Tổn thương do thoát vị 
đĩa đệm cột sống cổ 
Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ cùng với hội chứng đau các rễ thần kinh 
đều có nguồn gốc cơ bản do thoái hóa đĩa đệm - cột sống cổ, thường 
được gọi chung là “Hội chứng cổ - cánh tay”. 
Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ tuy có tỷ lệ thấp hơn thoát vị đĩa đệm cột sống 
thắt lưng nhưng lại đóng vai trò rất hệ trọng vì nó trực tiếp uy hiếp tủy sống 
cổ và chẹn đường đi của hệ động mạch đốt sống - thân nền bảo đảm nuôi 
dưỡng não bộ (đại não, tiểu não ). Không những thế, hệ thần kinh thực vật 
ở vùng này lại được phân bố rất phong phú và tiếp xúc rất khăng khít với hệ 
động mạch sống - nền bởi hai chuỗi hạch giao cảm cổ cũng bị tác động. 
Sau đây là một số biểu hiện thường gặp do thoát vị đĩa đệm cột sống cổ 
Hội chứng cổ - cánh tay là gì? 
Hội chứng cổ - cánh tay là hội chứng đau do đĩa đệm của đoạn cột sống cổ 
đoạn C5-C7, có đặc điểm là đau và rối loạn cảm giác khởi phát từ cột sống 
cổ lan tới chi trên, ít nhiều mang tính chất phân bố thần kinh theo dải. Phần 
lớn có kèm các triệu chứng của hội chứng cổ cục bộ. Tùy theo phần nào của 
nhánh thần kinh bị xâm phạm mà có những biểu hiện đau, rối loạn cảm giác 
và vận động tương ứng. Ở giai đoạn đầu, xuất hiện các triệu chứng pha trộn 
đau gáy với sai lệch tư thế. Trên cơ sở của đau lan theo dọc dải da bị xâm 
phạm, đồng thời cũng xuất hiện rối loạn cảm giác ở vùng này. Trường hợp 
có chèn ép lớn thì bị giảm cảm giác nông (cảm giác tê bì) theo dải da, còn 
phầnlớn khi các nhánh, rễ thần kinh bị kích thích lại thấy biểu hiện vùng dải 
da tăng cảm giác nông. 
Người bệnh có cảm giác căng và sưng bàn tay, mà khách quan không thể 
nhận biết được, lại thường kèm theo tím tái đầu chi và lạnh chân tay, chứng 
tỏ có thêm rối loạn thần kinh giao cảm. Có thể hạn chế vận động vai, nhưng 
không phải là do viêm quanh khớp bả vai - cánh tay. 
Teo cơ thường phát hiện thấy ở khu vực trên vai, cơ Delta và các cơ thuộc 
khu vực cánh tay, cẳng tay, có khi cả ở bàn tay, tùy theo phạm vi và mức độ 
tổn thương. Hội chứng cổ - cánh tay có thể xuất hiện theo nhiều kiểu. Hội 
chứng cổ - cánh tay thường do thoát vị đĩa đệm cột sống cổ (loại mềm) và do 
cấu trúc xương (chồi xương do thoái hóa) của mỏm móc của đốt sống (còn 
được gọi là “thoát vị cứng”). 
Đau cánh tay do lồi và thoát vị đĩa đệm 
Lồi đĩa đệm hay thoát vị đĩa đệm cổ là do một tác 
nhân gây chèn ép “mềm” các rễ thần kinh, ít gặp 
hơn so với cùng loại ở cột sống thắt lưng. Lồi đĩa 
đệm cổ thường gặp ở vị trí sau - bên chèn ép rễ thần 
kinh, gây đau, tư thế sai lệch cột sống cổ và những 
thiếu hụt thần kinh. Lồi đĩa đệm là do vòng sợi bị 
nhân nhầy trồi ra ở điểm yếu nhất làm rách đứt một 
số lớp của vòng sợi, tức là vòng sợi chưa bị chọc 
thủng hoàn toàn. Trên cơ sở của thoái hóa đĩa đệm, lồi đĩa đệm kéo dài, 
vòng sợi đĩa đệm đã bị suy yếu dưới tác động của tải trọng quá nặng, không 
cân đối, hay do tư thế vận động cột sống cổ bất lợi, vượt quá giới hạn của 
trường - vận động hoặc chấn thương nhân nhầy chọc thủng vòng sợi và thoát 
ra ngoài khoang đĩa, gây thoát vị đĩa đệm cổ. Do sức căng phồng của đĩa 
đệm ở người trẻ chưa bị suy giảm như ở người cao tuổi nên thoát vị đĩa đệm 
thường xảy ra ở tuổi 30-45. Các triệu chứng xuất hiện cấp tính: đau cánh tay 
theo dải da thuộc vùng rễ thần kinh bị xâm phạm, tư thế sai lệch mạnh mẽ 
của đầu và cột sống cổ bao giờ cũng ở tư thế gù. Ho, hắt hơi đều làm đau  
Thoát vị đĩa đ
ệm cột 
sống cổ gây đau. 
tăng lên. Chỉ có chụp tủy cổ hay chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ 
mới xác định chẩn đoán chính xác thoát vị đĩa đệm. 
