả trực tiếp: “bướm lả
ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các
điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường
Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu.
Nguyễn Du đã tìm được một góc nhìn và cách xử lí nghệ
thuật đặc biệt: viết về cảnh lầu xanh nhưng lại dùng
những từ và hình ảnh rất nhã. Cách xử lí nghệ thuật này
giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan giải, một mặt vẫn tả
thực, không né tránh hiện thực và cảnh sống thực tế của
nhân vật chính, mặt khác vẫn giữ được chân dung cao
đẹp của nhân vật chính Thúy Kiều, qua đó thể hiện thái độ
cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho nhân vật. Thái
độ này là nhất quán trong tác phẩm.

Quan sát kĩ hơn những chi tiết nghệ thuật mà Nguyễn Du
cố ý bày ra sẽ nhận thấy sự mâu thuẫn ẩn chứa bên trong
cảnh tượng. Những từ “đầy tháng, suốt đêm” là những từ
chỉ số nhiều, cho thấy sự nhộn nhịp của lầu xanh, nơi mà
Tú Bà “ăn nên làm ra”, lầu xanh như một chốn đang vào
dịp “được mùa”, “đắt khách”. Cái xấu như đang ra sức
bòn rút tất cả những giá trị của con người. Lầu xanh trở
thành nơi chôn vùi không biết bao nhiêu số phận như
Kiều. Cảnh lầu xanh thực chất cũng là một phần của bức
tranh XHPK Trung Quốc thời Minh – Thanh thu nhỏ, cả
thời đại mà Nguyễn Du sống, cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19.
Xã hội ấy cũng đã được nói đến qua những tác phẩm
cùng thời: Phủ Chúa Trịnh, Hoàng Lê nhất thống chí,
Cung oán ngâm…
Phép đối xứng kết hợp với nghệ thuật tách từ, đảo từ là
một sáng tạo của Nguyễn Du. Đối xứng nhỏ nhất được
thiết lập bằng cách tách hai từ ghép để tạo thành một cụm
từ mới, có tác dụng tăng thêm, cụ thể hóa hơn nét nghĩa:
tại lầu xanh, bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, nhộn
nhịp. Tiếp theo là đối xứng trong từng câu thơ: Cuộc say
đầy tháng/ trận cười suốt đêm; Sớm đưa Tống Ngọc/ tối
tìm Trường Khanh… kết hợp với những từ chỉ số nhiều:
đầy tháng, suốt đêm diễn tả cái xô bồ, gấp gáp của một
cuộc sống ăn chơi, nhốn nháo, dung tục. Thường thì
người ta dùng từ “trận” để nói về trận đánh, trận mắng
chửi chứ không ai nói là “trận cười”. Bản thân cách dùng
từ này đã đủ cho thấy nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà
Kiều phải chịu đựng.
Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng
những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy

Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do
vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực
tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một
cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà
chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé
mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã
“bọc lụa” cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ
rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo
điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của
Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn
tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể
hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu
đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những
câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả
dành cho Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở
lầu xanh có nhiều người đàn bà, có thể họ an tâm, yên
phận và cam chịu với nghề nghiệp để kiếm sống, trớ trêu
thay Kiều lại là một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm
hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm
trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, giữa
cái xót xa của hoàn cảnh là cái “giật mình” đầy nhân b
(Các) nguồn
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân
Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì”
Bắt đầu từ cái “giật mình” đoạn thơ mở ra cả một bức
tranh tâm cảnh – có thể nói cách khác là bức chân dung
tự họa tinh thần Thúy Kiều. Vẫn là không gian lầu xanh,
thời gian là lúc “tỉnh rượu, tàn canh” – đêm khuya là thời
gian của tâm trạng. Tại sao không phải là một thời điểm
khác? Bởi vì triền miên trong những “cơn say, trận cười”,
những “bướm lả ong lơi”, những khách làng chơi dập dìu
tối ngày, chỉ đến khi tàn canh Kiều mới có thời gian để
sống với tâm trạng thực của mình. Thời điểm này có lẽ là
thời điểm dành riêng cho tâm trạng của người phụ nữ. Hồ
Xuân Hương cũng để cho nhân vật trữ tình của mình “tự
tình” trong những khoảnh khắc như thế:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Cái “giật mình” nói lên tất cả những nỗi niềm của Kiều: sự
thảng thốt, ngạc nhiên, bẽ bàng, xót xa cho thân phận của
mình, là sự tự ý thức chua chát về cảnh ngộ trớ trêu, nhục
nhã trên cơ sở sự trỗi dậy của một nhân cách đẹp. Nhịp
điệu thơ biến đổi, đang từ 2/2/2 hoặc 4/4 chuyển sang 3/3
cân đối diễn tả bước đi của thời gian, đến câu bát, nhịp
thơ lại đột ngột thay đổi, phá cách 2/4/2 – một nhịp thơ thể
hiện sự thảng thốt.
“Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Câu thơ chứa đựng hai biến thái, hai nét tâm trạng tiêu
biểu của Kiều trong hoàn cảnh éo le của nàng. “Giật mình”
thể hiện tâm trạng thảng thốt, sự lặp lại 3 lần từ “mình”
khiến âm điệu câu thơ trở nên nặng nề, như tiếng nấc đan
xen với tiếng thở dài, tiếng nấc nghẹn ngào, đau đớn.
“Giật mình” mới là ý thức ban đầu nhưng “thương mình”,

