Văn học như là tư duy về
cái khả nhiên
Bản chất nhận thức của văn học đã được biết đến từ lâu. Hễ nói đến
văn học là người ta không quên nói tới các chức năng nhận thức, giáo dục,
thẩm mĩ. Lí luận văn học ngày nay đã đặt đúng vị trí thẩm mĩ lên hàng đầu,
song bản chất nhận thức của văn học vẫn là điều khẳng định. Vấn đề là một
thời gian dài người ta hầu như đồng nhất nhận thức văn học với mọi loại
nhận thức nói chung theo lí luận phản ánh, dẫn đến việc làm lu mờ đặc
trưng văn học và bây giờ cần xác định bản chất và đặc trưng ấy như thế
nào cho đúng.
Giải thích nhận thức văn học trực tiếp bằng lí thuyết phản ánh làm
nảy sinh quan niệm cho rằng hình tượng văn học với tư cách sản phẩm
nhận thức nghệ thuật là sự thống nhất sinh động giữa cái chung với cái
riêng, cái cá biệt. Trong điều kiện tối ưu nhà văn sáng tạo được các nhân
vật điển hình, ở đó cái chung rất nổi bật, khái quát, còn cái riêng độc đáo,
cá biệt, không lặp lại. Nhưng lí thuyết ấy có không ít nhược điểm. Nó không
cho thấy mối liên quan mật thiết giữa điển hình với lí tưởng và tình cảm,
cảm hứng sáng tác của nhà văn. Nó không giải thích được sự đa dạng của
văn học. Bởi vì, nếu lí tưởng nhận thức văn học là cái điển hình thì đối với
mỗi loại người trong xã hội chỉ cần sáng tạo được một điển hình là đủ,
không nhất thiết cần có nhiều điển hình, càng nhiều điển hình thì tính điển
hình của chúng sẽ giảm sút. Nhiều lúc lí thuyết phản ánh được vận dụng
theo lối văn học phản ánh bản chất của hiện thực, mà bản chất ấy lại được
hiểu là các quy luật tất yếu đã được tổng kết, biến văn học thành minh hoạ
cho lí luận, gây tác hại không nhỏ. Gần đây có một số nhà lí luận muốn
khắc phục các nhược điểm trên đã đề xướng lí thuyết về phản ánh thẩm
mĩ, trong đó sự phản ánh văn học gắn liền với lí tưởng thẩm mĩ và giá trị
luận. Nhưng lí thuyết này lại chưa giải thích được cơ chế nội tại của tư duy
văn học. Quan niệm nhận thức văn học gặp phải một khó khăn khác là làm
thế nào để phân biệt về nguyên tắc sự khác nhau giữa nhận thức văn học
với nhận thức khoa học. Đầu thế kỉ XIX nhà phê bình văn học Nga V.G.
Biêlinski cho rằng văn học và khoa học cùng nhận thức một đối tượng, chỉ
khác nhau ở hình thức, khoa học dùng khái niệm, phạm trù, phép tam đoạn
luận của lôgich, còn văn học thì dùng hình ảnh, sự miêu tả, tư duy bằng
hình tượng. Đồng nhất nội dung khoa học với nội dung văn học nghệ thuật
rõ ràng là không ổn, nó dẫn đến lí luận minh hoạ trong sáng tác. Sau này,
khi đã nhận ra sự nhầm lẫn, người ta lại chuyển sang đi tìm đối tượng, nội
dung đặc thù, phân biệt với khoa học của văn học. Hàng chục quan niệm về
đối tượng đặc thù của văn học đã được đưa ra, nhưng ít quan niệm có sức
thuyết phục đầy đủ. Cuối cùng trong các giáo trình lí luận văn học người ta
tạm chấp nhận xem đối tượng của văn học là hiện thực mà cuộc sống con
người sinh động, toàn vẹn là trung tâm. Nhưng quan niệm này cũng chỉ đề
cập tới giới hạn phạm vi đối tượng của văn học chứ về thực chất vẫn chưa
đi xa hơn cách hiểu của Biêlinski bao nhiêu.
Nghiên cứu bản chất nhận thức của văn học, theo chúng tôi, nhất
thiết đòi hỏi phải chỉ ra đối tượng đặc thù của văn học, phải giải thích cái lô
gích vì sao nhận thức trong văn học lại cho phép nhà văn hư cấu và gắn
liền với lí tưởng thẩm mĩ về cuộc sống cũng như tình cảm chủ quan của
chủ thể nhận thức, sáng tạo, một điều mà nhận thức khoa học không chấp
nhận. Vậy đối tượng đặc thù ấy là gì?
