Tỉnh quốc hồn ca và ngữ khí phê phán
của Phan Châu Trinh
Nói đến Phan Châu Trinh-nhà văn cần tính đến trước tiên vai trò một người viết
văn xuôi nghị luận tiên phong đầu thế kỷ trước, trong tiến trình chuyển đổi tất yếu
từ văn xuôi nghị luận chữ Hán sang văn xuôi nghị luận tiếng Việt. Nhưng các loại
hình thơ ca ông đóng góp cho văn học 30 năm đầu thế kỷ cũng không kém quan
trọng, trong đó, ngoài truyện thơ trường thiên Giai nhân kỳ ngộ diễn ca chuyển
thể/mô phỏng tiểu thuyết Kajin no Kigū (Kỳ ngộ của giai nhân) Nhật→Hán trong
một thời gian khá dài ngay sau khi đến Pháp1, một tác phẩm theo chúng tôi cần
phải đặt lên trước cả Tây Hồ thi tập và Xăngtê thi tập lâu nay chúng ta đều quen
thuộc, ấy là Tỉnh quốc hồn ca.
Tỉnh quốc hồn ca gồm hai phần: Phần I gồm 467 câu thơ và Phần II gồm 500
câu thơ, đều bằng thể song thất lục bát. Hình thức thể loại thống nhất, tiếng nói
nghệ thuật giữa hai phần cũng thống nhất - là tiếng nói phê phán, cảnh tỉnh. Duy
đối tượng phê phán thì không phải là một. Một bên hướng vào nội bộ dân tộc, một
bên đối thoại với Chính quyền chính quốc và Chính quyền thực dân. Thời điểm
sáng tác của mỗi phần cũng khác nhau. Theo Huỳnh Lý, Tỉnh quốc hồn ca I được
viết trong nửa đầu năm 19072. Nguyễn Văn Dương căn cứ vào di cảo nằm lẫn
trong bản thảo Giai nhân kỳ ngộ diễn ca hiện còn, suy đoán Tỉnh quốc hồn ca I có
thể được “sáng tác hoặc sao lại” vào năm 1912 hay chậm lắm là đầu 19133. Chưa
có một cứ liệu nào để khẳng định dứt khoát, nhưng đối chiếu phong cách tác phẩm
với tình hình thực tế, những năm đầu thế kỷ XX khởi sự công cuộc duy tân, cả
nước rộ lên một không khí quyết tâm đổi mới sục sôi chưa từng thấy. Phong trào
bùng lan nhanh chóng tạo một niềm phấn khích cho người cầm bút khiến lời lẽ
cũng trào sôi nhiệt huyết, khác những chặng đường thoái trào về sau. Tỉnh quốc
hồn ca I mang rõ dư vị của thời kỳ tràn ngập niềm tin về việc tự lực tự cường nói
trên. Chúng tôi nghiêng về giả thuyết coi đây là tác phẩm đã được thai nghén trong
hai năm 1906-1907 và hình thành văn bản đầu tiên vào năm 1907, rất có thể đã
được Trường Đông Kinh nghĩa thục ấn hành mà nay chưa tìm thấy bản lưu. Về
sau, khi sang Pháp, Phan Châu Trinh chép lại, tu chỉnh lại, và thêm một vài phần
cuối nhưng chưa xong. Còn Tỉnh quốc hồn ca II thì không có vấn đề gì nghi vấn
về thời điểm, được sáng tác khoảng cuối 1922, khi Phan đã chuyển xuống
Marseille và sau khi đã xảy ra các sự kiện Khải Định sang Pháp, nước Pháp mở
Triển lãm thuộc địa ở Marseille.
Tỉnh quốc hồn ca I gồm 12 đoạn, so sánh 12 phương diện về dân khí dân trí
các nước văn minh trên thế giới và dân tình nước ta: trong khi người nước ngoài
có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước, thì người nước mình tham
sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày; trong khi người ta dẫu sang hay
hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề thì người mình chỉ biết ngồi không
ăn bám; trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí
óc, thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con; trong khi họ có tinh
thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa
đảo nhau vì chữ lợi; trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh
doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có, thì ta quen thói bất
nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng;
trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết, thì ta lo làm
ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết trâu; trong khi họ ra sức
cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo, thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi
đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp; trong khi họ giỏi tổ chức công
việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý, thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ
bê công việc; trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân, thì ta chỉ
mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật; trong khi họ làm
việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là “đầy tớ” của dân, được dân tín nhiệm, thì
ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức
dân chúng. Hai đoạn sau cùng nói về ý thức tranh đua cải tiến các mặt hàng mới
và tốt đem đi bán nước ngoài, tăng thêm tư bản cho nước nhà, và việc xây dựng
ngành y học hiện đại đủ các chuyên khoa ở các nước tiên tiến, song chưa đưa ra
hình ảnh đối chứng về thói tệ của người nước mình, có lẽ do viết chưa xong4.
