Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Luận văn tốt nghiệp " Vai trò của ngành dệt may và thực trạng xuất khẩu hiện nay trong kinh tế " phần 2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.57 KB, 31 trang )

32

Tổng Công ty, Tổng giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong
Tổng Công ty.
Phó Tổng giám đốc là người giúp Tổng giám đốc điều hành một hoặc một
số lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty theo phân công của Tổng giám đốc
và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được Tổng
giám đốc phân công thực hiện.
Kế toán trưởng Tổng Công ty giúp Tổng giám đốc chỉ đạo thực hiện công
tác kế toán, thống kê của Tổng Công ty, có các quyền và nhiệm vụ theo qui
định của pháp luật.
Văn phòng Tổng Công ty, các ban chuyên môn, nghiệp vụ có các chức
năng tham mưu, giúp việc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lí
điều hành công việc.
Đơn vị thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập và Tổng Công ty có
quyền tự chủ kinh doanh và tự chủ tài chính, chịu sự ràng buộc về quyền lợi và
nghĩa vụ đối với Tổng Công ty theo luật định tại điều lệ của Tổng Công ty.
Thành viên là các đơn vị hạch toán phụ thuộc: có quyền tự chủ kinh doanh
theo phân cấp của Tổng Công ty chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi
đối với Tổng Công ty. Được kí kết các hợp đồng kinh tế, được chủ động thực
hiện các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, tổ chức và nhân sự theo
phân cấp của Tổng Công ty. Quyền hạn nhiệm vụ của các đơn vị hạch toán
phụ thuộc được cụ thể hoá trong điều lệ tổ chức của đơn vị này.
Tổng Công ty có 8 ban, bao gồm các ban sau đây:
- Ban tổ chức cán bộ lao động
- Ban kế hoạch đầu tư
- Ban tài chính kế toán
- Ban hợp tác quốc tế
33

- Ban trung tâm thông tin


- Văn phòng Tổng Công ty
- Ban khoa học công nghệ và môi trường
- Ban xuất nhập khẩu
Ban tổ chức cán bộ lao động: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng
giám đốc và hội đồng quản trị trong các lĩnh vực tổ chức cán bộ, đào tạo công
tác lao động tiền lương và công tác thanh tra, góp phần bảo đảm cho công tác
quản lí của Tổng Công ty hoạt động thông suốt và có hiệu quả.
Ban kế hoạch tài chính: Là bộ môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu
giúp Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong các lĩnh vực kế hoạch, kế
hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng toàn Tổng
Công ty.
Ban tài chính kế toán: Là cơ quan chuyên môn của Tổng Công ty tham
mưu giúp ban lãnh đạo Tổng Công ty thực hiện hai chức năng chủ yếu sau:
- Quản lí các đơn vị thành viên của Tổng Công ty về tài chính, kế
toán, giá cả trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản,
hành chính sự nghiệp.
-Tổ chức thực hiện công tác tài chính kế toán, giá cả và tín dụng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản của cơ quan
Tổng Công ty.
Văn phòng Tổng Công ty: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc
Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong lĩnh vực hành chính quản trị, tổng
hợp, làm cầu nối giữa Nhà nước với Tổng Công ty và kinh doanh trong lĩnh
vực đối nội đối ngoại, bảo đảm cho hoạt động của Tổng Công ty được tiến
hành có hiệu quả.
Ban kỹ thuật đầu tư: Có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc và hội
đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí khoa học công nghệ-môi trường và công
34

tác chất lượng sản phẩm của Tổng Công ty.
Ban xuất nhập khẩu: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng

giám đốc và Hội đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí ngành. Giúp đỡ các đơn
vị thành viên trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Trực tiếp kinh doanh
xuất nhập khẩu nhằm tạo nguồn thu và thúc đẩy sự phát triển của Tổng Công
ty.
Nhiệm vụ của ban là:
-Xây dựng chiến lược phát triển và mục tiêu phát triển kinh doanh
xuất nhập khẩu của Tổng Công ty trong từng giai đoạn.
-Nghiên cứu tình hình thị trường, giá cả, khách hàng, sự biến đổi, xu
hướng phát triển của ngành Dệt-May thế giới.
-Nghiên cứu hệ thống quản lí, các chính sách và công cụ của nó như
quota (giá tối thiểu, giá nhập tối đa) đối với những sản phẩm chính để Tổng
giám đốc và hội đồng quản trị duyệt.
-Hướng dẫn các đơn vị thành viên thực hiện khung giá, giá đã duyệt,
theo dõi tình hình giá cả thị trường để đề xuất Tổng giám đốc và hội đồng
quản trị thay đổi kịp thời, đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong cơ chế thị
trường.
-Xây dựng các chính sách của Tổng Công ty đối với thương nhân,
khách hàng, chính sách đối với từng khu vực để Tổng giám đốc duyệt phục
vụ cho công tác kinh doanh xuất nhập khẩu.
-Phối hợp với ban kế hoạch đầu tư xây dựng kế hoạch kinh doanh
xuất nhập khẩu của cơ quan Tổng Công ty.
-Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu tìm mọi khả năng khai thác
nguồn hàng xuất nhập khẩu bằng các hình thức tự doanh, đổi hàng xuất
nhập khẩu uỷ thác bảo đảm kế hoạch kinh doanh của Tổng Công ty.
-Tổng hợp dự kiến nhu cầu bông xơ, nguyên liệu chính hàng năm, có
35

kế hoạch nhập bông dự trữ chiến lược đồng thời đảm bảo kinh doanh có
hiệu quả.
-Thực hiện tốt luật cũng như chế độ chính sách trong kinh doanh xuất

nhập khẩu.
-Theo dõi tổng hợp, kiểm tra tình hình thực hiện công tác pháp chế
trong xuất nhập khẩu của Tổng Công ty.
( Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam - Xem trang sau)
Bảng 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt May Việt Nam

