Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Khảo biện văn thư ngoại giao của Trần Nhân Tông ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.06 KB, 5 trang )

Khảo biện văn thư ngoại
giao của Trần Nhân Tông









Tổng hợp từ các cứ liệu trên đây, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng
Quang Bính chính là Trần Thái Tông, Nhật Huyên là Trần Thánh Tông, còn Nhật
Tôn là Trần Nhân Tông (Trong các tên cũng đều có bộ “hỏa” hoặc bộ “nhật”). Như
vậy, các vua nhà Trần trong quan hệ với nhà Nguyên đều dùng tên riêng, “có tính
chất chuyên dụng”, cụ thể như sau:
Trần Thái Tông (Trần Cảnh) - lấy tên là Quang Bính.
Trần Thánh Tông (Trần Hoảng) - lấy tên là Nhật Huyên.
Trần Nhân Tông (Trần Khâm) - lấy tên là Nhật Tôn
(7)
.
Dùng “tên chuyên dụng” trong quan hệ ngoại giao của các vua Trần làm tiêu
chí để xác định tác giả các văn thư (tiêu chí thứ nhất), về danh nghĩa tác giả, các văn
thư 7, 8, 9, 10, 11, 12 (mang tên Nhật Huyên) đều là của vua Trần Thánh Tông.
Trong số 5 văn thư thuộc TCTTT chỉ có văn thưmang tên An Nam quốc tiến Vạn thọ
tụng tịnh biểu tấu có ghi tác giả là Nhật Tôn, vậy văn thư này là của Trần Nhân Tông
(Văn thư mang tên An Nam quốc tiến Vạn thọ tụng tịnh biểu tấu tương ứng với các
văn thư 18, 19, 20 trong Toàn tập Trần Nhân Tông).
Điều này chứng tỏ rằng nếu coi Nhật Huyên và Nhật Tôn là các tên khác của
Trần Nhân Tông, đồng thời dùng thời gian vua Trần Nhân Tông tại vị làm tiêu chí để
xác định tác giả các văn thư ngoại giao trong giai đoạn từ năm 1278 đến 1293 như tác


giả Toàn tập Trần Nhân Tông đã làm là thiếu chuẩn xác.
Ngoài ra, cũng theo sự ghi chép trong phần An Nam truyện của NS, tờ biểu
viết vào tháng Giêng năm Chí Nguyên thứ 12 (1275) xin bãi bỏ chức Đạt lỗ hoa
xích (quan do nhà Nguyên cử sang nước ta để giám sát tình hình) là của Quang
Bính, tức Trần Thái Tông (Đây cũng là văn thư muộn nhất của Trần Thái Tông
hiện còn); trong khi đó, vào năm 1258 Trần Thái Tông đã nhường ngôi cho Thánh
Tông. Tương tự như vậy, các văn thư 7, 8, 9, 10, 11, 12 được viết từ năm Chí
Nguyên thứ 23 (1286) đến Chí Nguyên thứ 26 (1289) đều ghi rõ tác giả là Nhật
Huyên, tức vua Trần Thánh Tông (năm 1289 là niên đại muộn nhất của các văn thư
mang tên Trần Thánh Tông hiện còn); trong khi đó, ngay từ năm 1278, Trần Thánh
Tông đã nhường ngôi cho con là Thái tử Khâm (tức Trần Nhân Tông) để lên làm
Thái thượng hoàng. Qua đó có thể thấy rằng các vua Trần mặc dù đã truyền ngôi
cho con để lên làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn lấy danh nghĩa là ông vua
đương quyền trong quan hệ bang giao với nhà Nguyên.
Tờ biểu viết năm Chí Nguyên thứ 29 (tức năm 1292. Văn thư này tương ứng
với văn thư thứ 13 trong Toàn tập Trần Nhân Tông) được chép lại trong ANCL vốn
không ghi tác giả. Tuy nhiên, xét về thời gian, lúc này Thánh Tông đã mất, Anh Tông
chưa lên ngôi, do vậy tác giả văn thư này chỉ có thể là Trần Nhân Tông. Đây cũng là
văn thư sớm của Trần Nhân Tông hiện còn. Trong tờ biểu trên, Trần Nhân Tông lấy
danh nghĩa là quốc chủ một nước để gửi thư cho nhà Nguyên, nhưng do việc ông lên
làm vua vốn chưa được nhà Nguyên “thông qua”, nên trong văn thư này, Nhân Tông
biện bạch rằng “Việc này khi sinh thời cha thần đã từng sai sứ tâu lên, thần lúc ấy
chưa tham dự chính sự, vốn không được biết…”. Lại viết: “Đến đời thần, tự tiện thay
cha giữ đất…”, “thần vì tội ngộ tiếm, nên vào tháng Chín năm Chí Nguyên thứ 27
(1290, tức sau khi Thánh Tông mất), đã sai bọn Trung Lượng đại phu Nghiêm Trọng
Duy và Hữu Vũ đại phu Trần Tử Trường mang cống vật vào cửa khuyết dâng tiến,
trên là tỏ lòng thành thờ trời, dưới là để nối chí tiền nhân”. Như vậy, rõ ràng trước
khi Trần Thánh Tông mất (tức trước năm 1290), các văn thư ngoại giao với nhà
Nguyên đều lấy danh nghĩa là Trần Thánh Tông; mặc dù Trần Nhân Tông đã lên ngôi
từ nhiều năm trước (từ 1278), nhưng việc này chỉ là việc trong nội bộ, không hề