Tỉnh quốc hồn ca II gồm 5 đoạn: mở đầu, nhắc lại quá khứ oai hùng của dân
tộc, đồng thời phê phán nhà Nguyễn ngu dốt, nhắm mắt bắt chước luật pháp, khoa
cử của nhà Thanh, đẻ ra một bộ máy cầm quyền hủ bại dẫn đến nước mất về tay
người Pháp; đoạn 2 nhấn mạnh sự hy sinh xương máu và tiền của của người Việt
giúp nước Pháp trong Thế chiến I nhưng lại bị nước Pháp đối đãi tệ bạc, lừa bịp,
vắt chanh bỏ vỏ, tăng sưu thuế, giám sát vơ vét cả khi người Việt đi lính trở về;
đoạn 3, công kích thực dân Pháp đầu độc dân Việt bằng thuốc phiện và rượu, đánh
nhiều loại thuế vô lý, bắt bớ giam cầm người yêu nước, và cho lưu hành những thứ
báo chí vô bổ trong khi cấm đoán sách báo tiến bộ; đoạn 4, ngay ở chính quốc nhà
nước Pháp cũng lập những tổ chức đàn áp Việt kiều, bày trò triển lãm, đưa các
đoàn đại biểu sang Pháp “đóng tuồng”, làm nhục quốc thể và hoang phí tiền của
dân ta; đoạn cuối cảnh báo một hạng trí thức người việt “nương hơi dựa bóng” và
kêu gọi một sự hợp tác Pháp-Việt thực lòng cũng như một chính sách tự trị cho
việt Nam5.
Đầu thế kỷ XX, ảnh hưởng bởi sách báo cấp tiến lọt vào từ Trung Hoa, nhiều
nhà nho yêu nước cùng nhau lên tiếng hô hào “tân dân” - thay đổi dân nước để tự
lực tự cường. Bằng nhiệt huyết của con tim, người ta thống thiết van vái, khẩn cầu,
lay gọi cả một dân tộc đang “ngủ mê”, cốt sao cho “hồn nước” mau mau tỉnh dậy.
Bước đầu, người ta đã chê trách thái độ thờ ơ của vua quan trong trách nhiệm với
dân với nước, đã cười cợt thói “hủ nho” khoác lác của kẻ sĩ, đã bêu riếu những thú
vui ả đào, tổ tôm, bàn đèn phao phí tiền tài sức lực vào những việc không đâu6.
Nhưng có dễ trước Phan Châu Trinh, chưa một ai vận dụng lý trí sắc bén để luận
giải thật rành mạch những mặt yếu thâm căn cố đế trong hiện trạng văn hóa,
xã hội và tâm lý dân tộc, trình bày chúng thành hệ thống, và gọi hẳn ra tên của
từng loại “bệnh”, chỉ cho mọi người biết đấy là những căn bệnh tiên thiên của
người Việt Nam. Chỗ quan trọng hơn, cũng chưa một ai dám lần đến tận cội
nguồn, xác định những căn bệnh ấy đều là hậu quả của tệ nạn trầm kha lâu đời của
xã hội phong kiến. Sự rập khuôn máy móc “theo Tàu” về luật pháp chế độ và
“nhai lại” về học hành thi cử là hai cái mầm tội nợ dẫn đến một cơ chế chuyên
quyền khốc hại, một đầu óc trống tuếch không chủ kiến và một dân chúng ngày
càng ươn hèn: “Hiềm vì nỗi học hành sai lối / Thóc vứt đi rơm bổi quơ về / Sai
lầm từ thủa nhà Lê / Trải qua nhà Nguyễn sa bê dần dần”. Đây cũng là phát hiện
đột phá của họ Phan, có ý nghĩa chống lại một rãnh mòn đã khía quá sâu vào nếp
nghĩ người Việt - thói quen nô lệ những tín điều kinh viện của nước ngoài trong tư
tưởng mà không phải ngày nay đã hết ý nghĩa thời sự. Từ chỗ nhận diện được cội
rễ phong kiến của những bệnh trạng lưu cữu trong dân chúng, Phan còn nhìn thấy
chính chúng là lực cản lớn nhất cho công cuộc hội nhập của đất nước vào cuộc
cạnh tranh giữa thế giới “liệt cường”. Phan Châu Trinh đã chứng tỏ ý thức nhạy
bén hướng tới hiện đại trong cách đặt vấn đề dân tộc của ông. Với ông, cả dân tộc
phải quyết tâm dứt bỏ những lối sống lạc hậu tích tụ từ lâu đời, chi phối mọi nếp
nghĩ, bởi vì con đường đi tới trước sau không thể nào khác là một xã hội dân chủ,