4. Đặc điểm và xu thế ngành may Việt Nam.
4.1. Đặc điểm.
Ngành may Việt nam có truyền thống lâu đời gắn bó với truyền thống nhân
dân từ nông thôn đến thành thị, đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân nhằm đảm bảo hàng hoá cho tiêu dùng trong nước, có điều kiện mở
rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động tạo ra ưu thế cạnh tranh cho
sản phẩm xuất khẩu, hàng năm mang về cho Nhà nước một lượng ngoại tệ
đáng kể, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau dầu khí và đã trở thành một ngành
công nghiệp then chốt của nước ta. Đây là một ngành phù hợp với điều kiện
nền kinh tế nước ta, vì:
Một là: Sản xuất hàng may mặc cần nhiều lao động, không đòi hỏi trình
độ tay nghề cao. Trong khi lao động giản đơn ở nước ta thừa rất nhiều. Hơn
nữa, để đào tạo một lao động trong ngành may mặc chỉ cần từ hai đến hai
tháng rưỡi và lao động trong ngành may mặc thường sử dụng nhiều nữ.
Hai là: Vốn đầu tư cho một chỗ làm việc ít, đồng thời ngành may mặc
có thể tạo nhiều công ăn việc làm so với các ngành khác với cùng một lượng
vốn đầu tư, thời gian thu hồi vốn nhanh. Chỉ cần khoảng 700-800 USD là có
thể tạo ra một chỗ làm trong ngành may, so với 1500-1700 USD để cho một
nông dân có thể cấy ở vùng Đồng Tháp Mười. Thời hạn thu hồi vốn chỉ 3-3,5


36

năm.

Ba là: Thị trường rộng lớn ở cả trong và ngoài nước. Ở trong nước thì
đời sống nhân dân được nâng lên, nhu cầu về mặc chuyển từ “ấm” sang “đẹp”,
“mốt” tức là nhu cầu hàng may mặc ngày càng tăng và nhanh biến đổi. Còn
trên thế giới thì xu thế ngành may mặc phổ thông đang chuyển dần sang các
nước đang phát triển do ở những nước này có lợi thế về lao động rẻ hơn những
nước phát triển.
Bốn là: Nước ta có điều kiện để phát triển trồng bông, đay, thúc đẩy
ngành dệt may phát triển vì nguyên liệu cung cấp trong nước thường rẻ hơn
nhập khẩu.
Với những đặc điểm trên mà ngành may Việt Nam đã ngày càng phát triển,
thu hút được nhiều lao động xã hội - gần 50 vạn người, chiếm 22,7% lao động
công nghiệp toàn quốc, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo sự ổn định
chính trị-kinh tế-xã hội, do đó được Đảng và Nhà nước quan tâm. Hiện nay
ngành may vẫn đang chiếm một vị trí quan trọng về ăn mặc của nhân dân, quốc
phòng và tiêu dùng trong các ngành công nghiệp khác.
4.2. Thực trạng ngành may Việt Nam.
Do có những đặc điểm phù hợp với điều kiện nước ta, nên ngành may Việt
nam và may xuất khẩu phát triển rất cao trong thời gian qua cả về mặt sản
lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau
dầu thô và liên tục tăng, có thể thấy rõ qua bảng dưới đây:
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng qua các năm

Năm 1994 1995 1996 1997 1998
Kim ngạch xuất
khẩu(tr.USD)
550 750 1150 1250 1350
Tốc độ tăng trưởng(%) 36 53 8,7 14,0

Đồng thời cũng là ngành mang tính xã hội cao, sử dụng mọi lao động trên
37


khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là lao động nữ. Số lao động công nghiệp của
ngành vào loại đứng đầu trong cả nước: khoảng 300 lao động chính và nhiều
lao động phụ khác.
Về mặt hàng: Sản phẩm ngành may rất đa dạng, có tính chất thời trang vừa
có tính quốc tế vừa có tính dân tộc. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được
nâng cao, nhu cầu hàng may mặc lại càng phong phú và chất lượng cao hơn.
Bên cạnh những mặt hàng truyền thống, thông qua gia công cho các nước, các
doanh nghiệp may Việt Nam có điều kiện làm quen với công nghệ may các mặt
hàng phức tạp, thời trang của thế giới. Công nghiệp may Việt Nam tiến bộ
nhanh, từ chỗ may quần áo lao động xuất khẩu, các loại quần áo đơn giản như
vỏ chăn, áo gối, quần áo ngủ, quần áo học sinh đến nay đã may được nhiều
mặt hàng cao cấp được nguời tiêu dùng chấp nhận, khách nước ngoài tín nhiệm
đặt hàng đi tiêu thụ tại các thị trường khó tính trên thế giới.
Tính đến năm 1995, sản phẩm may Việt Nam đã xuất khẩu sang 46 nước,
riêng thị trường EU chiếm 40%, tiếp sau là Nhật Bản 16%, Đài Loan 11%,
Hàn Quốc 9%, các nước SNG 6%, các nước khác 8%. Ngoài ra còn có Nauy
và Canada cấp hạn ngạch xuất khẩu hàng may cho ta. Việc có được hạn ngạch
may là rất có ý nghĩa, đặc biệt là hiệp định may với EC (European
community), nay đổi là EU (European Union) bởi vì:
Thứ nhất: EU là thị trường rất rộng lớn, khả năng tài chính, tiêu thụ
cũng rất lớn. Một thị trường với hơn 350 triệu dân có mức sống cao, nhu cầu
về hàng may mặc hàng năm lên tới 22-23 ngàn tấn vải, quả là một thị trường lý
tưởng cho ngành may Việt Nam.
Thứ hai: là hiệp định may tạo ra thị trường ổn định để phát triển ngành
may, trị giá hạn ngạch lên tới 300-400 triệu USD/năm. Đồng thời thị trường
hạn ngạch thường hiệu quả hơn vì có giá ổn định và cao hơn. Ví dụ: giá gia
công một chiếc Jackét ( cat 21) ở thị trường EC là 4,2-4,6 USD thì ở thị
trường khác chỉ 2,5-2,8 USD.
Thứ ba: là phần nào khẳng định uy tín chất lượng của hàng may mặc

