CÁC CHỨNG BỆNH VÙNG CỘT SỐNG CỔ
1. Đại cương
Đau vùng cổ vai là bệnh lý khá phổ biến, bệnh do nhiều nguyên nhân, thường xảy
ra ở người lớn, đặc biệt từ trên 40 tuổi, làm ảnh hưởng nhiều đến năng xuất lao
động xã hội. Theo Kramer Jurgen, tỷ lệ mắc bệnh đĩa đệm cột sống cổ chiếm
36,1%, đứng thứ hai sau bệnh lý đĩa đệm cột sống thắt lưng. Ở các trung tâm
chuyên khoa thần kinh, chứng đau vùng cổ vai chiếm tới 18,2% của cơ cấu mặt
bệnh điều trị nội trú. Tại các phòng khám đa khoa, tỷ lệ bệnh nhân đau cổ – vai
đến khám khoảng 28 – 35%. Hồ Hữu Lương và cs cho thấy tỷ lệ bệnh nhân đau cổ
– vai – cánh tay điều trị tại khoa Thần kinh – Bệnh viện 103 trong 10 năm từ 1990
– 1999 chiếm 23,1%. Vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân các chứng bệnh
đau cổ – vai, đồng thời điều trị và dự phòng các chứng bệnh này là một yêu cầu
cấp thiết đối với đời sống xã hội, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều chuyên ngành nội,
ngoại khoa, điều trị lý liệu, phục hồi chức năng.
1.1. Nhắc lại sơ lược giải phẫu, sinh lý cột sống cổ:
Cột sống có 32 – 33 đốt, trong đó 7 đốt sống cổ từ C1 – C7, đốt C1 còn gọi là đốt
đội, đốt C2 còn gọi là đốt trục. Cột sống cổ có đường cong ưỡn ra trước. Thân đốt
sống có đường kính ngang lớn hơn đường kính trước – sau, ở mặt trên có hai mỏm
móc hay gọi là “mấu bán nguyệt”, cuống sống tròn và dày, mỏm ngang có lỗ
ngang cho động mạch đốt sống đi qua, từ C2. Gai sống tách làm hai củ dài dần từ
C2 – C7. Lỗ đốt sống to dần từ C1 – C5, nhỏ dần từ C6 và C7.
Giữa hai đốt sống từ C2 trở xuống có các đĩa đệm gian đốt sống, các đĩa đệm này
dày ở phía trước, mỏng ở phía sau, tạo nên đường cong ưỡn ra trước. Mỗi đĩa đệm
được cấu tạo bởi các vòng sợi collagen và nhân nhầy có chiều cao 3mm bằng 2/5
chiều cao thân đốt sống. Đĩa đệm cột sống cổ. Các đĩa đệm này chỉ được nuôi
dưỡng trực tiếp từ các mạch máu tới 3 tuổi. Từ 4 tuổi trở nên đĩa đệm được nuôi
dưỡng chủ yếu bằng biện pháp khuyếch tán (diffusion). Thần kinh của đĩa đệm rất
nghèo, chỉ có rất ít sợi cảm giác phân bố cho đĩa đệm.
Các khớp đốt sống là sự nối tiếp giữa hai đốt sống bởi các khớp nhỏ, các diện
khớp của cuống sống được gọi là khớp gian cuống sống, ở mỗi bên của thân đốt
sống C2 tới đốt sống ngực D1 có một mỏm móc, các mỏm móc này khớp với diện
bên của thân đốt sống tạo thành các khớp Luschka. Lỗ liên đốt sống có các rễ thần
kinh tủy sống đi qua, vì vậy khi các mỏm móc bị thoái hoá tạo gai xương sẽ kích
thích hoặc chèn ép rễ thần kinh và ảnh hưởng đến động mạch đốt sống.
Các dây chằng đốt sống có tác dụng hạn chế sự chuyển động và bảo vệ các thành
phần trong ống sống như tủy sống cổ và các rễ thần kinh, gồm có dây chằng
ngang, dây chằng dọc sau, dây chằng vàng và dây chằng gáy.
Các cơ của cổ có hai nhóm: cơ gấp và cơ duỗi đầu. Động tác gấp đầu chủ yếu là
cơ thẳng ngắn và cơ đầu dài. Động tác ngửa đầu là 4 cơ ngắn. Các cơ dài là các cơ
xoay đầu nhưng cũng là các cơ duỗi khi chúng co cả hai bên. Các cơ cổ chủ yếu có
nhiệm vụ quay đầu, bảo vệ và chống lại chấn thương cho cổ và tủy sống.
Ống sống và các thành phần trong ống sống: ống sống được tạo thành bởi thân đốt
sống, các cuống và cung sau đốt sống, kéo dài từ lỗ chẩm đến xương cụt. Tủy sống
nằm trong ống sống, sau đó là các rễ thần kinh, màng nhện, màng cứng, các mạch
máu nuôi dưỡng dủy. Các tổ chức ngoài màng cứng gồm tổ chức mỡ và các tĩnh
mạch.
Tủy cổ có đường kính trung bình là 12cm nhưng từ C6 – D1 thì to hơn tạo thành
phình cổ. Các rễ thần kinh cổ: có 8 cặp rễ thần kinh tủy sống cổ (do giữa chẩm C1
có rễ C1). Các rễ có tên tương ứng với các đoạn cột sống cổ và chạy ngang với lỗ
liên đốt. Mỗi dây thần kinh tủy sống được tạo thành bởi dây trước (rễ vận động) và
rễ sau (rễ cảm giác).
Màng tủy có hai màng: màng cứng và màng nhện. Khoang dưới nhện chứa dịch
não tuỷ nằm giữa màng cứng và màng nhện, thông với khoang dưới nhện sọ não.