ở đó các đức tính cầu học, tiến thủ, mạo hiểm, đoàn kết, tự tin, tinh thông thực
nghiệp là tiêu chuẩn tối cần thiết để mọi người chung sức xây dựng nền kinh tế
thị trường vững mạnh, đưa đất nước sớm rời bỏ lề lối sinh hoạt tự cấp tự túc, bế
quan tỏa cảng, bước ra giữa bốn biển năm châu. Những lời chỉ trích của Phan đối
với thực dân Pháp tại Đông Dương và cả Chính phủ Pháp ở chính quốc cũng gắn
liền mật thiết với lập trường dân tộc năng động nói trên. Phan không tán thành chủ
trương bạo động nhưng ông không thể chấp nhận những kẻ tự nhận là “thầy” đi
khai hóa cho người lại thi hành một chính sách ngu dân, cản trở việc tự do học
hành, mở mang trí tuệ, bóc lột và đàn áp dân chúng nhược tiểu vô tội vạ, khiến
“trò” bị hãm vào chỗ chết. Ông công kích nhà cầm quyền Pháp đầu độc thuốc
phiện,
rượu, bày ra đủ thứ thuế, và ngăn cản
thanh niên người Việt xuất dương, làm
khó dễ Việt kiều nơi hải ngoại cũng vì lẽ ấy. Ông càng không muốn đem vài ba
“biểu tượng” tủn mủn của một nước Việt Nam yếu hèn thời quá khứ phô ra với thế
giới, như việc tổ chức “đấu xảo” tốn kém ở Marseille, hay việc đưa Khải Định
sang Pháp, “Hiệu, hề, đào, kép đủ vai”, chỉ “thêm sỉ nhục dân ta” mà thôi. Khoan
nói đến việc Pháp xâm chiếm nước ta, những việc làm của người Pháp trước mắt,
đặt vào hệ quy chiếu của Phan rõ ràng là sự cản trở xu thế tiến hóa của dân tộc
Việt trong bối cảnh “toàn cầu hóa” lần thứ nhất của cả nhân loại.
Đứng về phương thức tư duy, quả đã có một biến đổi đột xuất của ngòi bút Phan
Châu Trinh trong Tỉnh quốc hồn ca, nhất là Tỉnh quốc hồn ca I, so với các sáng tác
thi ca khác. Phan đã dùng một liệu pháp dễ gây “sốc” và có vẻ như hơi cực đoan:
vẽ lên bức tranh phản diện đen tối về con người Việt Nam. Chuyển hóa vào nghệ
thuật, thủ pháp “nói ngược” của ông thông qua ngôn từ tự sự của thể thơ song thất
lục bát trộn lẫn với giọng điệu hài hước-trữ tình có khả năng kích thích rất mạnh
đối với người đọc rộng rãi, làm dấy lên những cảm hứng tủi hổ, chua xót khiến
ai nấy choáng váng choàng tỉnh, không còn an tâm được với tình cảnh của chính
mình. Sau Phan không lâu, nhà văn lớn Trung Hoa Lỗ Tấn, không hẹn mà gặp,
cũng đã vận dụng bút pháp giễu cợt thâm thúy, mở đầu một dòng văn chuyên nêu
nghịch lý về “cái xấu xí của người Trung Hoa”, “gợi lại với một sự mỉa mai thống
thiết tính cách thụ động và thói ngu muội của một dân tộc quá khốn khổ để góp
Vua Khải Định tại Paris, 1922
vào quyền tự do tự mình của dân tộc đó”(Michel Loi)7. Đặc sắc riêng của ngòi bút
họ Phan trong Tỉnh quốc hồn ca còn là ở chỗ, ông biết dùng hình tượng đối sánh
như một lợi khí hỗ trợ đắc lực cho những lời phê phán. Ông đã đặt nước Việt Nam
“ngu hèn” đầu thế kỷ trước vào giữa bức tranh rộng lớn sôi động của “người Âu
người Mỹ” đang “tiến bước văn minh” mà chê khen, bình luận. Đi sâu vào, ông
còn có những đối sánh cụ thể các thói hư tật xấu của từng hạng người trong nước,
chỉ ra những kiểu dạng khác nhau trong cái đồng dạng. Có nghĩa là từ trên nền
cảnh của cuộc sống mới đang diễn ra đồng hành ở nhiều xứ sở, ông quay về với
với nền cảnh nước mình, thu hẹp phạm vi quan sát lại ở từng điểm nhìn rất nhỏ.