Câu trả lời thiết nghĩ, có thể tìm thấy ở gợi ý ban đầu của Aristote từ
trong sách Thi pháp học (Nghệ thuật thơ ca) của ông viết cách đây 2300
năm trước công nguyên. Nói về nhiệm vụ của nhà thơ ông viết: “Nhiệm vụ
của nhà thơ không phải ở chỗ nói về các sự việc đã thực sự xảy ra, mà là
nói về cái có thể xảy ra theo quy luật xác suất hay quy luật tất nhiên Nhà
sử học nói về những điều đã xảy ra thực sự, còn nhà thơ thì nói về những
gì có thể xảy ra. Vậy thơ ca có ý vị triết học và nghiêm chỉnh hơn lịch sử, vì
thơ ca nói về cái chung mà lịch sử lại nói về cái cá biệt”
(1)
. Câu thứ nhất,
theo cách dịch của Chu Quang Tiềm, nhà mĩ học hiện đại Trung Quốc, có
thể diễn đạt như sau: “Chức trách của nhà thơ không phải ở việc miêu tả
các sự việc đã xảy ra, mà ở chỗ miêu tả các sự việc có thể xảy ra, tức là
các sự việc có thể có theo luật khả nhiên hay luật tất yếu Vậy thơ ca có
tính triết học và nghiêm túc hơn lịch sử”
(2)
. Aristote đã nêu ra sự phân biệt
rất quan trọng: lịch sử – lĩnh vực của cái đã xảy ra, còn thơ ca (văn học) –
lĩnh vực của cái có thể xảy ra theo quy luật xác suất hay tất yếu. Sự phân
biệt này cho ta thấy hai điểm. Một là không nên hiểu tư tưởng văn học của
Aristote một cách giản đơn thô thiển chỉ là sự mô phỏng – bắt chước – sao
chép cuộc sống đã có, đã xảy ra như lâu nay nhiều người vẫn hiểu. Điều
này nhà triết học Nga A.F. Losev đã phân tích rõ trong công trình của ông
về triết học cổ Hi Lạp
(3)
. Hai là Aristote cho thấy lĩnh vực của văn học không
phải là hiện thực đã và đang tồn tại, mà là lĩnh vực của những cái có thể
xảy ra. Theo chúng tôi, đó là một tư tưởng rất sâu sắc, có thể lấy làm điểm
xuất phát để tìm hiểu đặc trưng nhận thức của văn học. Theo đó có thể
nghĩ rằng văn học không đơn giản phản ánh hiện thực như là những gì đã
và đang tồn tại hoặc chí ít cũng phải điều chỉnh mệnh đề văn học phản ánh
hiện thực được hiểu một cách trực tiếp và tuyệt đối.
Triết học duy vật biện chứng từ lâu cho thấy, hiện thực và khả năng là
một cặp phạm trù của sự thống nhất đối lập, chuyển hoá cho nhau. Từ điển
triết học của Rodental chủ biên, viết: “Hiện thực là bất cứ khách thể nào (sự
vật, trạng thái, tình huống) đã (và đang? – T.Đ.S) tồn tại với tính cách là kết
quả của một khả năng nào đó”. “Khả năng biểu hiện khuynh hướng phát
triển khách quan nằm trong những hiện tượng đang tồn tại”
(4)
. Khả năng
tiềm tàng trong hiện thực (tiềm lực), và trong những điều kiện nhất định nó
có thể chuyển hoá thành hiện thực, song không thể gọi khả năng là hiện
thực, bởi vì cái gì là khả năng thì không phải là hiện thực và ngược lại cũng
vậy, cái gì đã là hiện thực thì không còn là khả năng. Như thế, có thể nói,
theo Aristote thì văn học không phản ánh hiện thực, mà chỉ là sự tư duy về
những khả năng của hiện thực, hoặc nói theo lối đã quen, văn học phản
ánh các khả năng của hiện thực.