Khoang ngoài màng cứng chứa đựng một lớp mỡ, bên trong có các tĩnh mạch
không van như một đám rối chạy dọc ống sống thông với đám rối đốt sống nền.
Các mạch máu tủy sống: động mạch đốt sống sau khi tách từ động mạch dưới đòn
chui qua lỗ mỏm ngang từ C6 – C3 hợp thành động mạch thân nền và hoà vào
vòng Willis ở nền não. Động mạch đốt sống thân nền tách ra các nhánh nuôi thân
não và tiểu não.
Đám rối thần kinh cổ: từ đoạn tủy sống C1 – C4 tách ra các rễ bụng (rễ trước) để
tạo thành đám rối cổ, nằm ở sát 4 đốt sống cổ trên, giữa nhóm cơ sâu ở trước – bên
cổ, được che phủ bởi cơ ức - đòn - chũm. Các nhánh của đám rối này chi phối cho
da, cơ vùng đầu và cổ, rễ C1 và C2 tạo thành dây thần kinh chẩm lớn (dây Arnold)
phân bố da gồm có dây thần kinh chẩm bé, tai lớn, dây xuyên da của cổ và dây
thần kinh trên đòn. Ngoài ra còn có các nhánh cơ: nhánh cơ thang, cơ ức đòn
chũm, cơ nâng vai, cơ sâu của cổ ở phía trước đốt sống. Các cơ chạy từ cằm xuống
xương đòn (các cơ móng), dây thần kinh hoành chi phối cho cơ hoành, có các
nhánh nối thông tới gai sống, dưới lưỡi, dây phế vị và thần kinh giao cảm.
Hệ thần kinh giao cảm cổ có hai chuỗi thần kinh giao cảm vùng cột sống cổ, tác
động tới tuần hoàn, tuyến mồ hôi và nang lông. Có 3 hạch cổ phân bố thần kinh
thực vật cho nội tạng, vùng cổ, đầu và hai tay.
1.2. Nguyên nhân
- Do biến đổi sinh lý – bệnh lý ở tất cả các thành phần cấu trúc, chức năng biểu
hiện dưới các dạng: thoái hoá, viêm, u, chấn thương cột sống cổ.
- Do nguyên nhân cơ học gây nên các hội chứng bệnh lý cột sống cổ như: phong
cách sinh hoạt thiếu khoa học, dùng cổ chịu tải trọng quá mức, sử dụng bàn ghế
không đúng quy cách buộc cổ phải thường xuyên ở tư thế không đổi, quá gù, quá
ưỡn. Do các ngành nghề buộc phải giữ cổ ở các tư thế thường xuyên bất lợi với
các chức năng sinh lý của cột sống như các nghề đánh máy, kế toán, thợ nề, thợ
quét vôi, lái xe cơ giới, vận động viên thể thao, nghệ sỹ xiếc, nghệ sỹ dương cầm,
vĩ cầm…
1.3. Phân loại:
Tổn thương cột sống có thể đồng thời gây ra các chứng đau cục bộ tại cột sống
hoặc tác động lên não bộ gây thiếu máu, thiểu năng tuần hoàn não hay xuống vai,
cánh tay gây đau, tê, teo, liệt chi trên. Đặc biệt nó còn gây nên các hội chứng đau
tại nội tạng theo đường thần kinh thực vật mà lâm sàng thường dễ nhầm là bệnh lý
của các cơ quan tim, gan, phổi. Vì vậy cần phải kiểm tra các cơ quan nội tạng để
chẩn đoán phân biệt với bệnh lý cột sống cổ.
Vì bệnh lý vùng cổ – vai rất phong phú, đa dạng nên có các hình thái lâm sàng
sau:
- Hội chứng cổ – đầu.
- Hội chứng cổ vai – cánh tay.
- Hội chứng đau rễ thần kinh – cổ.
- Hội chứng cổ – tuỷ sống.
- Hội chứng cổ – nội tạng.
- Hội chứng cơ bậc thang, hội chứng cổ sau chấn thương.
- Các chứng bệnh vùng cổ không do thoái hoá cột sống.
- Hội chứng động mạch.
- Hội chứng thần kinh thực vật.
2. Phương pháp khám bệnh ở cột sống cổ
2.1. Lâm sàng:
Trước tiên cần hỏi kỹ về chứng đau để xác định vị trí xuất phát và sự lan toả của
đau, cường độ, tính chất đau, yếu tố liên quan như tuổi, nghề nghiệp, thay đổi thời
tiết, vận động trong tư thế bất lợi của cổ, chấn thương cũ và mới; sự xuất hiện và
mất đi của triệu chứng đau, đồng thời có các triệu chứng kèm theo như chóng mặt,
đau đầu, rối loạn ý thức, rối loạn nhìn, rối loạn thính lực và các triệu chứng rối
loạn thần kinh khu trú kèm theo.
Khám tại chỗ vùng cổ – vai như quan sát tư thế của cổ, phát hiện vẹo, nghiêng, gù,
quá ưỡn, thẳng cứng, u, lồi lõm cột sống; teo, nhẽo của các khối cơ trên vai, cơ
delta, cơ cánh tay. Tìm các điểm đau tại cột sống cổ bằng cách ấn dọc gai sau, ấn
cạnh cột sống cổ, điểm đau trên vai, khe khớp và các tổ chức xung quanh khớp
vai. Chú ý khám điểm Arnold ở giữa hõm hai bên của ụ chẩm. Sờ nắn các khối cơ
ở gáy, cổ, các đai vài để xác định trạng thái cơ teo nhẽo, co cứng hoặc viêm tấy.