Trong cùng một quy ước thời gian, ông cung cấp một không gian nghệ thuật mới
mẻ, chuyển động nhanh chóng từ toàn cầu đến nội địa, một cuốn phim thời sự có
cả viễn cảnh và cận cảnh.
Về nghệ thuật đối sánh, Phan Châu Trinh có đặc tài tạo dựng những hình ảnh
hay chuỗi hình ảnh gây hiệu quả tâm lý mạnh mẽ. Nói đến cái hay cái đẹp của
người ông thường có cái nhìn bao quát, biết dừng ở những đặc điểm chung trội
nhất mà không quá đi vào cụ thể:
Người ta nghĩ sâu dài cặn kẽ,
Đũa bó to ai bẻ cho xuôi?
Chia ra từng chiếc từng đôi,
Phải ai tai nấy thương ôi còn gì.
Vậy nên từ đồng nhi, phụ nữ,
Chẳng ai không phải giữ lấy nòi.
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Người trong một nước thì coi như nhà.
Trái lại, nói về cái kém cỏi của mình, ông có nhiều cách tiếp cận và hình dung
thật đa dạng. Có lúc ông cũng gọi một khuyết tật nào đó như là “bẩm tính toàn
dân” mặc dầu trên thực tế ông đang nói về một thứ bệnh gia truyền chỉ “lây
nhiễm” ở một hạng người nhất định (hạng có máu me làm quan, thời nào cũng
vậy, cha chuốc cho con, con lan đến cháu, càng trải nghiệm càng thấy khó chối
cãi):
Người mình không đức, không tài,
Ham quan, ham tước, chen vai cúi đầu
Cửa quyền môn mai chầu tối chực,
Đua chen nhau rạo rực như sôi.
Cửa tiền cửa hậu lăn vùi,
Cùng ra đến lỗ giậu chui cũng lòn.
Mình được rồi lo con lo cháu,
Lạ lùng thay cái máu tham quan.
Có lúc nói về một căn bệnh tương đối phổ biến, như mất đoàn kết, chia rẽ, phá
phách hãm hại lẫn nhau, ông lại phanh phui rất chi li, chỉ ra mánh khóe lừa đảo,
khuynh loát đủ kiểu ở nhiều hạng người, tăng cấp theo quan hệ, phẩm trật, và từ
trong họ tộc ra ngoài làng nước Ông dồn hết mọi bực bội chua chát vào lời thơ,
thỉnh thoảng lại đay nghiến bằng những nhịp ngắt chẻ nhỏ câu thơ ra mấy đoạn:
Hỏi thử xem trong phường hàng họ,
Máu đồng tông lớn nhỏ biết bao!
Doi vườn / cạnh đất / góc ao,
Nhồi xương / xáo thịt / biết bao nhiêu người.
Lại coi thử ra ngoài tổng xã,
Phá cho nhau / phải vạ / phải tai.
Chú trùm / bác lý / thầy cai,
Lừa eo / thắt cổ / chẳng ai mà chừa.
Kể chi hết trăm lừa / ngàn đảo,
Còn những người áo mão bề trên.
Ăn càn / nói hiếp / đã quen,
Kiện thưa / thuế khóa / càng lèn càng đau.
Ngược với cách mở rộng và nâng dần đối tượng, đôi khi lại là kiểu điểm mặt
từ trên xuống, cũng theo thứ bậc và theo từng nhóm xã hội, có tác dụng đối chứng
hành vi của chúng. Thông qua một tiêu chí phân loại nhất quán, một cái nhìn tinh
nhạy, Phan Châu Trinh nắm bắt rất trúng chỗ giống và khác giữa quan trên / quan
dưới và dân trên (tức kẻ sĩ chưa được nhà nước chiếu cố xếp ngạch/biên chế, một
hạng người rất khó đưa vào khung phân loại) / dân dưới. Với khả năng dùng từ láy
thiên bẩm, ông đặt các từ đôi độc đáo của mình thật đắc địa và làm cho lời trần
thuật trở thành những câu chuyện thực tế nóng hổi, đang hoạt động quay cuồng
trước mắt:
Người khanh tướng kẻ tấn thân,
Trăm nghề,hỏi có trong thân nghề nào?
Chẳng qua là quơ quào ba chữ,
May ra rồi ăn xớ của dân.
Khoe khoang rộng áo dài quần,
Tráp giày bệ vệ, rần rần ngựa xe.
Còn bậc dưới ngo ngoe vô kể,
Học cúi luồn kiếm thế vơ quào.
Thầy tư lại, bác kỳ hào,
Gặm xương, mút đũa lao nhao như ruồi.
Lại có kẻ lôi thôi bậc giữa,
Trên lỡ quan, dưới nữa lỡ dân.
Ấy là học sĩ văn nhân,
Ăn sung mặc sướng mà thân không làm.
