Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐÔNG ÂU LÂM VÀO KHỦNG HOẢNG RỒI TAN RÃ_3 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.71 KB, 6 trang )

CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA ĐÔNG ÂU LÂM VÀO
KHỦNG HOẢNG RỒI TAN RÃ

2.5. Tiệp Khắc

Ở Tiệp Khắc, ngày 17/11/1989, từ một cuộc biểu tình của sinh viên để
tưởng niệm những nạn nhân bị bọn phát xít Đức giết hại 50 năm trước
đó, đã biến thành cuộc đấu tranh chống chính phủ hiện hành, lôi cuốn
đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Những vụ đụng độ đã diễn ra
giữa lực lượng cảnh sát và đoàn người biểu tình. Các cuộc biểu tình tiếp
tục diễn ra với yêu sách đòi lật đổ chế độ, đã dẫn tới việc thành lập
“Diễn đàn nhân dân” (“nhóm 77” và nhà văn Haven đóng vai trò chủ
chốt). Sau 10 ngày biểu tình, bãi công, đến 12 giờ trưa ngày 27/11/1989,
cuộc tổng đình công chính trị đã diễn ra với sự tham gia của hàng triệu
người, đánh dấu sự thay đổi của tình hình sau “10 ngày rung chuyển
nước cộng hòa”.

Ngày 8/12/1989, Tổng thống Huxắc đã cử Mian Calla lập chính phủ
mới. Tiếp đó, Quốc hội Tiệp Khắc tuyên bố xóa bỏ điều 4 của Hiến
pháp, xác định vai trò của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đối với đất nước và
điều 6 của Hiến pháp về vai trò chỉ đạo của Đảng Cộng sản trong Mặt
trận.
Tháng 12/1989, Huxắc từ chức Tổng thống. Cuộc tổng tuyển cử tự do
cuối năm 1989 đã bầu Haven làm Tổng thống và Đúpxếch (lãnh tụ trong
cuộc nổi dậy “mùa xuân 1968”) làm Chủ tịch Quốc hội.

Tháng 1/1990, Tiệp Khắc đổi tên nước thành Cộng hòa Tiệp Khắc và
đến tháng 4/1990 là Cộng hòa Liên bang Séc và Xlôvakia (Từ năm
1992, Séc và Xlôvakia đã tách ra thành những nước độc lập).


2.6. Bungari

Ở Bungari, cuộc khủng hoảng nổ ra tương đối chậm nhưng diễn ra với
cường độ mạnh. Ngày 10/11/1989, do hậu quả của cuộc khủng hoảng
chính trị kéo dài, đã đưa tới sự từ chức của Tổng Bí thư Tôđo Gípcốp
(nắm chính quyền từ năm 1954), P. Muđumrốp thay thế đã xóa bỏ điều 1
của Hiến pháp quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Ngày 3/4/1990, Đảng Cộng sản đổi tên thành Đảng Xã hội chủ nghĩa
Bungari. Trong cuộc bầu cử Quốc hội vào tháng 5/1990, phe đối lập
giành được đa số phiếu bầu và D. Giêlép được bầu làm Tổng thống.

2.7. Anbani

Cuộc khủng khoảng ở Anbani nổ ra cũng tương đối muộn. Năm 1991,
trong khi hầu hết các Đảng Cộng sản và công nhân Đông Âu đã lùi bước
trước các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội thì ở Anbani, những người
cộng sản vẫn giữ các vị trí chủ yếu trong chính phủ, tuy có cải cách một
bước hệ thống chính trị.

Đầu năm 1991, ở Anbani đã tiến hành cuộc bầu cử Quốc hội mới, cuộc
bầu cử đầu tiên có nhiều đảng và tổ chức chính trị tham gia. Ngày
15/4/1991, Quốc hội mới (khoa 18) chính thức hoạt động. Trong kì họp
đầu tiên, Quốc hội tiến hành bầu cử Tổng thống và đã thông qua dự thảo
Hiến pháp mới. Dự thảo Hiến pháp mới quy định Tổng thống là người
đứng đầu Nhà nước Anbani, đổi tên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Anbani thành Cộng hòa Anbani theo quy chế dân chủ lập hiến. Quốc hội
đã bầu R. Alia – Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Anbani làm Tổng
thống. Sau đó R. Alia đã xin rút khỏi các chức vụ trong Đảng cho phù
hợp với Hiến pháp mới. R. Alia đã cử F. Nanô làm Thủ tướng Chính

phủ lâm thời (người của Đảng Lao động).

Nhưng cương lĩnh hành động của Chính phủ vừa được Quốc hội thông
qua thì ngày 16/5/1991, đã diễn ra cuộc tổng bãi công chính trị của công
nhân toàn quốc do Liên đoàn các công đoàn độc lập tiến hành. Cuộc bãi
công kéo dài hai tuần, sản xuất bị đình trệ, nền kinh tế càng sa sút. Dòng
người vượt biên trái phép tăng nhanh.