38

Việt Nam trên thị trường thế giới. Có hạn ngạch tức là khách hàng sẽ tìm đến
chứ không chỉ người sản xuất Việt Nam đi tìm khách như trước nữa.
Ngành may Việt nam cũng đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công
hoặc phương thức thương mại thông thường với một số nước có nền công
nghiệp phát triển như Nhật Bản, Canada, các nước công nghiệp mới như Đài
Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapo và gần đây khi Mỹ bỏ cấm vận và bình
thường hoá quan hệ đối với Việt Nam, hàng may của ta có thêm thị trường Mỹ.
Tuy có những thuận lợi trong việc mở rộng thị trường nhưng thử thách đối với
hàng may của ta với thị trường thế giới còn rất lớn. Đó là khả năng thích ứng
về mẫu mốt, chất lượng, giá cả, thời hạn giao hàng theo thời vụ và tập quán
buôn bán còn rất hạn chế. Số lượng sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được
nhu cầu nguời tiêu dùng ở các nước phát triển chưa nhiều. Thị trường truyền
thống có dung lượng lớn như Liên Xô và các nước Đông Âu chưa tìm được
phương thức làm ăn thích hợp, nhất là phương thức thanh toán.
Cho đến nay, ngành may Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 200
Công ty thuộc hơn 40 nước trên thế giới và khu vực. Tuy vậy, thị trường xuất
khẩu vẫn không ổn định, đặc biệt là đối với thị trường phi hạn ngạch.
5. Mục tiêu và định hướng phát triển.
Theo quy luật của sản xuất hàng hoá, thị trường là yếu tố quyết định của
sản xuất. Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển, hoà nhập được vào thị
trường may của khu vực và thế giới, trong những năm tới ngành may Việt Nam
coi trọng phương châm “hướng ra xuất khẩu-coi trọng thị trường nội địa” để tổ
chức sản xuất.
Sau khi mất thị trường truyền thống là Liên Xô và Đông Âu cũ, ngành may
đã cố gắng khai thác thị trường mới là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, EU
song còn nhiều hạn chế. Để duy trì và phát triển sản xuất-xuất nhập khẩu, Tổng
Công ty phải tổ chức tìm kiếm thị trường một cách chủ động, khắc phục tính
thụ động ngồi chờ, giữ vững, khai thác, mở rộng các thị trường hiện có, nhanh

chóng tìm kiếm, khai thác thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ và thị
trường truyền thống cũ. Trước mắt có thể làm gia công, nhưng phải chuẩn bị
39

các điều kiện để chuyển dần từng bộ phận, từng doanh nghiệp khi đủ khả năng
sang phương thức xuất FOB.
Trong hai thập kỷ tới, ngành may Việt Nam vẫn hướng ra xuất khẩu để thu
hút ngoại tệ, tự cân đối để tồn tại và phát triển, đồng thời coi trọng thị trường
nội địa để làm cơ sở cho sự phát triển.
Trên thực tế hiện nay, có thể tạm chia thị trường may Việt Nam thành hai
khu vực.
5.1. Thị trường nội địa.
Trên lĩnh vực này, ngành may Việt nam cũng gặp phải không ít những khó
khăn khi phải thi đấu với những đối thủ trên sức mình. Vì Việt Nam đã trở
thành thành viên chính thức và thực hiện các điều khoản của hiệp định AFTA,
thị trường nội địa là “sân chơi” của các nước trong khu vực. Trong khi ngành
dệt Việt Nam đang ở mức thấp hơn so với các nước trong khu vực: về phần
cứng ta sau bạn từ 7-8 năm, về phần mềm thì sau 15-20 năm. Như vậy, để giữ
được thị trường trong nước, không để hàng các nước trong khu vực tràn vào
cạnh tranh, ngành dệt may phải có những bước đi và giải pháp thích hợp trong
thời gian tới.
5.2.Thị trường xuất khẩu.
Đây là thị trường có nhu cầu lớn nhưng lại có yêu cấu rất cao về chất lượng
và mẫu mã, đặc biệt là thị trường Mỹ, Nhật Bản và EU. Để vào được thị
trường này, ngành may phải đi từng bước từ dễ đến khó, từ gia công đến xuất
hàng FOB ( năm 2010 hàng vào EU là 70% FOB ) và thương mại. Với tình
hình thực tế ngành may của ta hiện nay, chỉ có thể đi vào các chủng loại mặt
hàng chất lượng thấp và trung bình, một số ít mặt hàng đạt đến khá. Các loại
mặt hàng cao cấp của thị trường này ta chưa thể làm được và rất khó cạnh
tranh. Đặc biệt vào năm 2005, thị trường Mỹ sẽ không còn hạn ngạch, với lợi

thế nhân công rẻ, ngành may Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị
trường này.
40

Thâm nhập và tìm kiếm thị trường là nhiệm vụ hàng đầu, là công việc khó
khăn phức tạp nên phải phát huy khả năng của mọi doanh nghiệp để mở rộng
và phát triển thị trường. Đồng thời ngành may Việt nam cũng phải từng bước
đầu tư hợp lý, tổ chức lại quản lý sản xuất để tạo ra các sản phẩm có sức cạnh
tranh và uy tín trên thị trường.
Trong những năm tới, ngành may Việt Nam phải đầu tư phát triển để đạt
được tốc độ tăng trưởng bình quân 1996-2000 là 15%/năm. Đến năm 2000
xuất khẩu hàng may mặc đạt 1,2-1,3 triệu USD, tăng ba lần so với năm 1995.
Sản phẩm xuất khẩu bằng vải do Việt Nam sản xuất chiếm khoảng 40-50%.
Tạo việc làm cho khoảng một triệu lao động.
Đến năm 2010 xuất khẩu hàng may mặc đạt 3 tỷ USD, tăng gấp hai lần so
với năm 2000. Sản phẩm xuất khẩu bằng vải do Việt nam sản xuất chiếm 60-
70%. Tạo ra công ăn việc làm cho gần hai triệu lao động với mức thu nhập
bình quân trên 100 USD/1tháng/1người.
41

II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA TỔNG
CÔNG TY DỆT- MAY THỜI KỲ 1995-1998.
Mặt hàng may mặc Việt nam trong nhiều năm qua chiếm một vị trí quan
trọng trong đóng góp cho xuất khẩu và nâng cao giá trị sản lượng của toàn bộ
ngành công nghiệp Việt nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc tăng vọt từ
năm 1993, là năm bắt đầu thực hiện Hiệp định may mặc giữa Việt nam với EC
(Europed Community). Hiệp định này đã đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc cả về
số lượng, chất lượng và thị trường của sản phẩm may mặc "Made in Vietnam"
trên thị trường thế giới.
Nếu như năm 93 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc đạt 350 triệu USD thì

năm 94 tăng lên 554 triệu USD, chiếm 85% kim ngạch hàng công nghiệp nhẹ
và tiểu thủ công nghiệp, chiếm khoảng 13-14% tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nước. Năm 95 vẫn giữ tỉ trọng này nhưng về mặt giá trị đã tăng lên 750
triệu USD. Với sự ra đời của Tổng Công ty Dệt- May Việt nam trên cơ sở
thống nhất Tổng Công ty Dệt Việt nam và Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất-
xuất nhập khẩu hàng may mặc đã phát huy được sức mạnh tổng hợp, tạo được
thế và lực. Từ năm 95 tới nay, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc không
ngừng tăng lên và đã đứng hàng thứ hai trong danh mục hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt nam. Cụ thể qua bảng sau:
Bảng 3: Giá trị xuất khẩu hàng may Việt nam 1991-1998.
(Đơn vị: triệu USD)
1991 1992