Người trên đã lam nham như thế,
Những dân ngu sá kể làm chi.
Rượu chè cờ bạc li bì,
Sinh ra trộm cướp, nghề gì mà mong.
Tuy nhiên, nếu ở Tỉnh quốc hồn ca I Phan Châu Trinh có thể dùng lời lẽ bốp
chát thoải mái thì đến Tỉnh quốc hồn ca II, đối tượng phê phán thay đổi, phải đối
thoại trực tiếp với kẻ nắm quyền lực là nhà cầm quyền Pháp, nghệ thuật phê phán
của ông cũng thay đổi. Không thể chỉ mặt vạch tên đối tượng bằng cách nói sỗ
sàng, ngôn từ thông tục vốn là ưu thế của giọng thơ châm chích của Phan được
cân nhắc giảm thiểu, những câu chữ góc cạnh bị tước bớt, lời thơ có vẻ chừng
mực, chỉn chu hơn. Thế nhưng nhìn cho kỹ, thơ Phan vẫn giữ được ngữ khí của
riêng ông. Trước hết, ông dùng thủ thuật đề cao đối tượng lên, gọi họ bằng “thầy”
và tự nhận dân Việt là “tớ”, tự xác định tâm thế của người Việt là “nhớ ơn quên
thù”:
Thầy khôn dù sức đủ mười,
Tớ ngu thôi cũng chịu người chuyền tay.
Biết bao nỗi đắng cay chua xót,
Ngày trông thầy thấm thót đòi cơn.
Biết bao chuốc dữ cưu hờn,
Lòng ta chỉ một nhớ ơn quên thù.
Tiếp đấy, ông kể lại mọi nỗi nhục nhằn đắng cay mà người Việt đã tự nguyện
gánh chịu, trong suốt bao năm trời dồn sức người sức của cho nước Pháp tham gia
Chiến tranh thế giới thứ nhất, cốt “giữ vẹn lòng thành” của kẻ “chịu ơn”. Ông tính
đếm đằng thằng và dứt khoát, không bỏ sót một sự hy sinh mất mát nào của bất kỳ
một hạng người nào. Này là tình cảnh những người đi “tòng chinh” bên chính
quốc: “Nào là kẻ đầu binh ứng mộ / Vòng đạn tên ruột đổ thây rơi / Sa trường một
giấc như chơi / Giá chôn, tuyết dập, nắng phơi, mưa vùi”; “Nào là kẻ vận dời binh
khí / Cuộc tử sinh một tí rủi may / Bất kỳ đạn lạc tên bay / Còn ai biết đến chút
thây lạc loài” Này nữa là tình cảnh của người ở lại quê nhà: “Biết bao phú hộ
danh gia / Tiền nghìn bạc vạn trao ra không màng / Thương những kẻ nghèo nàn
thiếu thốn / Thuế cùng sưu khốn đốn quanh niên / Vẳng nghe lệnh xuống quyên
tiền / Ít nhiều tom góp nộp tiền cho quan / Vợ con chịu cơ hàn lạc phách / Anh em
đều đói rách, khó khăn / Vì ai nhịn mặc nhịn ăn / Vì ai nên nỗi đành quăng của
tiền”. Nêu lên một lúc mấy câu hỏi “vì ai”, Phan Châu Trinh chỉ cốt mượn lời giải
đáp mà láy lại chuyện “ơn nghĩa”, đẩy nét đẹp tính cách khẳng khái hào hiệp của
người Việt lên đỉnh điểm:
Của tiền mất hàng thiên hàng vạn,
Máu mủ trôi lai láng biết bao!
Cũng vì một dạ ước ao,
Giúp thầy cho trọn trước sau cùng thầy!
Và tiếp sau các biện pháp tu từ đầy ấn tượng, nhà thơ liền trình ra những đối
chứng tệ hại về phía “ông thầy”. Không cần gay gắt lên án, cứ để sự việc tuần tự
nói lên, điểm thêm một đôi lời than thở như tiếng nói “giãi bày” của người trong
cuộc, cũng đã đủ là một “đòn chí mạng”: “Thỏ khôn vừa đã đến tay / Chó săn
sống cũng mua ngày mà thôi / Lời vắn vó như lời nói phỉnh / Buộc ta còn tín kính
làm sao/ Phần thì thêm thuế thêm sưu / Trăm điều cũng cứ đè đầu như xưa / Cách
giàm buộc như ngừa đạo tặc / Thấy những điều nghiêm khắc mà ghê / Thử xem
trong lúc lính về / Hành hà đày đọa chán chê trăm phần / Lục cho đến manh quần
tấm áo / Xét cho cùng mảnh báo phong thư / Bạc tiền gạn đến của tư / chặn đồ
xiết đạc cầm như quân tù / Câu nhân đạo và câu chánh lý / Đổi thay nhau một tí
trơ tay / Thân này chẳng chết là may / Sống về để chịu đọa đày vậy ư?”. Cuối
đoạn thơ tường thuật, Phan đưa tiếp mấy câu nhận xét, cũng chẳng đao to búa lớn
gì song ý nghĩa sâu xa thì có giá trị một dự báo sấm sét:
Người ai cũng xương da máu thịt,
Sự bất công đau ít tủi nhiều.