“xót xa” thì lại là sự ngẫm lại. Giật mình vì hiện tại nhục
nhã, đớn đau, Kiều lần tưởng về quá khứ, nhưng nếu như
quá khứ chỉ được nhắc đến qua một câu thơ thì lập tức
hiện tại lại được nhấn mạnh qua nhiều câu thơ liên tiếp,
hiện tại vẫn cứ níu giữ, vẫn cứ bám riết một cách quyết
liệt và ghê tởm. “Thương mình” dường như là mạch cảm
xúc xuyên suốt toàn bộ đoạn trích (chọn làm tên đọan
trích) ở đây đã được Nguyễn Du để cho nhân vật đau đớn
nhận ra.
Nếu như trước kia trước mộ Đạm Tiên, Kiều vì thương
cảm, thương người mà khóc lên thì ở đây, trong chính
tình cảnh trớ trêu này – sống đúng với thân phận trước kia
của Đạm Tiên, Kiều chỉ còn biết thương cho chính mình
và dường như cũng chỉ đủ sức để khóc thương cho chính
số kiếp bèo bọt của mình. Ngay cả cái cảm giác tự mình
phải thương lấy chính mình đã đủ làm nên một bi kịch. Cái
“thương mình” này vừa thể hiện sự cô độc đến tuyệt đối,
vừa thể hiện sự tủi phận cùng cực của Kiều, vừa thể hiện
ý thức cá nhân mãnh liệt. Bản thân từ “mình” đã là một
thứ ý thức cá nhân được phát biểu rất rõ ràng. Trước
Nguyễn Du, ít có người phát biểu ra như thế. Hồ Xuân
Hương từng để cho người phụ nữ bẽ bàng về thân phận
mình qua những hình tượng: trơ “cái hồng nhan”, “chiếc
bách”, chém cha “cái số hoa đào”… chứ chưa thể hiện
trực tiếp như Nguyễn Du.
Nhưng trớ trêu và xót xa thay, 3 lần “mình” mà vẫn cô
đơn, vắng lặng biết bao nhiêu. Đó chính là tiếng lòng Kiều
phát ra rồi lại dội lại, người nói cũng là người nghe trong
cái âm hưởng tự thương thân xót xa, nó nhói lên như một
vết thương, một nỗi đau thường trực, cộng hưởng tạo cho