Kiến giải của Aristote buộc ta phải suy nghĩ tới phạm trù khả
năng trong triết học, và mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật với cái khả
năng. Mặc dù mọi lĩnh vực kiến thức của con người đều khám phá cái khả
năng, song muốn hiểu bản chất của văn học không thể không nghiên cứu
nội dung, đặc điểm của phạm trù quan trọng này. Điều đáng tiếc là phạm trù
này cho đến nay trong phạm vi triết học mác xít thường chưa được phát
triển đúng mức phải có. Trong khi nhấn mạnh tới sự thống nhất mâu thuẫn
của chúng, người ta phân biệt “khả năng thực tế” với “khả năng trừu tượng”
và quan tâm trước hết đến khả năng thực tế, còn khả năng trừu tượng (khả
năng hình thức), những khả năng không có điều kiện chuyển hoá thành
hiện thực trong thực tế, những khả năng đã mất thì ít có ý nghĩa và dĩ nhiên
là không được quan tâm. Như thế, văn học, nhất là văn học hiện thực chủ
nghĩa, về lí thuyết, chỉ quan tâm đến hiện thực với các khả năng thực tế mà
thôi. Thực ra điều đó không hoàn toàn đúng. Đối với nhu cầu sáng tạo và
đời sống tinh thần của con người thì cái khả năng là quan trọng nhất, bất kì
là khả năng nào. Con người khác con vật ở chỗ biết sáng tạo ra của cải vật
chất, biến đổi tự nhiên và biến đổi cả bản thân mình, do đó ngoài thực tại
ra, mọi cái khả năng đối với nó đều có ý nghĩa sống còn, bởi có khả năng là
có viễn cảnh, có đổi thay, có chân trời. Đồng thời mọi khả năng của hiện
thực, dù là khả năng trừu tượng, thậm chí khả năng khó tin như người lấy
tiên, người lấy ma, người chết sống lại đều có tác dụng mở rộng không
gian nhận thức thế giới, nhận thức hiện tại. Nhà triết học Đức M. Haidegger
cho rằng thơ sáng tạo tồn tại, thơ nói về cái vô. Vô không phải là không có
gì mà là vô hạn. Vô hạn là trạng thái tự do vượt lên cái hữu hạn, mà trạng
thái ấy chỉ có thể có trong thế giới tinh thần. Vì thế theo Haidegger thơ
không phải là đồ trang sức bề ngoài, không phải cảm xúc, tình cảm nhất
thời, không phải thứ tiêu khiển, mà là một nền tảng được hun đúc của lịch
sử. Ông nói con người “tràn đầy thành quả lao động, nhưng vẫn ngự trị trên
mặt đất một cách thi vị”
(5)
. Cái thi vị ở đây là tồn tại hướng tới cái vô hạn.
Hiểu như vậy, cái khả năng đáp ứng được nhu cầu vươn lên cái vô hạn của
con người, cho nên nó trở thành đối tượng của văn học.
Thật vậy, nếu hiện thực là sự thực hiện của một trong những khả
năng của hiện thực, thì nó luôn luôn là hữu hạn, còn khả năng là vô hạn.
Hiện thực gồm tất cả những cái đang có trong hiện tại hữu hạn. Trái lại khả
năng là vô hạn. Bởi hiện thực có thể có khả năng là không hiện thực. Cái
khả năng cũng có thể là cái không có khả năng. Cái tất yếu cũng có thể
không tác động mà bị chi phối bởi cái ngẫu nhiên. Cái hiện thực đã thành
quá khứ cũng hàm chứa nhiều khả năng. Đằng sau mỗi cái dĩ nhiên đã
thành quá khứ có vô vàn cái khả năng đã không còn cơ hội trở thành hiện
thực. Nhưng những khả năng đã mất, không còn hiệu lực thực tế ấy vẫn
còn ý nghĩa như là những bài học cho tương lai. Con người vẫn thường
nhớ tới và hối tiếc những việc đã qua. Ấy là hối tiếc những khả năng tốt đẹp
đã bị phí hoài, những cơ hội nghìn năm đã ra đi không trở lại. Nhà lí luận
văn học Nga Iu. Lotman khi bàn về lịch sử đã nói rất chí lí: “Lịch sử chỉ là