1993

1994 1995 1996 1997 1998
Giá trị XK
toàn quốc
2.087,1

2.580,
7

2.985,
0

4.054,
3

5.200,

0

7.255,
8

8.850,0

8.910,
0

Giá trị XK
ngành may
Việt nam
116,0

180,0

350,0

550,0

750,0

1.150,
0

1.250,0

1.310,
0


Tỷ lệ so với
XK toàn quốc
(%)
5,6

7

11,7

13,6

14,4

15,8

14,1

14,7

42

(Nguồn: Dự án qui hoạch tổng thể ngành công nghiệp Dệt- May đến năm
2010, tr. 17.)
Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
phải kể đến hàng Dệt-May. Tuy đứng ở vị trí thứ hai sau dầu thô, nhưng đây là
mặt hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Năm 1997 tỷ
lệ xuất khẩu hàng Dệt-May chiếm 14,1% so với toàn quốc đến năm 1998 tỷ lệ
này tăng lên 14,7% mặc dù bị ảnh hưởng không ít bởi cơn khủng hoảng tài
chính ở Đông Nam á. Đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của toàn Tổng Công thuốc

thú y, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu hàng may mặc. Điều này góp
phần giải quyết việc làm, tích cực đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
1. Tình hình xuất khẩu hàng may mặc theo mặt hàng.
Trong những năm qua, Tổng Công ty Dệt-May Việt nam thực hiện kinh
doanh đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, khách hàng có xu hướng tăng
lên. Tổng Công ty có khả năng tạo nguồn hàng với khối lượng lớn và đang mở
ra một hướng kinh doanh mới phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế trong
nước và thế giới.
Các hình thức xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty chủ yếu là xuất
khẩu trực tiếp, xuất khẩu trả nợ, liên doanh với các đơn vị để xuất, giao hàng
đổi thiết bị, mua bán đứt đoạn. Các nhóm mặt hàng chủ yếu bao gồm:
- Nhóm mặt hàng mặc thường ngày: sơ mi, quần âu, áo váy
- Nhóm mặt hàng lót nam, nữ
- Nhóm mặt hàng thường dùng ở nhà: các loại bộ ngủ nam, nữ; vỏ chăn,
ga, gối.
- Nhóm quần thể thao: quần áo vải thun, quần áo bò (Jean)
- Nhóm thời trang hiện đại (quần áo mode)
- Nhóm trang phục đặc biệt: quân đội, bảo hộ lao động cho các loại
43

ngành nghề.
Các nhóm hàng trên với nhiều chất liệu vải và phụ liệu, với tay nghề tốt,
khéo léo nên sản phẩm xuất khẩu ra đạt yêu cầu về chất lượng của khách hàng.
44

Bảng 4: Cơ cấu hàng xuất khẩu qua các năm
Mặt hàng 1996 1997 1998
Tr.
USD

%
TKN
Tr.
USD
%
TKN
Tr.
USD
%
TKN
1. Sơ mi 108,87
1

14,25

236,0
28

20,52

257,04
3

20,56

2.Jacket và áo khoác
các loại
118,45
9


15,79

225,7
42

19,63

241,97
8

19,36

3. Quần các loại 58,630

7,82

110,4
83

9,61

157,14
2

12,57

4. Dệt kim các loại 57,799

7,71


92,42
1

8,03

107,66
4

8,6


Sau mỗi đợi xuất hàng, Tổng Công ty đều tổ chức hạch toán kiểm tra việc
thực hiện nhiệm vụ ở các công đoạn xem có đúng, đầy đủ, chính xác không để
kịp thời phát hiện, bổ sung thiếu sót. Do vậy, hoạt động xuất khẩu hàng may
mặc liên tục hoàn thiện và phát triển. Có thể thấy rõ hơn sự biến động tăng
giảm của từng sản phẩm qua các năm qua (Bảng 4).
Qua bảng trên cho thấy, tình hình xuất khẩu các mặt hàng may mặc nói
chung có triển vọng tốt, chẳng hạn đối với mặt hàng sơ mi năm 1996 giá trị đạt
hơn 100 triệu USD, chiếm 14,52% tổng kim ngạch thì năm 1997 đã tăng lên
hơn 200 triệu USD, chiếm 20,52% và năm 1997 là 20,56%. Trong cơ cấu hàng
may mặc xuất khẩu trên thì xu hướng hàng may mặc sẵn có xu hướng tăng lên
nhiều bởi Tổng Công ty ngoài việc thực hiện xuất khẩu còn thực hiện làm hàng
trả nợ cho các nước SNG và Đông Âu. Bằng sự tranh thủ mọi nguồn vốn và sự
hỗ trợ của các đối tác, Tổng Công ty không ngừng đầu tư đổi mới trang thiết
bị, dây truyền công nghệ, thay thế các thiết bị cũ, lạc hậu, lắp đặt các thiết bị
hiện đại. Chính vì vậy mà chất lượng sản phẩm được nâng cao, sản phẩm đa
45

dạng (sơ mi, jacket, đồ thể thao ) từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường. Đặc
biệt đối với mặt hàng sơ mi nam cao cấp đã có mặt và đứng vững trên thị