câu thơ một dư ba da diết.
Rồi trong cái âm điệu thương thân kia là bao nhiêu hồi ức
dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”
Một loạt câu hỏi tu từ kết hợp với câu cảm, với những
hình ảnh đối lập diễn tả sự thảng thốt của Kiều về thực tại
và số kiếp của mình. Tự Kiều đến giờ vẫn không thể hiểu
vì sao quá khứ và hiện tại lại thay đổi nhanh như thế. Có
một qui luật tâm lí là khi chán chường với hiện tại, người
ta thường chạy trốn vào quá khứ tươi đẹp, ở đây Kiều đã
hồi tưởng về quá khứ nhưng quá khứ ngắn ngủi ấy không
đủ để cứu vớt nàng ra khỏi thực tại đau buồn. Ngay kết
cấu của các câu thơ đã thể hiện điều đó: cứ một câu nói
về quá khứ thì lại liền sau đó là ba câu tả thực tại phũ
phàng.
Sự đối lập gay gắt giữa quá khứ và hiện thực còn được
Nguyễn Du cực tả bằng một loạt các biện pháp nghệ thuật
đặc sắc. Cụm từ “bướm chán ong chường” (hô ứng với
“bướm lả ong lơi” ở trên) và “dày gió dạn sương” là hai
sáng tạo về từ của Nguyễn Du: đảo trật tự và tách từ. Các
đối xứng trong từng cụm từ, từng câu là phép đối trong
các câu thơ nối tiếp nhau: Khi sao… Giờ sao… Mặt sao…
Thân sao… Sự đối xứng này đào sâu thêm nỗi xót xa, nó
mở rộng thêm sự đối xứng “mình” và “mình” tạo nên sự
đối lập giữa hai cực cuộc đời: sướng và khổ, bình yên và
dập vùi sóng gió. Hai từ “khi” và “giờ” là hai khoảng thời
gian đối xứng mà ở đó, Kiều càng tiếc cái xưa kia chừng

nào thì lại càng thấy cái nay thê thảm chừng ấy. Những từ
ngữ tương phản gay gắt: phong gấm rủ là/tan tác; dày
gió/dạn sương; bướm chán/ong chường… và cách so
sánh: “như hoa giữa đường” gợi lên sự đối lập tuyệt đối
giữa quá khứ và hiện thực, giữa cá nhân và hoàn cảnh.
Nếu “bướm lả ong lơi” là tả cái khách quan bên ngoài - chỉ
bọn đàn ông lắm tiền háo sắc thì “Bướm chán ong
chường” ở đây lại chỉ tâm trạng chán chường, mỏi mệt,
ghê sợ chính bản thân mình của nhân vật khi bị đẩy vào
hoàn cảnh sống nhơ nhớp. Nhưng có lẽ điều mà Nguyễn
Du muốn nhấn mạnh hơn ở trong những câu thơ này
không phải là sự tố cáo và lột trần trực tiếp cái xã hội thối
nát mà chính là sự đề cao giá trị con người, đề cao khát
khao chính đáng về tình yêu và hạnh phúc. Từ “xuân” do
vậy, không chỉ mùa xuân, tuổi trẻ, mà chỉ hạnh phúc lứa
đôi, tình yêu. Trong cuộc sống “làm vợ khắp người ta”,
Kiều chỉ thấy nhục nhã, trơ lì và vô cảm.
Cả một trường tự vựng nói về cảnh lầu xanh, bên cạnh đó
lại là cả một trường từ vựng nói về tâm trạng, nỗi đau của
Kiều – bản thân câu chữ đã mang đầy ý nghĩa về một sự
đối lập, sự mâu thuẫn giằng xé của Kiều khi tiếng nói về
nhân phẩm đang gào thét giữa thực tại.
Đoạn thơ là lời than hay là câu hỏi đối thoại nội tâm của
Thúy Kiều? Là lời than hay câu hỏi thì cũng chỉ gợi lên ở
cái ấn tượng về sự cô độc tột cùng. Đoạn thơ đậm chất
ngôn ngữ nửa trực tiếp, là lời tác giả thể hiện giọng điệu,
suy nghĩ của nhân vật, như lời độc thoại nội tâm. Điều đó
cho thấy nhân vật ý thức sâu sắc về cuộc sống tủi nhục,
đau khổ của mình. Đó cũng chính là sự tự ý thức sâu sắc
về phẩm giá, nhân cách bản thân, về quyền sống bản

thân, khát khao muốn thoát khỏi cuộc đời kĩ nữ.
Nếu như Kiều trong tác phẩm của Thanh Tâm tài nhân là
người nhập tâm rất tốt các bài học tiếp khách của Tú Bà,

×