Ngày 3/6/1991, chính phủ và các phe đối lập trong Quốc hội đã đạt được
thỏa thuận về thành lập một chính phủ lâm thời gồm đại diện tất cả các
lực lượng chính trị. Chính phủ F. Nanô từ chức (3/6) và Chính phủ liên
hiệp lâm thời thành lập (11/6/1991) do Y. Buphi làm Thủ tướng.
Ngày 12/6/1991, Đại hội lần thứ X của Đảng Lao Động Anbani đã đổi
tên Đảng thành Đảng Xã hội chủ nghĩa Anbani, tuyên bố từ bỏ hình thức
của chủ nghĩa xã hội trước đây vì nó “không thích hợp”.

Tình hình Anbani tiếp tục xấu đi. Ngày 3/12/1991, Đảng Dân chủ - đảng
đối lập lớn nhất trong Quốc hội đã quyết định rút các bộ trưởng của họ
trong Chính phủ liên hiệp của Y. Buphi. Ngày 5/12, Y. Buphi đã đệ đơn
lên Tổng thống Alia xin từ chức do việc các bộ trưởng của Đảng Dân
chủ tự do ra đi. Trong khi đó ở Tirana, 15.000 người đã biểu tình phản
đối chính phủ vì không có khả năng cải thiện đời sống cho nhân dân.
Sau đó, Tổng thống Alia đã bổ nhiệm nhà trí thức không đảng phái – V.
Amêti làm Thủ tướng.

Cuộc bầu cử Quốc hội Anbani diễn ra ngày 22/3/1992 đã dẫn tới thắng
lợi của Đảng Dân chủ - đảng đối lập trong giai đoạn trước. Đảng Xã hội
chủ nghĩa (Đảng Lao động) trở thành thiểu số đối lập trong Quốc hội.
Với sự lên cầm quyền của Đảng Dân chủ, đánh dấu sự thay đổi chính trị
ở Anbani.


2.8. Nam Tư

Tại Nam Tư, sau khi Titô chết, quyền lãnh đạo đất nước thuộc về Đoàn
Chủ tịch quản lí tập thể, gồm 8 đại biểu của 8 nước cộng hòa và tự trị.
Cuộc khủng hoảng kinh tế đã diễn ra khá sớm và sự bất đồng quan điểm
trong ban lãnh đạo (sự đối lập giữa quan điểm của Xlôvênia và của
Xécbi), đặc biệt từ khi X. Milôxêvích lên nắm chính quyền ở Xécbi,
thường xuyên diễn ra.
Trước những xung đột ấy, Ban lãnh đạo Liên đoàn Cộng sản Nam Tư đã
không có biện pháp hữu hiệu. Chính quyền Liên bang Nam Tư đã không
có đủ uy tín để dàn xếp và bất chấp mọi cố gắng của Thủ tướng Anđơ
Máccôvích (tháng 3/1989 đến tháng Chạp năm 1991), việc làm lành
mạnh nền kinh tế không có hiệu quả, lạm phát tăng vụt từ 125% năm
1989 lên 700% năm 1990. Đời sống nhân dân khó khăn.

Về chính trị, năm 1989, chính quyền Xécbi tuyên bố xóa bỏ quyền tự trị
của người Anbani ở Vôivêđin và Côxôvô, gây nên tình trạng bất ổn định
ở những vùng này. Chính sách đàn áp công khai các dân tộc thiểu số và
yêu sách về một nước Đại Xécbi đã dẫn tới sự li khai của hai nước Cộng
hòa trong Liên bang là Crôatia và Xlôvênia (25/6/1991). Nền độc lập
của họ được Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng đồng châu Âu công
nhận.

Tiếp đó, các nước cộng hòa còn lại trong liên bang bắt đầu tuyên bố li
khai khỏi Liên bang Nam Tư. Bước ngoặt trong quá trình tan rã của Liên
bang Nam Tư là sự tuyên bố độc lập của Bôxnia – Hécxêgôvinia
(15/10/1991).

Như vậy, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lần lượt sụp đổ. Sự tồn tại

của Hội đồng Tương trợ Kinh tế và Tổ chức Hiệp ước Vácxava không
thích hợp nữa đã buộc phải giải tán. Tháng 6/1991, Hội đồng Tương trợ
Kinh tế tuyên bố chấm dứt tồn tại. Tháng 7/1991, khối Vácxava giải thể.
Mặc dù có những hạn chế và thiếu sót, hai tổ chức này đã có nhiều đóng
góp tích cực trong việc củng cố tình hữu nghị, hợp tác, bảo vệ và giúp
đỡ lẫn nhau giữa các nước thành viên.

×