trường EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Bắc Mỹ.
Đối với mặt hàng dệt kim, những năm trước kia có giá trị xuất khẩu rất lớn,
do khi đó chưa đòi hỏi kỹ thuật cao cấp và nhu cầu ở các nước bạn hàng rất
lớn. Còn hiện nay, hàng dệt kim đòi hỏi kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, trên thị
trường lại có nhiều đối thủ cạnh tranh gay gắt. Do đó mặt hàng này hiện nay
xuất khẩu chủ yếu là để trả nợ . Bên cạnh đó, mặt hàng này phần lớn là được
xuất sang các nước SNG, vì vậy khi các nước này tan rã, thì thị trường cho mặt
hàng này bị thu hẹp nhanh chóng. Nếu như năm 1993 xuất khẩu chiếm 39,1%
thì từ năm 1995 đến nay chỉ đạt từ 7 đến 8%.
Trên đây là các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Tổng Công ty. Hiện nay
Tổng Công ty đang tiếp tục củng cố và tiến tới nâng cao tỉ trọng hàng dệt kim,
hoàn thiệnvà phát triển hàng may mặc, đảm bảo chất lượng cao, chủng loại đa
dạng phong phú, giá thành giảm dần.
Bên cạnh những thành công đạt được, vẫn còn một số hạn chế, tồn tại cần
giải quyết. Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc cao nhưng hình thức xuất
khẩu hàng gia công là chủ yếu, do đó hiệu quả chưa cao (75-80% là gia công
xuất khẩu). So với các nước nói chung, mặt hàng may mặc của ta chưa cạnh
tranh được (trong đó có Trung Quốc, Thái Lan). Một trong những mục tiêu
phấn đấu của Tổng Công ty là từng bước giảm gia công, tăng bán sản phẩm
hoàn chỉnh. Để thực hiện được mục tiêu này, Tổng Công ty hướng ưu tiên đầu
tư cho khâu kéo sợi, dệt vải, in, nhuộm để tạo ra nhiều loại vải có chất lượng
cao (hiện nay, vải đủ tiêu chuẩn chỉ có 10-15% nhu cầu chủng loại) và đầu tư
vào sản xuất phụ liệu, khâu thiết kế mẫu mã, nhãn mác và phải đẩy mạnh công
tác tìm kiếm thị trường, tìm kiếm khách hàng mua sản phẩm hoàn chỉnh của
Việt Nam. Năm 1996 toàn Tổng Công ty xuất khẩu sản phẩm theo điều kiện
FOB được khoảng 30%, năm 1997 đã tăng lên 40%. Đây là một cố gắng lớn
của Tổng Công ty.
46

2. Tình hình xuất khẩu hàng may mặc theo thị trường .

Thâm nhập tìm kiếm thị trường là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Tổng
Công ty Dệt-May Việt nam. Trong những năm qua, hoạt động kinh doanh xuất
khẩu hàng may mặc luôn được Tổng Công ty chú trọng nhằm mở rộng thị
trường trong nước và nước ngoài. Đến nay Tổng Công ty đã có quan hệ buôn
bán với trên 40 nước. Tổng Công ty đang củng cố vị thế và mở rộng thị trường
hơn nữa. Giá trị hàng may mặc không ngừng tăng lên qua các năm.
Bên cạnh đó, nhu cầu hàng may mặc không ngừng tăng lên ở các nước trên
thế giới vì sau nhu cầu ăn là nhu cầu về mặc. Tổng khối lượng lưu chuyển hàng
hoá này chiếm tỉ trọng lớn trong cán cân thương mại quốc tế, chỉ đứng sau
khoáng sản tài nguyên và chế tạo máy, điện tử. Khi trình độ khoa học kỹ thuật
của con người ngày càng phát triển ở mức độ cao sẽ dẫn tới sự phân hoá thế
giới về sản xuất. Các nước phát triển sẽ chuyển sang các ngành công nghiệp
hiện đại, nhường chỗ cho các nước đang phát triển trong công nghiệp sản xuất
hàng may mặc. Nhu cầu may mặc cũng ngày càng đòi hỏi nhiều hơn, mẫu mã,
chất liệu phong phú hơn, đặc biệt xã hội càng văn minh lịch sự bao nhiêu thì
yêu cầu về mặc lại càng được chú ý cầu kỳ bấy nhiêu. Nhận biết được các yếu
tố đó đã giúp cho Tổng Công ty trong hoạt động xuất khẩu đạt được những kết
quả đáng khích lệ. Để hiểu rõ hơn hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của
Tổng Công ty sang các thị trường trong thời gian qua, ta hay xem xét qua bảng
5 dưới đây:
Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu hàng may mặc theo thị trường chủ yếu
1995-1998
Thị trường 1995 1996 1997
Tr.
USD
%
TKN
Tr.
USD
%

TKN
Tr.
USD
%
TKN
TT có hạn
ngạch
Trong đó:






- EU 310

41,3

420

36,52

650

52

- Canada 17,85

2,38


15,97

1,39

12,89

1,03

47

- Nauy 9,53

1,27

5,82

0,51

4,93

0,39

TT Phi hạn
ngạch







Trong đó:






- Thuỵ Sĩ 27,6

3,68

8,64

0,75

8,51

0,68

- Hungary 57,5

7,70

102,59

8,93

105,58

8,44


- Ucraina 37,21

4,97

119,12

10,35

121,3

9,7

- Séc 39,87

5,32

189,22

16,45

69,07

5,53

- Nga 50,53

6,74

43,75


3,8

39,87

3,19

- Nhật 59,28

7,90

79,85

6,94

29,54

2,36

- Hàn quốc 36,71

4,89

9,87

0,9

8,75

0,7


- Đài loan 47,66

6,35

25,69

2,23

30,42

2,43

- Hồng Kông 29,21

3,89

97,54

8,48

112,37

9,04

- Mỹ 5,48

0,73

9,74


0,85

14,28

1,14

- Các nước
khác
21,57

2,88

22,2

1,90

42,49

3,41

Tổng 750

100

1150

100

1250


100


Qua bảng số liệu trên cho thấy, hàng may mặc xuất khẩu của Tổng Công ty
chiếm tỉ trọng lớn ở các thị trường Nga, Nhật, EU, Séc, Ucraina, Hungary. Tuy
nhiên hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở các thị trường trên vẫn
chưa thật ổn định.
Trong số các thị trường có hạn ngạch, thì EU là thị trường lớn nhất của
Tổng Công ty. Đây là một thị trường đông dân (350 triệu người) lại có sức tiêu
dùng vải cao (17 kg/ 1 người). Yêu cầu về hàng may mặc đặc biệt cao. Nhu
cầu tiêu dùng để bảo vệ thân thể chỉ chiếm 10- 15% giá trị sản phẩm, còn 80-
90% là theo mốt, nên hàm lượng chất xám trong sản phẩm may là chính.
Trong ba năm 1995, 1996, 1997, quota xuất khẩu hàng may mặc Việt nam
vào EU không ngừng tăng lên. Điều đó chứng tỏ chất lượng hàng may mặc đã
ngày một cao hơn. Nhưng so với các nước có quota vào EU thì số lượng của ta
còn rất nhỏ bé (mới chỉ chiếm 0,7% tổng kim ngạch nhập hàng may mặc vào
48