Có nhân mới có thương yêu,
Bao nhiêu cay nghiệt bấy nhiêu oán thù.
Không chỉ thế. Đối với giới chính trị thực dân ở Đông Dương, Phan Châu
Trinh không kiêng dè như giới cầm quyền chính quốc. Ông còn khéo lợi dụng lá
bài đề cao chính quốc để lật mặt đám quan Tây thuộc địa: “Nghĩa đồng bào, tự do
bác ái / Lòng Lang Sa rộng rãi biết bao / Các anh thuộc địa lòng nào / Làm hùm
làm hổ khác nhau lạ lùng”. Và ông lần lượt chỉ trích họ một cách thẳng thừng, về
rất nhiều mặt họ đã hành xử trong thực tế. Việc tính sổ đủ loại thuế khóa kỳ cục
mà người Pháp tròng lên cổ dân Nam, thơ ca của nhiều sĩ phu Duy tân đều đã có
đề cập, không kém phần tâm huyết, duy ở đây họ Phan vẫn góp được một tiếng
nói “nặng ký”, ở cái cách vặn hỏi, lật đi lật lại vấn đề thật xác thiết, ở sự cố gắng
giấu kín trong nó bao nhiêu phản bác tỉnh táo, đến nỗi cuối cùng không giấu được
vẫn để lộ ra một tiếng chửi, như cái cá tính cứng cỏi của tác giả:
Thuế điền thổ lại càng khốc hại,
Mẫu xấp hai, thuế lại gấp mười.
Nắng mưa, may rủi nhờ trời,
Ai toan đắp trổ mở ngòi cho đâu.
Điền ba hạng, dồn vào bậc nhất,
Thổ sáu, nay bỏ vứt làm ba,
Cốt cho số thuế tăng gia,
Đói no, chết sống mặc cha thằng bần.
Hay như việc làm căn cước, Phan không hiểu nổi vì sao lại phải nhục mạ con
người bằng cách đã dán ảnh còn phải lăn tay; ấy thế mà có căn cước rồi quyền tự
do làm ăn vẫn bị trói buộc thậm phi lý - chỉ được làm công cho người Pháp chứ
nào có được làm việc cho tàu Anh tàu Mỹ đâu:
Giấy hình là giấy thế nào,
Có hình còn buộc in vào hai tay?
Khen ai khéo đặt bày nên chuyện,
Mua giấy rồi tùy tiện làm ăn.
Vậy sao tàu Mỹ tàu Anh,
Trong khi thuê mướn đón ngăn đủ đàng?
Thảng hoặc, Tỉnh quốc hồn ca II cũng có chất giọng khôi hài. Nói về sự say
ngủ của người trong nước, lời giễu nhại của Phan Châu Trinh không khác gì trong
Tỉnh quốc hồn ca I:
Thói tham lam nhuộm sâu đến tủy,
Máu ham quan như đĩ ham tiền.
Nói về tệ theo đuôi, núp bóng văn hóa Pháp để lòe bịp dân Nam của một phân
số trí thức thuở ấy, Phan chỉ đúng cái cố tật học người chẳng đến đầu đến đũa và
học không “thủng nghĩa”, hài hước sao lại dám coi trời bằng vung:
Thử xem các bậc học hành
Nương hơi, dựa bóng, tập tành đã quen.
Người nói phải, đua chen rằng phải,
Người nói không, dám “cãi” rằng không.
Học hành còn lắm lông bông,
Đã toan xách gậy xưng ông đem đàng.
Người Á chẳng am tường sử Á,
Học Âu chưa khám phá tình Âu.
Vậy mà tự đắc tự cao,
Tưởng mình như thể ngôi sao giữa trời
nó cũng là một duộc với cái “hủ” dựa dẫm “thiên triều” có đến mấy trăm năm mà
vẫn hời hợt không lường được ở họ chữ “hiểm”:
Người dùng độc, thuốc người ta,
Mình đem về để thuốc bà thuốc con.
Lời giễu nhại càng đột xuất hơn trước một vài đối tượng mà Phan không cần
giấu giếm lòng khinh bỉ. Tài chơi chữ của ông làm cho câu thơ linh hoạt hẳn:
Còn nói đến các vai đợi biểu,
Khéo chọn thay một kiểu y quan.