Khám vận động cột sống cổ theo chiều cúi (khoảng cách cằm –xương ức), ưỡn,
quay bên (khoảng cách cằm – mỏm quạ), xoay cổ theo hai chiều phải, trái để xác
định mức độ hạn chế vận động của cột sống cổ, cần chú ý cố định xương bả vai
trong khi khám khớp vai – cánh tay.
Khám thần kinh: khi có nghi ngờ hội chứng tủy - cổ thì phải khám kỹ để phát hiện
các triệu chứng thần kinh khu trú, chú ý các rễ thần kinh của đám rối cổ.
Khám toàn thân: chú ý hệ tim mạch như huyết áp, hệ động mạch thái dương, động
mạch cảnh và triệu chứng của các cơ quan nội tạng, có liên quan đến các rối loạn
thần kinh thực vật. Trường hợp cần thiết cho khám các chuyên khoa tai – mũi –
họng, răng – hàm – mặt để xác định các triệu chứng lâm sàng này do nguồn gốc
bệnh lý cột sống cổ, hay chính do tổn thương thực thể tại các cơ quan đó.
2.2. Cận lâm sàng:
Trên cơ sở khám xét lâm sàng tuỳ theo các hướng chẩn đoán có thể lựa chọn một
số xét nghiệm cần thiết sau:
- Chụp X.quang cột sống cổ 4 tư thế (thẳng, nghiêng, chếch 3/4 phải, trái).
- Ghi điện não, lưu huyết não, điện tim, điện cơ.
Trường hợp khó chẩn đoán có thể cho chụp tuỷ, chụp động mạch đốt sống thân
nền, chụp CT, chụp MRI cột sống cổ.
Chụp X.quang thường cột sống cổ có giá trị chẩn đoán hư xương sụn cột sống,
chấn thương cột sống cổ. Ở phim thẳng chỉ thấy 5 thân đốt sống cổ từ C3 – C7.
Mặt trên thân đốt sống có hình lõm. Các mỏm móc có hình vòm. Các cuống của
cung đốt được in chiếu lên như hai vòng tròn. Mỏm gai sau chẻ đôi. Mấu khớp và
mỏm ngang xếp chồng lên nhau tạo thành “khối bên” có giới hạn ngoài lượn sóng,
cần nhận định mối tương quan của trục cột sống và tư thế của mỏm móc đoạn cột
sống cổ giữa và dưới.
Trên phim nghiêng thấy được tất cả các đốt sống cổ, đĩa đệm, mấu khớp, cung đốt
sống, khe khớp và gai sau. Ở phim nghiêng có tác dụng chẩn đoán tốt hơn ở phim
thẳng trong trường hợp u, viêm và quan sát được những tổn thương thoái hoá đĩa
đệm.
Trong thoái hoá đĩa đệm thường thấy giảm chiều cao gian đốt sống, các gai xương
ở bờ trước đốt sống và xơ hoá mâm sụn.
Trên phim chụp chếch 3/4 thấy được các lỗ liên đốt, phản ứng quá sản xương của
mỏm móc làm hẹp lỗ liên đốt.
Chụp cột sống cổ chức năng theo tư thế vận động tối đa: cúi ra trước, ưỡn ra sau,
nghiêng sang hai bên để đánh giá từng đĩa đệm riêng lẻ hay từng đoạn cột sống
xem chỗ nào “lỏng lẻo” hay bất động nhất. Phải chụp tư thế bệnh nhân ngồi.
Tóm lại, các hình ảnh X.quang trong hư xương sụn cột sống cổ là: vôi hoá nhân
nhầy, giảm chiều cao đĩa đệm, xơ hoá dưới sụn, các gai xương ở bờ của các mặt
trước và mặt sau thân đốt, biến dạng mỏm móc, sai khớp nhẹ thân đốt, các thay
đổi về sự cân bằng của cột sống.
Chụp X.quang cột sống cổ bằng thuốc cản quang: kỹ thuật này do các chuyên
khoa thần kinh, X.quang thực hiện như chụp tủy sống cổ theo đường bên, ngang
mức C1 – C2 và chụp đĩa đệm cột sống cổ. Hình ảnh X.quang chẩn đoán chính
xác được các thể TVĐĐ.
Chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ hạt nhân là hai kỹ thuật cho hai hình
ảnh trung thực, rõ nét khi có tổn thương thân đốt, đĩa đệm và nhiều quá trình bệnh
lý khác của cột sống, tủy sống. Sự kết hợp của hai loại kỹ thuật chụp CLVT và
MRI từ hạt nhân là biện pháp chẩn đoán lý tưởng về hình ảnh đối với chuyên khoa
nội và ngoại thần kinh.
Các phương pháp chẩn đoán như chụp tuỷ bơm khí, chụp ngoài màng cứng, chụp
tĩnh mạch đốt sống, chụp động mạch, ghi điện cơ, điện não và lưu huyết não cũng
góp phần chẩn đoán nhiều hội chứng có liên quan đến bệnh lý cột sống cổ.
[newpage]
3. Các hội chứng lâm sàng cột sống cổ
3.1. Đau đầu căn nguyên cổ:
3.1.1. Đau dây thần kinh chẩm lớn:
Có thể xuất hiện do đau dây thần kinh chẩm lớn hay một trong những rễ, nhất là rễ
thần kinh C2, điểm đau ngay ở dưới da đầu nhất là khi ấn vào điểm lõm bên của
xương chẩm là nơi thoát ra của dây thần kinh chẩm. Đau có thể lan ra một bên của
khu sau đầu, với tính chất chủ quan, ê ẩm hay dội lên khi bị đè ép. Đặc biệt đau
nhói buốt khi thầy thuốc ấn vào điểm thoát ra của dây thần kinh chẩm. Thường do
tổn thương hay kích thích một bên, đôi khi ở cả hai bên. Nhiều khi kèm theo điểm
đau ở đốt C1 – C2 và cả điểm đau rễ cạnh cột sống cổ tương ứng với C2 cùng bên.