EU) và chỉ bằng 5% đối với Trung Quốc, 10- 20% so với các nước ASEAN.
Tuy nhiên, ta cũng còn gặp nhiều khó khăn như nhiều mặt hàng lớn thì bị hạn
chế về số lượng như Jacket, áo sơ mi mới chỉ đạt 50% công suất của ngành. Số
hạn ngạch còn hạn chế: Hiệp định Việt nam- EU 1993- 1995 qui định 151 cat.
Giá trị xuất khẩu năm 1995 đạt 310 triệu USD, năm 1996 ký lại còn 54 cat
(nhóm hàng xuất khẩu) đã nâng kim ngạch xuất khẩu lên 410 triệu USD. Năm
1997 Hiệp định này ký lại rút xuống còn 29 cat, nâng tổng kim ngạch xuất
khẩu sang EU lên 650 triệu USD chiếm 52% tổng kim ngạch xuất khẩu. Số
nhóm hàng xuất khẩu (cat) mà EU dành cho hàng may mặc Việt Nam càng
giảm thì số chủng loại mặt hàng may Việt Nam càng có cơ hội thâm nhập vào
thị trường EU nhiều hơn.

Ngoài ra, EU còn dành một số ưu đãi về thuế quan (GSP) đối với mặt hàng
may mặc do Việt Nam sản xuất. Song do nguyên liệu, phụ liệu sản xuất trong
nước còn yếu kém, chưa có mẫu mã phù hợp với thị hiếu và chưa có bạn hàng
mua bán trực tiếp ở các nước trong khối EU nên hầu hết phải thông qua gia
công cho các nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông Gia công đơn
thuần làm cho hoạt động xuất khẩu hàng may mặc không hiệu quả, bị thua thiệt
nhiều mặt, không tận dụng được ưu đãi quota mà EU dành cho ta. Đối với thị
trường EU, kim ngạch xuất khẩu có tăng lên, xong không đáng kể. Các thị
trường Canada, Nauy bị thu hẹp do hàng của Tổng Công ty không cạnh tranh
được với hàng của các nước khác. Chẳng hạn như mặt hàng sơ mi, Trung
Quốc phát triển hơn ta rất nhiều.
Đối với nhóm thị trường phi hạn ngạch, nhìn tổng thể thì kim ngạch xuất
khẩu tăng đều trên các thị trường Hungary, Ucraina, Hồng Kông, Mỹ nhưng
trên một số thị trường khác thì xuất khẩu lại giảm, chẳng hạn như: Nga, Đài
loan, Thuỵ sĩ, đặc biệt là thị trường Nhật giảm rất nhanh trong năm1997. Sở dĩ
vì có tình trạng trên là vì ở các thị trường Séc, Hungary phần lớn là hàng trả
nợ. Trên thị trường Ucraina, Tổng Công ty xuất khẩu đổi hàng thuỷ điện Yaly,
thuỷ điện Yaly nợ Ucraina, Tổng Công ty xuất khẩu hàng may mặc sang
Ucraina, Yaly trả tiền cho Tổng Công ty, do đó khối lượng tiêu thụ sang những
thị trường này là tương đối lớn.
49

Mặt khác, đây là các thị trường dễ tính, phù hợp với trình độ và quen thuộc
của Tổng Công ty nên dễ thực hiện, tuy nhược điểm đồng tiền trên thị trường
SNG và một số nước Đông Âu còn biến động lớn.
Trên thị trường Nga, mặc dù giá trị hàng xuất khẩu năm 1996, 1997 có
giảm đi nhưng không đáng kể vì trên thị trường này xuất khẩu chủ yếu là hàng
đổi hàng và để trả nợ. Ở Đài Loan, Nhật Bản thì con số này chỉ ở mức khiêm
tốn, chiếm khoảng 1,7%. Đây là thị trường to lớn và hấp dẫn mà Tổng Công ty
cần khai thác hiệu quả hơn nữa.

Ngoài các thị trường trên, Mỹ là thị trường mới mẻ đối với Tổng Công ty.
Qua ba năm từ 1995-1997 thị trường Mỹ đã liên tục được mở rộng và tăng lên
tuy nhiên chưa lớn lắm. Đây là một thị trường đầy triển vọng đối với Tổng
Công ty. Mỹ-một thị trường sản xuất và tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế
giới, dân số đông (hơn 360 triệu người), mức tiêu thụ hàng may mặc gấp rưỡi
EU (27kg/ 1 người). Từ sau khi quan hệ Việt-My bình thường hoá, hai nước
đã đặt quan hệ Đại sứ, bãi bỏ cấm vận, tuy chưa được hưởng ưu đãi thuế quan
phổ cập (GSP) và tối huệ quốc MFN, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc giữa
Tổng Công ty với Mỹ luôn tiến triển tốt đẹp.
Trong khuôn khổ đàm phán WTO từ 1/1/1995 thì trong vòng 10 năm nữa
hàng rào hạn ngạch hàng dệt may bị bãi bỏ và thuế sẽ giảm trung bình 9%. Các
nước có xu hướng sản xuất hàng dệt may đang điều chỉnh lại chiến lược phát
triển ngành dệt may nước họ, chuẩn bị đọ sức quyết liệt tại thị trường Mỹ
không hạn ngạch vào năm 2005, đặc biệt là đối với những nước có lợi thế nhân
công rẻ sẽ ồ ạt xuất hàng may mặc vào Mỹ. Tổng Công ty Dệt May Việt nam
do xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ còn quá nhỏ bé (0,037% tổng kim ngạch
nhập năm 1995) nên cần có chiến lược tiếp thị, phát triển các mặt hàng may
mặc phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng, và thị hiếu của thị trường Mỹ, đầu tư
đón trước thời cơ để có thể thâm nhập mạnh mẽ vào được thị trường khổng lồ
này.
Có thể nói rằng những thành công của Tổng Công ty trong thời gian qua
không chỉ thể hiện bằng những con số, mà còn phải kể đến thị trường mở rộng,
50

mặt hàng đa dạng, phong phú, tạo ra uy tín đối với các đơn vị kinh doanh trong
và ngoài nước, đây mới là tài sản vô hình quí giá không dễ gì đạt được.
3. Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt -
May Việt Nam.
Đánh giá hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty là một đòi hỏi bức thiết
đối với công tác quản lý cũng như đối với Tổng Công ty nhằm hướng Tổng