Khăn đen / áo gấm / nút vàng,
Khoanh tay bắt đứng sắp hàng thiệt xinh.
Thảy trăm việc làm thinh không biết,
Hỏi: “Băng ngàn chí quyết đi đâu?”
“Paris ao ước bấy lâu,
Dịp này khỏi tốn tiền tàu đi chơi”.
Làm như chuyện trò cười, lớp giễu,
Đợi biểu này / đại biểu cho ai?
Điều lý thú là mặc dầu đã đánh những đòn thâm thúy, sâu cay, để cho đối
tượng không lâm vào tình thế bẽ mặt, kết thúc Tỉnh quốc hồn ca II Phan vẫn gút
lại bằng những lời lịch thiệp tán dương nước “Đại Pháp” tự do dân chủ, nhấn
mạnh chủ đề “ơn nghĩa” thêm một lần thứ hai: “Người Đại Pháp xưa nay nức
tiếng / Tổ dân quyền lập hiến là ai? / Thức lâu mới biết đêm dài / Ở lâu mới biết là
người có nhân”. Người ta muốn hỏi: Có nụ cười tủm tỉm nào ẩn ngầm bên trong?
Chúng ta tin ở tấm lòng thành thật của tác giả vốn đã từng sống lâu trên đất Pháp,
hiểu rất rõ dân tình nước Pháp. Nhưng dám chắc đám chính khách thực dân, nếu
được đọc Phan, sẽ không vì những lời chân thành này mà bớt phần xét nét với ông.
Cũng chắc chắn không một nhà ái quốc đương thời nào vì những lời như thế mà
dám đổ riệt cho Phan là người “mê tín” chủ nghĩa “Pháp Việt đề huề”. Đó cũng là
một khía cạnh rất đáng xem xét của Tỉnh quốc hồn ca.
Tóm lại, tưởng không cần nói cũng rõ tính thống nhất nghệ thuật giữa Tỉnh
quốc hồn ca II và Tỉnh quốc hồn ca I. Lời lẽ châm chích tuy bên sỗ sàng bên kín
đáo, mục tiêu công kích tuy mỗi phần có khác nhau, nhưng kết cấu đối sánh phơi
bày hai mặt tương phản của bức tranh hiện thực vẫn là dụng ý xuyên suốt ngòi bút
họ Phan. Tiếng cười sắc sói vốn là biệt tài của Phan Châu Trinh, muốn giảm đẳng
thế nào vẫn cứ hiện diện. Và cung cách trần thuật trưng dẫn lớp lang, sâu sát mọi
thảm trạng bi hài của đời sống dân Việt cũng là một ưu thế quán xuyến ở cả hai
phần, dù rằng phần đầu là để chê trách cái người Việt sẵn có và phần sau là để tố
cáo cái người Việt phải chịu đựng. Phê phán hiện thực với đầu óc duy lý là chỗ
khu biệt họ Phan với thế hệ sĩ phu ái quốc cùng thời. Mặt khác, cũng không vì thế
mà thơ Phan chỉ là một tiếng nói khách quan lạnh lùng. Sẽ không khó nhận ra
thêm một điểm kết nối sâu thẳm phần trước với phần sau của Tỉnh quốc hồn ca là
ở tấm lòng nhân hậu, thủy chung như nhất của người viết, bộc lộ ở lời kêu gọi
thiết tha, có sức nâng người khác dậy, như những điệp khúc lặp đi lặp lại trong các
chuyển đoạn của phần I: “Ngồi nghĩ lại, thêm phiền thêm tủi / Hỡi những người
trẻ tuổi tài cao / Bây giờ phải tính làm sao / Rủ nhau đi học mọi điều văn minh”;
“Ngồi thử nghĩ càng cay càng chát / Thói chi mà bạc ác lắm thôi / Hiền nhân,
quân tử những người / Đứng lên mà sửa tục đời cho chăng?” Hay là lời thở than
nhức nhối đầy cảm thông, chia sẻ, như những chuyển đoạn của phần II: “Đánh
cũng chết, hòa rồi cũng chết / Bốn mươi năm gió quét sạch không / Ông cha gầy
dựng non sông / Mà nay nông nỗi, đau lòng xiết bao”; “Kể sao xiết não nồng đau
đớn / Mấy trăm ngàn hảo hớn Nam bang / Lạnh lùng mấy nắm xương tàn / Chiêm
bao còn hãy mơ màng hồn quê”.