Tuỳ theo nguyên nhân gây bệnh, đau dây thần kinh chẩm có thể điều trị khỏi bằng
các thuốc giảm đau đường uống hay phóng bế tại các điểm xuất chiếu bằng các
loại thuốc novocain, vitamin B12, corticoid. Khi các rễ này bị kích thích hay bị đè
ép cơ học do gai xương mỏm móc hay thoái hoá đĩa đệm cột sống cổ có thể cho
kéo giãn cột sống cổ kết hợp các biện pháp lý liệu như chườm nóng, gối điện, sóng
ngắn.
3.1.2. U màng cứng:
Ở lỗ chẩm có thể gây đau cổ đầu phía sau với biểu hiện ban đầu chỉ đau đơn độc
tại chỗ vùng chẩm – ngang cổ do kích thích rễ thần kinh cổ.
3.1.3. Những tổn thương xương khớp gây đau vùng đầu – cổ:
Nếu có tổn thương khu trú ở đoạn cổ C1 – C3 sẽ gây đau thần kinh kiểu Arnold
hoặc hội chứng cổ - đầu, các động tác gấp, ưỡn và xoay cổ bị hạn chế và đau khi
vận động, kèm theo co cứng các cơ vùng cổ.
Nếu tổn thương khu trú ở đoạn giữa cột sống cổ C4, C5 sẽ gây tình trạng đau và
hạn chế vận động cổ, có điểm đau ở khoang gian đốt sống hoặc mỏm gai và điểm
đau rễ cạnh sống tương ứng.
Nếu tổn thương khu trú ở đoạn dưới cột sống cổ sẽ gây hội chứng cổ – vai hoặc cổ
– vai – cánh tay. Chú ý ở những người cao tuổi và người già, nguyên nhân gây đau
cột sống cổ là thoái hoá đĩa đệm cột sống cổ, u cột sống cổ…
- Các dị dạng bản lề chẩm – cổ gặp khá nhiều như chẩm hoá cung sau đốt đội, dấu
ấn nổi lên ở nền sọ do mỏm răng của đốt sống trục trồi lên.
- Những chấn thương cột sống cổ gây gãy mỏm răng của đốt trục, trật khớp đốt
đội – trục.
- Các tổn thương thoái hoá khớp, viêm khớp như viêm cột sống dính khớp, viêm
đa khớp dạng thấp, bệnh paget… của cột sống cổ cũng là nguyên nhân gây đau
đầu.
Trật khớp cổ sau chấn thương thường là hậu quả của tai nạn sinh hoạt, tai nạn giao
thông.
Hư khớp cổ đoạn dưới thường gặp ở những người trên 50 tuổi.
- Bệnh Bastrup là một trường hợp đặc biệt sau khi làm động tác ưỡn cổ quá mức
điểm đau đúng ở mỏm gai sống. Trên phim chụp X.quang có hình cầu nối các
mỏm liên gai sống với các mỏm xương đậm đặc và không đều.
3.1.4. Đau cổ - đầu do đau cơ cổ:
Đây là yếu tố quan trọng tham gia vào yếu tố gây đau đầu.
+ Đau đầu do tư thế nghề nghiệp thường gặp ở những người lao động mà công
việc bắt buộc phải cúi đầu liên tục như thợ thêu, thợ may, thợ đánh máy hay
những nghề buộc phải ưỡn cổ quá mức như thợ mỏ, thợ nề, thợ quét vôi… Cơ chế
đau ở đây chủ yếu là do rối loạn trương lực cơ và căng kéo dây chằng.
+ Đau đầu do co cứng cơ bù trừ ở những người gù, quá ưỡn, lệch vẹo cột sống cổ.
3.1.5. Đau đầu – cổ do bệnh lý đĩa đệm cột sống cổ:
Như hội chứng đĩa đệm cột sống cổ có điểm đau ở đường liên đốt sống khi ấn, hạn
chế vận động cột sống cổ, điểm đau rễ cạnh sống tương ứng, co cứng cơ cạnh sống
khi vận động gây căng kéo dây thần kinh hoặc các cơ cạnh - đầu. Chẩn đoán quyết
định bằng chụp đĩa đệm, chụp cộng hưởng từ cột sống cổ.
3.1.6. Hội chứng giao cảm cổ sau:
Hội chứng này bao gồm đau đầu phía sau, chóng mặt, ù tai, ám điểm thị trường,
rối loạn bài tiết vận mạch, toát mồ hôi, dị cảm ở họng, thanh quản, rối loạn vận
mạch ở mặt, thường kèm theo sắc thái lo âu (hội chứng Barré – Liéou).
3.1.7. Hội chứng thiểu năng tuần hoàn hệ động mạch sống – nền:
Bao gồm các triệu chứng ù tai, giảm thính lực tạm thời, chóng mặt, mất thăng
bằng, ám điểm, mệt mỏi, trường hợp nặng có thể xuất hiện cơn sụp đổ (drop
attacks), kèm theo mất ý thức hoặc không mất ý thức và đau đầu (xem bài thiểu
năng tuần hoàn não hệ động mạch sống – nền).
3.2. Hội chứng cổ cục bộ:
Hội chứng cổ cục bộ là biểu hiện lâm sàng xuất phát từ các đĩa đệm cột sống cổ
mà các triệu chứng khu trú ở vùng cổ với đặc trưng là đau phụ thuộc vào tư thế
của cổ – vai, căng cơ và hạn chế vận động cột sống cổ. Nguyên nhân đau do các
quá trình thoái hoá và tình trạng sau chấn thương của các đoạn vận động cột sống
cổ, gây ra kích thích cơ học vào dây chằng dọc sau, các bao khớp của cột sống và
cốt mạc đốt sống.