một trong vô vàn con đường có thể đi. Mỗi con đường đã đi đồng thời là
một sự đánh mất các con đường khác”
(6)
. Những khả năng đã mất không
phải là vô nghĩa đối với cuộc sống con người, chúng vẫn tiếp tục là đề tài
bàn luận, suy nghĩ để lựa chọn con đường tối ưu cho cuộc đời. Và bên
trong mỗi cái hiện thực đang tồn tại lại có vô vàn khả năng có thể xảy ra mà
không phải bao giờ con người cũng nắm bắt được hết. Đồng thời cùng với
một khả năng có thể xảy ra lại có vô vàn khả năng đa dạng, đa chiều có thể
xảy ra tiếp sau đó. Các khả năng trừu tượng, phi lí cũng không phải là vô
nghĩa. Chúng mở rộng tư duy để hiểu những khả năng, giống như cái ảo
giúp hiểu thêm cái thực, cái âm giúp hiểu thêm cái dương! Khả năng luôn
luôn phong phú hơn hiện thực và chính nó là không gian cho tư duy, cho
lựa chọn và cho phát triển. Trong triết học chúng ta thường đánh giá rất cao
cái tất yếu. Lịch sử chỉ phát triển theo cái tất yếu và theo triết học mác xít,
con người chỉ có được tự do khi nhận thức được cái tất yếu ấy. Nhưng
khoa học tự nhiên hiện đại đã cho thấy một bức tranh khác. Theo nhà vật lí
Prigoring: “Các quá trình được dự báo vận động theo các quy luật đã tính
trước. Rồi sau đó xuất hiện cái điểm, khi sự vận động đạt đến chỗ không
thể dự báo, và đó là chỗ giao nhau của ít nhất là hai, mà thực tế là của vô
vàn con đường. Nếu trước đó chúng ta cho rằng có thể tính được xác suất
gặp một đường nào đó, nhưng chính ở đó, theo Prigoring, tính xác suất
không tác động, mà lại do cái ngẫu nhiên tác động”
(7)
. Phát hiện cái ngẫu
nhiên là bổ sung cho cái tất yếu. Nhưng ở đâu đã có cái ngẫu nhiên tác
động thì ở đó có không gian của những cái khả năng mà con người không
thể tính trước được hết.
Khả năng là khuynh hướng, xu thế chuyển biến, vận động, phát triển
của hiện thực, là viễn cảnh và tương lai của tồn tại con người, cho nên đó
là một mối quan tâm lớn. Con người sẽ ra sao, cuộc sống sẽ ra sao, xã hội
sẽ về đâu, sự sống để làm gì, những câu hỏi lớn về hiện tại và tương lai
đặt ra từ thời xa xưa mà tôn giáo, triết học và nghệ thuật đều có sứ mạng
trả lời cho mỗi người. Các khả năng, do vậy làm thành đối tượng nhận thức
cao nhất của con người. Nhận thức khoa học lịch sử xét cho cùng cũng là
nhằm dự báo khả năng cho tương lai.
Nghệ thuật trước hết là hình thái ý thức nhận thức khả năng của cuộc
đời. V. Lênin có lần nói: “Chính trị là khoa học về những khả năng”. Câu nói
đó có lẽ, trước hết là nói tới các khả năng thực tế, khả năng chính trị. Khoa
học về khả năng thì không phải là khoa học về hiện thực, mà như vậy thì
tính chân thật của nó chỉ chờ thực tiễn tương lai kiểm nghiệm, chứ không
phải đem so với chân lí nào đó đã có sẵn. Khác với chính trị, văn học nhận
thức mọi khả năng của cuộc sống, những khả năng tốt nhất cũng như các
khả năng xấu nhất, thực tế nhất cũng như trừu tượng nhất cho cuộc sống
cá thể. Khả năng đa dạng vô cùng tận thì sự đa dạng của văn học cũng vô
cùng tận. Hiện thực khi đi vào văn học thì biến thành khả năng. Và đã là
khả năng thì tính chân thật của văn học, do không thể kiểm nghiệm bằng
hiện thực, thực tiễn, người ta chỉ có thể kiểm nghiệm bằng kinh nghiệm,
cảm giác, sự suy luận, ước muốn và tình cảm.