thông báo cho nhà Nguyên. Rõ ràng,Đối với nhà Nguyên, chỉ khi một vua
An Nam nào đó chết thì người kế vị mới bắt đầu có danh nghĩa chính thức trong quan
hệ ngoại giao.
Theo tiêu chí này (tiêu chí thứ hai), ta xác định được 4 văn thư còn lại
trong TCTTT (đều viết năm 1293, gửi Lương Tăng), tương ứng với các văn thư 14,
15, 16, 17 trong Toàn tập Trần Nhân Tông; cùng 3 văn thư khác trong ANCL, tương
ứng với các văn thư 13 (là tờ biểu gửi Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt), 21, 22 (niên đại
văn thư 22 đã trình bày ở đoạn trên) đều thuộc tác giả Trần Nhân Tông.
Như vậy, Trần Nhân Tông hiện còn 8 văn thư ngoại giao, tương ứng với 10
trong số 22 văn thư được Lê Mạnh Thát đưa ra trong Toàn tập Trần Nhân Tông (gồm
các văn thư thứ: 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22), 10 văn thư này thuộc về 2
nguồn: 7 văn thư (các văn thư 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20) thuộc TCTTT và 3 văn thư
(13, 21, 22) thuộc ANCL .
Vậy 12 văn thư còn lại trong Toàn tập Trần Nhân Tông thuộc về tác giả nào?
Các văn thư còn lại được viết từ năm 1278 đến năm 1289. Như đã chứng minh ở trên,
trong số này, có 6 văn thư viết từ năm 1286 đến 1289 (tương ứng với các văn thư 7,
8, 9, 10, 11, 12 trong Toàn tập) ghi rõ tên tác giả là Nhật Huyên. Vậy, theo tiêu chí
thứ nhất, chúng đều là của Trần Thánh Tông. Trần Thái Tông mất năm 1277, Trần
Thánh Tông mất năm 1290. Như vậy, theo tiêu chí thứ hai, tất cả 12 văn thư trong
khoảng thời gian từ 1278 đến 1289 đều thuộc tác giả Trần Thánh Tông. Hay nói cách
khác, các văn thư từ 1 đến 12 trong Toàn tập Trần Nhân Tông, chỉ cần dùng riêng
tiêu chí thứ hai cũng đủ để xác định tác giả của chúng là Trần Thánh Tông.
Riêng các văn thư từ 1 đến 6, do không ghi rõ tác giả, do vậy, để chắc chắn, ta
có thể kiểm tra lại. Sáu văn thư này về cơ bản đều nằm trong NS, riêng văn thư 2b
thuộc ANCL. Các văn thư thuộc NS phần lớn đều không toàn vẹn, thường chỉ là các
đoạn trích. Trước khi trích dẫn, NS đều ghi rõ tác giả. Trong trường hợp này, NS ghi
tác giả là Nhật Huyên, tức Trần Thánh Tông. Chẳng hạn văn thư thứ nhất, là thư viết
tháng Mười một nhuận, năm Chí Nguyên thứ 15 (1278), toàn văn như sau: “Nay hay
tin Quốc công hạ cố đến tệ quốc, dân vùng biên cảnh không ai không kinh sợ, chẳng
rõ là sứ giả người nước nào mà lại đến đây? Vậy xin hãy rút quân về để tiến theo

đường cũ”.
Văn thư này không ghi tên tác giả, không niên đại, là một đoạn trích trong NS,
thông qua lời dẫn của NS chúng ta mới biết được niên đại của nó. Về hoàn cảnh ra
đời của văn thư này, theo lời dẫn của NS: Trần Thái Tông mới mất, vua Nguyên sai
Thượng thư bộ Lễ là Sài Thung (NS ghi là Sài Xuân) cùng quan Trung lang bộ Công
là Lí Khắc Trung sang nước ta, mang theo chiếu dụ vua Trần Thánh Tông (Nhật
Huyên) vào chầu. Nhóm Sài Thung theo đường từ Giang Lăng đến Ung Châu để vào
Giao Chỉ. Tháng Mười một nhuận, sứ Nguyên đến trại Vĩnh Bình thuộc châu Ung,
Trần Thánh Tông sai người đưa thư tới. Như vậy, tác giả văn thư này rõ ràng là Trần
Thái Tông.
Về tác giả của văn thư thứ 2b. Đây là tờ biểu do đích thân “Thế tử nước An
Nam, cô thần họ Trần” gửi hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt vào năm Chí
Nguyên thứ 15 (1278). Văn thư này được ghi lại trong phần Biểu chương sách ANCL.
Vào năm này, Trần Nhân Tông đã lên ngôi, song xét nội dung văn thư, đặc biệt là câu
“Năm Chí Nguyên thứ 14 (1277), cha thần chẳng may qua đời”, cho thấy, hai chữ
“cha thần” ở đây chính là chỉ Trần Thái Tông (Thái Tông mất năm 1277). Vậy đây rõ
ràng là văn thư của Trần Thánh Tông. Cũng vì năm trước Thái Tông qua đời nên
Thánh Tông tự xưng mình là “cô thần”
(8)
. Tương tự như vậy, trong 4 bức thư gửi bọn
Lương Tăng năm 1293, Trần Nhân Tông nhân cha mình mới mất cũng tự xưng mình
là “cô”, “cô tử”, khiến bọn Lương Tăng, Trần Phu rất hậm hực mà không thể làm gì
được
(9)
.
Tóm lại, dựa vào hai tiêu chí như chúng tôi đã nêu, có thể dễ dàng xác định
được trong số 22 văn thư được Lê Mạnh Thát đưa vào Toàn tập Trần Nhân Tông chỉ
có 10 văn thư của Trần Nhân Tông, 12 văn thư đầu tiên thuộc Trần Thánh Tông. Vậy
cần sớm loại 12 văn thư này ra khỏi bộ Toàn tập để tránh sự nghiên cứu nhầm lẫn


×