Công ty quan tâm khai thác tiềm năng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Trên cơ sở đó, tăng cường tích luỹ để đầu tư tái kinh doanh cả chiều
rộng lẫn chiều sâu, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
Có rất nhiều chỉ tiêu để phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh của Tổng
Công ty. Song đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc thì chỉ
tiêu lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu
động là hai chỉ tiêu quan trọng nhất.
3.1. Cơ sở hình thành lợi nhuận của Tổng Công ty từ hoạt động
xuất khẩu.
Để có thể phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh
xuất khẩu một cách rõ ràng, chính xác cần thiết phải xem xét những khoản mục
nào tạo nên chi phí, lợi nhuận trước và sau thuế được hình thành như thế nào.
Cơ sở hình thành lợi nhuận của tổng Công ty có thể được tóm tắt như sau:
51

P = [( R - C ) - T ] + B
Trong đó:
R: Tổng doanh thu từ hợp đồng xuất khẩu: Giá trị hợp đồng
C: Tổng chi phí hợp lý, hợp lệ bao gồm:
- Giá vốn hàng hoá: giá mua và chi phí thu mua
- Tiêu hao nguyên vật liệu sản xuất hàng xuất khẩu
- Khấu hao tài sản cố định
- Tiền công, tiền lương
- Lệ phí hải quan, thuê tàu, bảo hiểm hàng hoá
- Chi phí quản lý, tiền lãi ngân hàng
- Chi phí liên quan trực tiếp đến lưu thông hàng hoá xuất khẩu
ở trong nước:
+ Bốc xếp, vận chuyển
+ Chi phí bảo quản, đóng gói bao bì

+ Chi phí giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng
- Các chi phí được coi là hợp lệ
T: Thuế các loại, bao gồm:
- Thuế doanh thu
- Thuế sử dụng vốn ngân sách cấp (gọi tắt là thuế vốn)
- Thuế lợi tức tính theo công thức sau:
Trước năm 96:
52

Thuế lợi tức = (Lợi nhuận trước thuế - thuế doanh thu- thuế vốn + Lợi tức
khác) * thuế suất lợi tức
Năm 97 đến nay:
Thuế lợi tức = (Lợi nhuận trước thuế - thuế doanh thu- lợi tức khác) * thuế suất
lợi tức
B: Các khoản lợi tức khác:
Bao gồm:
- Các khoản lợi tức khác phải nộp thuế:
+ Lãi tiền gửi ngân hàng
+ Lãi từ hoạt động kinh doanh cho thuê động sản, bất
động sản
+ Lãi từ hoạt động kinh doanh phụ khác
+ Lãi từ các hoạt động tài chính khác
+ Chênh lệch thanh lý , chuyển nhượng tài sản cố định
- Các khoản lợi tức khác không phải nộp thuế
+ Lãi từ góp vốn liên doanh
+ Lợi nhuận góp hoặc mua cổ phiếu, cổ phần
P: Thực lãi của Tổng Công ty từ hoạt động xuất khẩu
Phần lãi này được chia làm 3 quĩ theo qui định của Nhà nước và thuộc
quyền sử dụng của Tổng Công ty trong phạm vi 3 quĩ đó là: quĩ phát triển sản
xuất, quĩ khen thưởng, quĩ phúc lợi.

Trong thực tế khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu, người ta phải
chú ý đến tương quan giữa tỉ giá hối đoái chính thức được công bố trên thị
53

trường và tỉ giá hàng xuất khẩu.
Tỉ giá hàng xuất khẩu là số nội tệ phải bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại
tệ ví dụ là (Mx)
Khi nhà sản xuất hoàn thành thủ tục giao hàng, sẽ thực hiện thanh toán bằng
ngoại tệ. Số lượng ngoại tệ thu về là giá trị của hợp đồng xuất khẩu gọi là
doanh thu hoạt động xuất khẩu (Rx). Như vậy, để thu được Mx đơn vị ngoại tệ
thì Tổng Công ty phải chi phí (Mx*Rx) đồng nội tệ, đó chính là các khoản chi
phí ở mục b.
Số lượng ngoại tệ Mx thu về được đổi thành đồng nội tệ theo tỉ giá hối đoái
trên thị trường là Mtt và (Mtt*Mx) đồng nội tệ. Vì vậy lợi nhuận hoạt động
xuất khẩu là:
LNx = Mtt*Rx - Mx*Rx = (Mtt - Mx)* Rx
Lợi nhuận xuất khẩu chỉ dương hay nhà xuất khẩu chỉ có lợi khi tỉ giá hối
đoái của thị trường Mtt lớn hơn tỉ giá hàng xuất khẩu Mx. Khi Mtt = Mx thì
nhà xuất khẩu hoà vốn.
3.2. Tổng lợi nhuận.
Tổng lợi nhuận thường được biết đến là lợi nhuận trước thuế hay lãi gộp từ
hoạt động sản xuất kinh doanh, được tính bằng doanh thu trừ đi chi phí.
Tổng lợi nhuận có thể được xem xét dựa vào bảng sau:
Bảng 6: Tình hình tài chính của Tổng Công ty năm 1995-1998.
(Đơn vị: Triệu VND)