Các nhánh thần kinh và các sợi của cột sống cổ rất nhạy cảm đau. Dựa vào cường
độ và thời gian đau người ta chia ra thành hai loại đau cấp và đau mạn.
Lâm sàng, đầu tiên là tăng trương lực cơ ở các vùng vai gáy một cách đột ngột sau
vận động cổ. Các yếu tố phù trợ có thể là nhiễm lạnh, gió lùa, ngồi lâu, cúi đầu ra
trước. Nếu đoạn trên cột sống cổ bị tổn thương thì sẽ ảnh hưởng đến cơ thang
vùng vai đòn, nếu đoạn dưới cột sống cổ bị thương thì đau khu trú ở hai xương bả
vai như cơ trám, cơ nâng xương bả, cơ trên bả và toàn bộ các cơ vùng vai gáy
cũng bị căng cứng. Vận động cột sống cổ hạn chế, đôi khi đau có thể lan tới vùng
sau và ngoài cánh tay.
Đau cột sống cổ cục bộ do căn nguyên khác như các loại u thần kinh của dây thần
kinh tủy sống, u màng cứng, di căn ung thư từ các cơ quan khác đến, viêm đốt
sống, bệnh viêm cột sống dính khớp…
* Dự phòng và điều trị hội chứng cổ cục bộ do hư xương sụn:
+ Dự phòng, cần có chế độ nghỉ ngơi thích hợp, tránh mang vác, xách vật nặng
không cân đối, tránh giữ lâu cổ ở tư thế ưỡn cổ ra sau, cúi cổ ra trước hay nghiêng
cổ về một bên. Tùy theo hoàn cảnh trong một ngày người bệnh cần nằm ngửa 3 –
4 lần, mỗi lần 20 – 30 phút, có gối nhỏ kê ở gáy. Khi ngồi làm việc hoặc ngồi xe
đường dài nên dùng ghế có tấm đỡ cổ và lưng. Trường hợp đặc biệt cần phải đeo
nẹp cổ chỉnh hình bằng nhựa.
+ Thuốc, các thuốc giảm đau và chống viêm như voltarene 25mg x 4 viên/ngày
hoặc tilcotil 20mg x 1 viên/ngày, profenid 50mg x 2 viên/ngày, uống sau ăn,
antalvic, idarac.
Các thuốc giãn cơ có thể dùng một trong các loại thuốc sau đây: myonal 50mg x 2
viên/ngày, mydocalm 0,05 x 2 viên/ngày, coltramyl 4mg từ 2 – 4 viên/ngày chia
hai lần sáng – chiều.
Các biện pháp không dùng thuốc như bấm huyệt, châm cứu, thể dục liệu pháp, xoa
bóp, nắn chỉnh cột sống, điều trị lý liệu, kéo giãn cột sống cổ cần cân nhắc và chỉ
định có chọn lọc.
3.3. Vẹo cổ (torticolis):
Từ trước đến nay vẹo cổ được các tác giả phân loại như sau:
- Vẹo cổ bẩm sinh do dị tật của cơ ức đòn chũm thường được phát hiện ở tuổi học
trò và chỉ điều trị được bằng phẫu thuật.
- Vẹo cổ chấn thương do sai khớp hoặc gãy đốt sống cổ.
- Vẹo cổ co thắt do các hoạt động xoắn vặn cổ về một bên gây co cơ, tăng trương
lực và rung giật các cơ cổ buộc bệnh nhân phải nghiêng về phía co cứng, đồng
thời xuất hiện các cơn co thắt trong một vài giây, giữa các cơn đầu lại trở về tư thế
vẹo cổ ban đầu. Căn nguyên của vẹo cổ co thắt rất phức tạp, có thể do nguồn gốc
từ não, rối loạn trương lực cơ, viêm cơ hay nguồn gốc từ xương – khớp hoặc căn
nguyên tâm lý (chứng máy cơ - tic).
- Vẹo cổ cấp là một thể đặc biệt của hội chứng cổ cục bộ, do hư xương sụn cột
sống cổ, gây rối loạn và hạn chế vận động cột sống cổ, thường thấy ở thiếu niên và
thanh niên. Cơ chế vẹo cổ cấp là do dự kẹt, nghẽn các tổ chức mô, mỡ và liên kết
ở các khớp nhỏ của cột sống, gây chẹn các khớp đốt sống ở tư thế sai lệch, có thể
còn do bệnh thấp kết hợp. Vì vậy hiệu quả điều trị của các biện pháp xoa bóp, ấn,
bấm huyệt, nắn chỉnh cột sống làm mềm cơ và giải phóng chẹn các khớp đốt sống
rất có giá trị.
Khám lâm sàng thấy đầu người bệnh vẹo hẳn sang một bên, sờ nắn thấy căng cơ
rõ rệt ở các cơ vùng vai – gáy. Các động tác vận động cổ về phía bên đối diện
hoàn toàn bất lực. Toàn bộ cột sống cổ ngay đơ, chắc, không có dấu hiệu tổn
thương thần kinh. Chụp X.quang cột sống cổ thường có hình ảnh hư xương sụn cột
sống cổ nhẹ hoặc bình thường.
Chẩn đoán quyết định dựa vào các đặc điểm lâm sàng như khởi phát đột ngột, tư
thế sai lệch cố định, khỏi nhanh bằng kéo giãn cột sống cổ và dùng các thuốc giãn
cơ kết hợp với xoa bóp, lý liệu. Cần loại trừ sai khớp đốt sống, viêm đốt sống
nhiễm khuẩn, lao cột sống, di căn ung thư… Do đó phải làm một số xét nghiệm
cần thiết tối thiểu như xét nghiệm máu thường quy, chụp X.quang cột sống 4 tư
thế, chụp X.quang phổi để loại trừ.