Đoạn cuối cùng của phần II đề xuất sách lược “Pháp Nam hợp tác” nên lời
lẽ phần nào hơi “đường lối” (như mọi nhà chính trị kiêm văn nhân vẫn sử dụng),
cảm xúc không hồn nhiên tuôn chảy như các phần trên: “Nay trộm phép tỏ tình đại
biểu / Cả tiếng kêu mấy triệu Lang-sa: / Hãy xin mở lượng hải hà / Ra tay tế độ
con nhà An Nam ”. Dầu thế đi nữa, Phan Châu Trinh vẫn gói ghém được cái ý
tưởng lớn nhất là yêu cầu nhà nước Pháp để dân Nam tự trị - một mục tiêu sáng rõ
trong suốt cuộc đời mà ông chưa lùi bước hay nhân nhượng bao giờ: “Chánh tự trị
bắt đầu hứa trước / Định hạn kỳ phỏng ước mấy năm / Chủ trương đã có chỉ nam /
Trăm điều tự khỏi lỗi lầm sai ngoa”. Và nói là “yêu cầu” tức thỉnh nguyện/=kêu
xin, chưa bao giờ Phan tán thành thái độ quỵ lụy, trái lại, hơn lúc nào hết ông đòi
hỏi cả dân tộc ngẩng cao đầu đối thoại với người Pháp trong công cuộc gọi là “thủ
túc tương thân” - Gắn bó với nhau như chân với tay, làm “sao cho hai nước đồng
tâm”:
Dân Đại Pháp là dòng nghĩa hiệp,
Nỡ lòng nào hà hiếp ta đâu.
Chẳng nên vập mặt cúi đầu,
Đứng lên ta hỏi những câu công bình.
Trước sau Phan chỉ muốn đặt cược dân tộc vào tiến trình khó đảo ngược của
thế giới, hẹp hơn, tiến trình các nước châu Á bắt đầu thức tỉnh, để tự tìm cho mình
một con đường hợp lý nhất và cũng “tiết kiệm” nhất, chứ không vì quá nóng vội
“rửa vết dơ nô lệ” mà mất tỉnh táo, xối bao nhiêu máu để rồi vẫn sống trong sự u
mê của nghèo khổ và độc tài: “Sáu mươi năm thấm thoắt đã qua / Lỗi lầm cũng
nửa bởi ta / Cạn suy vụng tính hóa ra lỡ làng / Nay bốn mặt nòi vàng sấn sướt / Ta
hãy còn thườn thượt thây ma”. Dân tộc tiến hóa từ lực đẩy nội tại là mục tiêu trước
mọi mục tiêu của Phan Châu Trinh. Phải nhất quyết rời bỏ phương Đông bạc
nhược tối tăm để hướng đến phương Tây thịnh cường và dân chủ: “Tổ dân quyền
lập hiến là ai?”; “Tạo nhân nay phải lấy Âu làm thầy”. Về phương diện này nữa,
Tỉnh quốc hồn ca II đã có tư cách khép lại trọn vẹn một chương trong khúc ca trữ
tình-chính trị của Phan Châu Trinh vào thời điểm tư tưởng ông thực sự chín mùi.
Hà Nội tháng Tám năm 2006
1 Xin xem Giai nhân kỳ ngộ diễn ca, một thể nghiệm mới của Phan Châu Trinh về
truyện thơ lục bát của cùng một người viết. Thời đại mới tháng XI-2006.
2 Xem Huỳnh Lý và Hoàng Ngọc Phách. Thơ văn Phan Châu Trinh, Nxb. Văn
học, Hà Nội, 1983; tr. 16.
3 Xem Nguyễn Văn Dương. Phan Châu Trinh tuyển tập. Nxb. Đà Nẵng, 1995; tr.
119-120.
4 Trong hai đoạn sau cùng thì một đoạn trùng lặp nhiều với đoạn 6 và đoạn 7 ở
trước, một đoạn nữa nói sâu vào sự tiến bộ của y học phương Tây như một người
trực tiếp chứng kiến, không thể là hiểu biết của Phan Châu Trinh khi đang ở trong
nước. Vì vậy chúng tôi cho hai đoạn này tác giả viết thêm vào sau khi đã ra nước
ngoài, và cũng viết chưa xong.
5 Chúng tôi không chia thành 6 đoạn như Nguyễn Văn Dương, Sđd, mà gộp đoạn
1 và 2 vào làm một.
6 Xem Hải ngoại huyết thư, Đề tỉnh quốc dân hồn (Phan Bội Châu), Cáo hủ lậu
văn (Yên Sĩ Phi Lý Thuần), Đề tỉnh quốc dân ca, Gọi tỉnh giấc mê và nhiều bài
ca khác do Trường Đông Kinh nghĩa thục truyền bá.
7 Michel Loi. “Luxun”, Encyclopædia Universalis version 10. Nguyên văn
“Luxun évoque avec une ironie poignante la passivité et l'obscurantisme d'un
peuple trop misérable pour aider à sa propre liberté”.