Đau cánh tay do chồi xương ở mỏm móc 
Do đặc điểm sinh - cơ học của đĩa đệm cột sống, quá trình thoái hóa theo 
tuổi phát triển dần dần, tới tuổi 50 thì đã hình thành các gai xương ở thân đốt 
và chồi xương ở mỏm móc. Trong quãng tuổi đời đó nếu có các yếu tố ngoại 
lai (chấn thương, viêm nhiễm, tư thế bất lợi không sinh lý do nghề nghiệp 
hay phong cách sinh hoạt, thì sẽ làm tăng tốc độ thoái hóa, thậm chí cột sống 
cổ nhiều em ở tuổi thiếu niên đã có biểu hiện thoái hóa nặng nề trên phim 
Xquang. Điều đó nói lên vai trò quan trọng của dự phòng bệnh lý cột sống 
cổ. 
Trên lâm sàng, đau cánh tay do kích thích rễ thần kinh bởi chồi xương ở 
mỏm móc thường gặp nhiều hơn là do thoát vị đĩa đệm. Chồi xương mỏm 
móc chĩa vào lỗ liên đốt gây hẹp lòng lỗ liên đốt còn xơ hóa đĩa đệm hạn 
chế biên độ vận động cột sống cổ thì chưa có biểu hiện các triệu chứng của 
hội chứng cổ - cánh tay. 
Sự phối hợp của hai yếu tố lỏng lẻo đoạn vận động cột sống cổ với các gai 
xương là nguồn gốc phát sinh hội chứng lâm sàng đồng thời cũng là mục 
tiêu giải quyết của các biện pháp dự phòng và điều trị hội chứng cổ - cánh 
tay. Ở đây, các triệu chứng xuất hiện từ từ và không mạnh mẽ như trong lồi 
và thoát vị đĩa đệm. Biểu hiện đau về đêm, cảm giác kiến bò và tê bì dải da 
tương ứng thuộc các rễ thần kinh bị xâm phạm nên còn mang thuật ngữ 
“chứng đau cánh tay về đêm”. 
Ngoài ra, ở đoạn cột sống cổ, tùy theo mức độ của tác nhân gây bệnh vào 
các rễ thần kinh tủy cổ (kích thích, chèn ép) sẽ xuất hiện hội chứng đau rễ 
thần kinh - một rễ hoặc nhiều rễ, phần lớn ở một bên, có khi ở cả hai bên. 
Điều trị như thế nào? 
Điều trị chung: Các biện pháp giảm đau và chống viêm (thuốc, châm cứu, 
xoa bóp nhẹ nhàng vùng cổ và tay); các loại thuốc an thần, trấn tĩnh thần 
kinh và thư giãn cơ; các loại thuốc hoạt huyết và chống thoái hóa thần kinh. 
Điều trị theo nguyên nhân là chủ yếu: Các hội chứng bệnh lý này đều do cơ 
chế bệnh sinh cơ học. Do đó tùy theo tác nhân gây bệnh (loại cứng hay 
mềm), mức độ gây tổn thương (kích thích hay chèn ép) và tính chất nguy hại 
của cơ quan hay các thành phần liên quan (tủy sống, động mạch sống hay 
các rễ thần kinh) để có biện pháp điều trị thích hợp. 
Nếu chỉ là kích thích hay chèn ép nhẹ thì điều trị bảo tồn là chủ yếu: giai 
đoạn đau cấp tính thì phải cho bất động cột sống cổ bằng đai cổ. Sau đó nếu 
cần thì kéo giãn cột sống cổ kết hợp với đai cổ. 
Nếu chèn ép nặng vào tủy sống cổ và mạch máu thần kinh thì phải can thiệp 
phẫu thuật giải phóng bộ phận bị chèn ép càng sớm càng tốt. Trước khi chỉ 
định kéo giãn cột sống cổ phải chụp Xquang để loại trừ các loại bệnh lý 
khác của cột sống - tủy sống. Trước khi phẫu thuật, bệnh nhân cần được 
chụp cắt lớp vi tính hay cộng hưởng từ. 
Điều trị phục hồi chức năng và dự phòng tái phát 
Sau khi bệnh đã được xử trí cơ bản, cần tiếp tục liệu trình điều trị phục hồi 
chức năng (vật lý trị liệu, xoa bóp, vận động liệu pháp) tại cơ sở chuyên 
khoa. Để dự phòng tái phát cần sinh hoạt hợp lý, xác định ngành nghề thích 
hợp, tránh chấn thương vào đầu và cổ. Khi phải sử dụng cột sống cổ trong 
thơi gian dài cần đeo đai cổ.