Điều trị đối với thể nhẹ có thể dùng một vài loại thuốc giảm đau thông thường và
xoa bóp cơ vùng cổ – vai. Đối với thể cấp, bệnh nhân cần nghỉ ngơi, dùng các
thuốc giảm đau chống viêm không steroid như analgin, voltarène, tilcotil… Nên
dùng các thuốc chống co cứng cơ như myonal, mydocalm, coltramyl, có thể phóng
bế cạnh cột sống cổ bằng novocain + hydrocortisol. Các biện pháp không dùng
thuốc như châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt…
3.4. Hội chứng cổ – vai – cánh tay:
Hội chứng cổ – vai – cánh tay là hội chứng đau do chèn ép của đĩa đệm cột sống
cổ từ C5 - C7, có đặc điểm là đau và rối loạn cảm giác, khởi phát từ cột sống cổ
lan tới chi trên mang tính chất phân bố thần kinh theo dải, có kèm theo các triệu
chứng của hội chứng cổ cục bộ. Trường hợp có chèn ép nhiều thì bị giảm cảm giác
nông (cảm giác tê bì) theo dải da, còn phần lớn khi các nhánh, rễ thần kinh bị kích
thích lại thấy biểu hiện vùng dải da tăng cảm giác nông, bệnh nhân có cảm giác
căng và sưng bàn tay, thường kèm theo tím tái đầu chi và lạnh bàn tay do có tổn
thương thần kinh giao cảm. Có hạn chế vận động vai nhưng không phải là do viêm
quanh khớp bả vai – cánh tay.
Teo cơ thường phát hiện thấy ở khu vực trên vai, cơ delta, các cơ thuộc khu vực
cẳng tay, cánh tay, có khi ở cả bàn tay, tuỳ theo phạm vi và mức độ tổn thương.
Hội chứng cổ – vai – cánh tay có thể do TVĐĐ hoặc do thoái hoá của mỏm móc
đốt sống kích thích vào rễ thần kinh cổ.
Đau vai – cánh tay do lồi và TVĐĐ. Lồi đĩa đệm cổ thường gặp ở vị trí sau bên
chèn ép rễ thần kinh, gây đau, tư thế sai lệch cột sống và những triệu chứng thần
kinh khu trú. Thường xảy ra ở người lớn từ 30 - 50 tuổi. Các triệu chứng xuất hiện
cấp tính như đau cánh tay theo dải da thuộc vùng rễ thần kinh bị chèn ép, vẹo cổ
và cột sống cổ ở tư thế gù. Ho, hắt hơi đều làm tăng kích thích cảm giác đau. Trên
phim chụp X.quang cột sống cổ thường thấy cột sống cổ thẳng đờ ở phía trên đĩa
đệm bị tổn thương, giảm chiều cao đĩa đệm rõ rệt, có triệu chứng hư đốt sống hay
hư xương sụn ở giai đoạn muộn. Chẩn đoán xác định bằng chụp CLVT, tốt nhất là
chụp MRI từ hạt nhân.
Đau vai – cánh tay do trồi xương ở mỏm móc, thường gặp ở bệnh nhân trên 50
tuổi do các gai xương ở thân đốt và trồi xương ở mỏm móc. Lâm sàng đau cánh
tay do kích thích rễ thần kinh bởi trồi xương ở mỏm móc hay gặp hơn do TVĐĐ.
Mỏm móc gây hẹp lỗ liên đốt và kích thích hoặc chèn ép vào rễ thần kinh, mạch
máu đi qua đó. Các triệu chứng xuất hiện từ từ, không mạnh mẽ như trong TVĐĐ.
Bệnh nhân hay đau về đêm, cảm giác kiến bò và tê bì dải da tương ứng thuộc các
rễ thần kinh bị xâm phạm. Trên phim chụp X.quang tư thế chếch 3/4 cột sống cổ
thấy mỏm móc chèn vào lỗ liên đốt. Tiến triển của đau vai – cánh tay do trồi
xương mỏm móc thường diễn biến mạn tính và có những đợt tái diễn.
Hội chứng đau rễ thần kinh cổ, tùy thuộc mức độ của tác nhân gây bệnh và các rễ
thần kinh tủy cổ (kích thích, chèn ép) sẽ xuất hiện hội chứng đau một rễ hoặc
nhiều rễ thần kinh, có khi ở cả hai bên. Thường xuất hiện nhất là đau rễ C6, C7,
C8 và C5 hiếm gặp hơn.
Nếu đau rễ C5, bệnh nhân thấy đau ở phía ngoài bả vai tới nửa trên cánh tay, rối
loạn vận động, rối loạn phản xạ của cơ nhị đầu cánh tay, cần chẩn đoán với viêm
khớp bả vai –cánh tay.
Nếu tổn thương rễ C6, đau ở dải da từ mặt ngoài cánh tay, cẳng tay tới ngón cái và
một phần ngón trỏ, đôi khi đau lan ra ngực. Các rối loạn phân bố thần kinh cơ khu
trú cho cơ nhị đầu và cơ cẳng tay. Phản xạ gân cơ nhị đầu giảm hoặc mất.
Hội chứng rễ C7 đau ở sau bên của vai – cánh tay tới giữa mặt sau và kéo dài tới
ngón 2,3,4. Cảm giác đau và dị cảm cũng thấy ở mặt trước của các ngón tay tương
ứng. Rối loạn vận động cơ tam đầu cánh tay, cơ sấp tròn, cơ ô mô cái. Giảm sức
cơ trong động tác duỗi cẳng tay, giảm hoặc mất phản xạ cơ tam đầu, giai đoạn
muộn có thể gặp teo cơ ô mô cái.