Năm
Chỉ tiêu
1995 1996 1997 1998
- Doanh thu

- Chi phí
- Lợi nhuận trước
83.905

81.119

2.786

161583

155.926

5.657

198770

192327

6.443

245.302

237.807

54

thuế
- Nộp thuế
- Lợi nhuận sau thuế
- Lợi nhuận khác

1.253

1.533


2.340

3.317

465

Thực lãi 1.533 3.782 3.866 4.623

Qua bảng trên cho thấy, tỷ trọng chi phí trên tổng doanh thu lần lượt qua
các năm là: 96,7%; 96,5%; 96,8%. Tỷ trọng trước thuế tương ứng với 3 năm
đó là: 3,32%; 3,5%; 3,24%.
Như vậy tỷ trọng của lợi nhuận trước thuế trong tổng doanh thu là tương
đối ổn định đạt mức trung bình là 3,35% trong thời kỳ 1995-1997. Doanh thu
qua các năm không ngừng tăng lên. Năm 1996 so với năm 1995 đã tăng thêm
được 77678 triệu đồng, năm 1998 tăng thêm so với năm 1997 là 31187 triệu
đồng.
Như đã đề cập ở trên, lợi nhuận trước thuế sau khi trừ đi các khoản nộp
ngân sách thu được khoản lợi nhuận sau thuế. Lợi nhuận sau thuế cộng thêm
các khoản lợi tức khác của Tổng Công ty thu được thực lãi, mà thực lãi sau đó
sẽ được trích lập thành ba quĩ theo qui định của Nhà nước. Vì vậy, sẽ là không
đầy đủ khi đánh giá hiệu quả kinh tế theo lợi nhuận nói chung mà chỉ phân tích
lợi nhuận trước thuế.
Tỷ trọng nộp ngân sách trong tổng lãi gộp qua các năm 1995,1996,
1997,1998 tương ứng là: 45%; 41,4%; 40%, 42% trung bình là 42,1%. Tỷ
trọng của lợi nhuận sau thuế trong tổng lợi nhuận tương ứng là: 51,1%; 58,6%;

và 60%, 61% trung bình là 57,9%. Những con số trên đây cho thấy mức độ
nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước của Tổng Công
ty. Phần lợi nhuận sau thuế có tỷ trọng trung bình trong tổng lãi gộp từ hoạt
động kinh doanh là: 57,9%, trong đó tổng chi phí là 2,01%, trong tổng doanh
thu nói chung là 1,94%. Như vậy trong thời kỳ 1995-1998 vừa qua, hoạt động
kinh doanh của Tổng Công ty tương đối ổn định, luôn đảm bảo nghĩa vụ đầy
đủ đối với Nhà nước.
55

Tốc độ tăng bình quân của lợi nhuận trước thuế thời kỳ 1995-1998 là
58,47% so với tốc độ tăng trưởng trung bình của tổng doanh thu cùng kỳ là
57,8%. Tốc độ tăng bình quân của lợi nhuận sau thuế trong thời gian này là
66,46%, của nộp ngân sách là 48,44%.
Xét về số tuyệt đối thì tổng lãi gộp chưa lớn, hay phần nộp ngân sách và lợi
nhuận sau thuế còn nhỏ bé nhưng rõ ràng lợi nhuận trước và sau thuế tăng đều
đặn và đạt từ 58- 66%, cùng với mức tăng trưởng doanh thu là 57,8%. Đó là
một dấu hiệu tích cực, phản ánh quá trình tích cực của Tổng Công ty trong
suốt thời kỳ 1995-1998 đã đạt được hiệu quả kinh tế cao, không những mang
lại lợi nhuận ngày càng cao cho Tổng Công ty mà còn tăng thu ngân sách cho
Nhà nước.
3.3. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí, doanh thu, và vốn kinh doanh.
3.1.1. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí.
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí (Dc) được tính theo công thức:
Tổng lợi nhuận
Tổng chi phí
Trong đó tổng lợi nhuận được tính là tổng lợi nhuận trước thuế hay lãi gộp,
là phần còn lại của doanh thu sau khi đã bù đi các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ
phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, nếu tính doanh lợi theo chi phí dựa trên ba nhân tố là lãi gộp, lợi
nhuận trước thuế, thực lãi của Tổng Công ty thì không những biết được rằng

một đồng chi phí bỏ ra đem lại bao nhiêu đồng lãi gộp mà còn cho biết trong
phần lãi gộp đó bao nhiêu đồng trở về ngân sách Nhà nước, bao nhiêu là phần
lãi thực tế của Tổng Công ty. Phân tích như vậy sẽ có giá trị so sánh hơn rất
nhiều.
Bảng 7: Doanh lợi theo chi phí thời kỳ 1995-1998

1995 1996 1997 1998
Dc
=

* 100%

56

Năm
Chỉ tiêu
Tổng chi phí 81.119

155.926

192.327

237.807

Lợi nhuận trước thuế 2.786

5.657

6.443


7.495

Lợi nhuận sau thuế 1.533

3.317

3.866

4.623

Thực lãi 1.533

3.782

3.866

4.623

Dc (theo lợi nhuận trước
thuế)
3.4

3,6

3.4

3,5

Dc (theo lợi nhuận sau
thuế)

1.9

2,1

2,0

2,0

Dc (theo thực lãi) 1.9

2.4

2,0

2,0


Về nội dung, các số liệu ở các cột tương ứng với các năm có ý nghĩa như
nhau vì thế chỉ cần chú giải một cột, ví dụ như năm 1996. Trong năm 1996:
Một đồng chi phí bỏ ra có thể thu về 0,036 (3,6%) đồng lãi gộp.
0,036 đồng lãi gộp đó có 0,024 đồng thực lãi của Tổng Công ty.
0,036 đồng đó có 0,015 đồng quay lại ngân sách Nhà nước
Như vậy từ một đồng chi phí bỏ ra năm 1996, Tổng Công ty thu về được
0,036 đồng lợi nhuận trước thuế, nộp 0,015 đồng cho ngân sách Nhà nước, thu
về là 0,021 đồng lợi nhuận sau thuế và 0,024 đồng thực lãi của Tổng Công ty.
Sở dĩ số thực lãi và lợi nhuận sau thuế không thống nhất với nhau vì Tổng
Công ty còn có các khoản lợi tức khác cộng thêm vào lợi nhuận sau thuế mới
có được thực lãi. Ởđây, các khoản lợi tức khác được tính vào thực lãi của
Tổng Công ty không phải là lợi tức từ hoạt động kinh doanh nhưng chỉ tồn tại
khi Tổng Công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh. Đó không phải là các

khoản lợi nhuận thu về từ chênh lệch doanh thu và chi phí, nhưng lại có nguồn
gốc từ chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, các khoản lợi nhuận này
được đưa vào tính tỷ suất lợi nhuận để có giá trị phân tích cao hơn.
Qua bảng trên có thể thấy rằng các khoản chi phí của Tổng Công ty để tiến

×