- Hội chứng rễ C8, đau và dị cảm suốt dọc dải phía trong cánh tay, cẳng tay, bàn
tay, tới ngón 4, 5. Rối loạn vận động các cơ gấp ngón tay, cơ liên đốt và các cơ ô
mô út.
Chẩn đoán phân biệt hội chứng cổ – vai – cánh tay với các bệnh sau:
- Các hội chứng chèn ép đám rối thần kinh cánh tay, hội chứng rễ do TVĐĐ, hội
chứng cơ bậc thang, hội chứng sườn - đòn, hội chứng ống cổ tay.
- Hội chứng đau khớp bả vai – cánh tay, đau ở bán khớp dưới – mỏm quạ.
- Hội chứng Pancoast – Tobias, đau và dị cảm ở vai, tay kèm theo hội chứng
Claude – Bernard – Horner, do khối u ở đỉnh phổi kích thích các rễ thần kinh C8
và D1. Bệnh nhân đau dữ dội từ vai lan xuống cánh tay, cẳng tay và bàn tay. Rối
loạn vận động, teo cơ bàn tay, rối loạn vận mạch, rối loạn giao cảm. Chụp
X.quang có đám mờ ở đỉnh phổi và hình ảnh tiêu xương ở cung xương sườn 1 và
đốt sống.
- Bệnh zona thần kinh.
- Bệnh viêm mỏm trên lồi cầu xương cánh tay.
- U rễ thần kinh.
3.5. Hội chứng cổ - đầu:
Hội chứng cổ - đầu xảy ra do động mạch đốt sống và giao cảm cổ bị chèn ép do
nhiều yếu tố như lệch trục cột sống, trượt đốt sống, hẹp ống sống động mạch đốt
sống do thoái hoá cột sống cổ gây hẹp lỗ mỏm ngang.
Lâm sàng, bệnh nhân đau đầu, có các cơn chóng mặt, rối loạn nhìn và nghe, rối
loạn nuốt cũng như các rối loạn tâm lý, có thể do những biến đổi sinh – cơ học của
đoạn vận động cột sống cổ, trong đó vai trò của hẹp động mạch đốt sống rất quan
trọng. Các biểu hiện lâm sàng trên phụ thuộc vào tư thế của cổ và đầu, có thể đau
đầu thành cơn, hay nhầm với Migraine, nuốt khó, chóng mặt, ám điểm lấp lánh, ù
tai…
Triệu chứng đau đầu trong hội chứng cổ - đầu với các đặc trưng sau đây: đau hai
bên hoặc một bên giống như Migraine, phụ thuộc vào tư thế vận động của đầu, đột
ngột xuất hiện nặng dần hoặc mất đi nhanh chóng, đồng thời với triệu chứng của
hội chứng cổ cục bộ.
Các cơn chóng mặt và rối loạn thăng bằng xuất hiện ở một tư thế nhất định của
đầu. Khi xoay cột sống cổ xuất hiện chóng mặt từ vài giây đến vài phút, không có
rối loạn ý thức. Triệu chứng láy mắt (nystagmus) rất hay gặp, thường láy mắt
ngang theo hướng nhất định hoặc láy mắt xoay, láy mắt khi chuyển tư thế.
Các rối loạn nghe, nhìn, nuốt. Bệnh nhân thường kêu ù tai, hoặc đau tai, nguồn
gốc do kích thích dây thần kinh C2, C3 (dây chẩm njor và tai lớn). Bệnh nhân
thường có triệu chứng đau lan ra hốc mắt, có rối loạn nhìn, ám điểm lấp lánh, nhìn
mờ sương. Bệnh nhân thường thấy tối sầm trước mặt trong thời gian ngắn. Trong
thoái hoá đốt sống cổ cũng có thể xảy ra rối loạn nuốt do hai nguyên nhân cơ học
(gai xương chèn lấn vào thực quản) và thần kinh giao cảm.
Rối loạn tuần hoàn não do động mạch đốt sống bị trồi xương của mỏm móc chèn
ép, làm giảm lưu lượng máu lên não, gây thiểu năng tuần hoàn não.
3.6. Hội chứng cổ – nội tạng do thoái hoá cột sống:
Hội chứng cổ – tim còn gọi là cơn đau thắt tim do cổ, những thay đổi bệnh lý của
hạch giao cảm cổ ảnh hưởng đến chi phối thần kinh tim qua dây X. Bệnh nhân có
cảm giác đau như đè nén, khoan dùi ở toàn bộ vùng tim hoặc sau xương ức, cơn
đau kéo dài 60 – 90 phút, có triệu chứng báo trước bằng đau ở vùng vai, đặc biệt ở
vùng liên – bả. Triệu chứng đau ở vùng tim tăng lên khi cử động đầu, ho hoặc
nâng một cánh tay lên, Trong cơn đau vùng tim bệnh nhân thấy đánh trống ngực,
nhịp tim nhanh, có thể có ngoại tâm thu. Điện tim không có biến đổi đặc hiệu của
thiếu máu cơ tim. Chụp X.quang đều thấy hư xương sụn cột sống cổ. Điều trị bằng
Nitroglycerin không kết quả. Phóng bế và kéo giãn cột sống cổ, cắt được cơn đau
vùng tim.
Hội chứng cổ – túi mật, bệnh nhân hư xương sụn cột sống cổ có biểu hiện đau đầu
kiểu Migraine cổ và viêm quanh khớp vai phải, kèm theo giãn túi mật, sau thời
gian điều trị bằng phóng bế novocain vùng cổ và kéo giãn cột sống cổ, bệnh nhân
hết đau và hết giãn túi mật.
3.7. Hội chứng khe cơ bậc thang:
Trong khoang hẹp giữa các cơ bậc thang trước và giữa có dây thần kinh cổ, các
thân nhì của đám rối thần kinh cánh tay và động mạch dưới đòn chạy qua. Cơ bậc
thang trước và xương sườn có tĩnh mạch chạy qua vì vậy hội chứng khe cơ bậc
thang là những cơn đau kịch phát với những rối loạn thần kinh và mạch máu do
động mạch dưới đòn và đám rối thần kinh cánh tay bị kích thích hay chèn ép bởi
xương sườn cổ hoặc những bất thường của cơ bậc thang hoặc do lỗ liên đốt sống
bị thoái hoá.
Lâm sàng, đau và dị cảm vùng mặt trong cánh tay, cẳng tay, bàn tay và ngón 4, 5,
đôi khi lan tới vùng chẩm. Đau đặc biệt tăng lên khi xoay đầu về phía tay bị đau
hoặc hít thở sâu. Trường hợp đau lan xuống lồng ngực dễ nhầm với cơn đau thắt
ngực. Bệnh nhân thấy yếu cơ, trương lực cơ, teo cơ ở tay và mô út, ngưng đặc biệt
thấy căng các cơ ở cổ, nhất là cơ bậc thang trước. Có rối loạn mạch máu, tay trở
nên tê cóng, tím tái, phù nề, lạnh đầu chi, nếu nặng thấy mất mạch quay.
Cần chẩn đoán phân biệt với hội chứng cơ ngực bé (khi dạng cánh tay, cơ ngực bé
đè ép động tĩnh mạch dưới đòn, đám rối thần kinh cánh tay và mỏm quạ của
xương bả vai).
Ngoài ra còn với hội chứng sườn - đòn, viêm đám rối thần kinh cánh tay, TVĐĐ
cột sống cổ, hội chứng Raynaud…
3.8. Các chứng đau cổ do thấp: như viêm cột sống dính khớp, giả viêm đa khớp
gốc chi.
3.9. Các chứng đau cổ do nhiễm khuẩn:
- Lao cột sống cổ, hay gặp ở người có tiền sử lao, đau cột sống cổ tăng dần lan ra
các chi, co cứng các cơ cổ và cố định cổ ở một tư thế, trạng thái toàn thân suy sụp
dần, có hội chứng nhiễm độc lao. Chụp X.quang thường quy, chụp CLVT hoặc
chụp MRI từ cột sống cổ cho chẩn đoán quyết định. Bệnh nhân cần được cố định
và điều trị theo phác đồ chống lao.
- Cốt tủy viêm cột sống cổ.
- Viêm xương khớp nhiễm khuẩn khu trú ở cổ.
3.10. Viêm quanh khớp bả vai – cánh tay còn được gọi là viêm quanh khớp vai:
Bệnh nhân thấy đau ở vai, khó hoạt động khớp vai, đôi khi đau lan xuống cánh
tay. Thường xảy ra ở người trên 40 tuổi, nguyên nhân do chấn thương hoặc vi
chấn thương khớp vai. Hiện nay người ta xếp vào bệnh hư khớp.
Lâm sàng, đau xuất hiện dần dần, nhất là khi đang tay và xoay cánh tay vào trong
hoặc giơ lên đầu. Đau lan toả từ mỏm vai tới cánh tay, hạn chế vận động khớp vai
rõ rệt. Bệnh nhân không thể dùng tay gãi sang vai đối diện được, nếu nặng bệnh
nhân có triệu chứng “khoá cứng” khớp vai, đôi khi tổn thương lan rộng xuống gây
rối loạn vận động và loạn dưỡng ở bàn tay. Chụp X.quang khớp vai cũng có giá trị
chẩn đoán loại trừ.
Về điều trị: có thể tiêm novocain + hydrocortison quanh khớp vai nhưng phải đảm
bảo vô khuẩn tuyệt đối. Dùng các thuốc giảm đau chống viêm và corticoid đường
toàn thân kết hợp với điều trị lý liệu và tập vận động.
3.11. Đau cột sống cổ do chấn thương
Do vị trí và đặc điểm sinh – cơ học cột sống cổ là bộ phận nối tiếp giữa đầu và
thân nên dễ bị tổn thương, nếu một trong hai phần của cơ thể, đầu hoặc thân bị
tăng tốc hoặc hãm đột ngột thì cột sống cổ phải chịu sức căng rất lớn. Chừng nào
đĩa đệm cột sống cổ chưa bị thoái hoá, khả năng đàn hồi có thể đáp ứng được thì
cột sống cổ sẽ vượt qua được những đụng độ, chấn thương mạnh. Nhưng khi đã bị
thoái hoá thì cột sống cổ dễ bị tổn thương. Tùy theo hướng và cường độ của lực
tác dụng, cột sống cổ phải chịu tổn thương theo nhiều tư thế khác nhau. Cột sống
cổ có thể vận động về các phía nên các vận động quá tầm như quá ưỡn, quá cúi
hay quay cổ về một bên quá mức thường xảy ra trong lao động nghề nghiệp hay
trong đời sống sinh hoạt, thể thao, tai nạn giao thông.
Thường gặp các nguyên nhân chấn thương sau:
Chấn thương do quá cúi, cột sống cổ buộc phải quá cúi, gây quá giãn ở phía sau và
ép cột sống ở phía trước, nên có thể gãy đốt sống, rách vòng sợi phía sau, giãn dây
chằng dọc sau và dây chằng liên – gai. Nếu tác động mạnh, các cơ ở vùng gáy có
thể bị rách, đứt, tạo bọc máu tụ. Động mạch đốt sống cũng có thể bị tổn thương do
chèn ép. Chỉ trong trường hợp chấn thương gây di lệch đốt sống mới có khả năng
chèn ép động mạch đốt sống từ phía bên, với các biểu hiện lâm sàng của hội chứng
cổ - đầu.