Nghệ thuật là sáng tạo những thế giới tưởng tượng không có thực,
nhằm thể hiện quan niệm nhà văn về cuộc sống, thể hiện những ý nghĩa
của hiện thực được nhà văn phát hiện. Tính chất của cái khả nhiên cho
phép nghệ thuật có thể tưởng tượng, hư cấu, tạo ra những thế giới chưa
từng có. Các nhân vật văn học kiệt xuất xưa nay, Hămlet, Đôn Kihôtê, Gia
Cát Lượng, Quan Vũ, A.Q, Kiều, Chí Phèo, Lão Hạc, Xuân Tóc Đỏ đều là
thế. Hiện thực với tư cách là sự thực hiện của những khả năng, nó là sự
thật, là vật chất, nó có tính ngoan cố không cho phép ai có thể bóp méo, cắt
rời, nhào nặn nó để sáng tạo nên bất cứ hình tượng nào. Bởi như thế là
bóp méo, xuyên tạc thực tế. Khi người ta nói nhào nặn chất liệu của hiện
thực để sáng tạo nghệ thuật, thì thực chất là nói về việc nhào nặn chất liệu
có tính khả năng, chứ không phải nhào nặn hiện thực như nó vốn có. Chỉ
có tính khả năng là cái có tính mềm dẻo, tính co dãn có thể nhào nặn để
làm nên sản phẩm mới bằng hư cấu, tưởng tượng.
Cái khả năng còn cho phép người ta được tự do lựa chọn những yếu
tố thích hợp với lí tưởng và thị hiếu thẩm mĩ nhằm thể hiện quan niệm sống
của con người. Khả năng khi đang là những khuynh hướng tiềm tàng trong
hiện thực, nếu không có con người biết phát hiện ra thì nó vẫn chìm khuất
trong thực tế. Khả năng là phương diện dành riêng cho con người tự do
phát hiện và gắn liền với tính tích cực tư duy, sáng tạo của con người. Ở
đây cái khả năng cho phép thống nhất các hiện tượng đời sống với lí tưởng
và sáng tạo, thống nhất cái khả nhiên với cái thẩm mĩ. Do thế cái khả năng
là đối tượng đặc thù của nhận thức văn học.
Cái khả năng với tính chất của nó có thể tác động đến tư tưởng, tình
cảm con người rất mãnh liệt. Chẳng hạn khả năng trừng phạt là một nhân
tố ngăn ngừa tội phạm mạnh hơn là sự trừng phạt tàn khốc thực tế. Khả
năng về sự khổ cực, nghèo túng, đói kém, bệnh tật, khả năng bị khinh bỉ,
chê cười thường làm nảy sinh niềm sợ hãi nhiều hơn là các trạng thái đó
trong thực tế. Khi sợ hãi cũng như trong hi vọng đôi mắt người ta mở to và
hăng hái hoạt động sao cho các khả năng ấy không xảy ra. Trong đêm tối ta
sợ có người lạ đột ngột xuất hiện. Khi người lạ xuất hiện ta lại sợ hắn tấn
công, khi tấn công ta lại sợ hắn giết hại. Sợ hãi là chức năng của cái khả
năng đau đớn hay mất mát cũng giống như mong muốn là chức năng của
các khả năng hưởng thụ. Nhà lí luận văn học Nga M. Epstein trong Triết
học về cái khả năng nhận xét: “Nói chung, nếu chúng ta nhớ lại lịch sử, thì
cái khả năng cũng có ảnh hưởng đến hành vi và tình cảm con người không
ít hơn cái hiện thực. Cái tiềm năng có sức tác động mạnh mẽ khi nó vẫn là
tiềm năng, có thể nói là tác động đến con người một cách “không hiện
thực”. Niềm tin và sự nghi ngờ, niềm khát khao và nỗi sợ hãi, hi vọng và
thất vọng, sự dũng cảm và sự hèn nhát, sự thánh thiện và sự điên cuồng và
những trạng thái cảm xúc hay đạo đức thường được gợi lên không phải
bằng tình trạng thực tế của sự vật mà là bằng cái khả năng của chúng. Đó
là khả năng Chúa còn hay là không, Khả năng tôi được cứu hay là bị hại”
(8)
.
Nghiên cứu cái khả năng trên rất nhiều ví dụ, Vladislav Tatarkevich đi đến
kết luận rằng “những tình cảm thực tế thường không tiến triển tới mức
không mong muốn, bởi vì chúng ta cảm thấy mình ít hạnh phúc hay ít bất
hạnh hơn là mình chờ đợi”
(9)
. Văn học phản ánh sâu sắc cái khả năng chính
là cội nguồn tác động lớn lao của nó đối với đời sống con người. Dù kết
thúc có hậu hay kết thúc bi kịch văn học đều đặt con người đứng trước sự
thể nghiệm, suy tư và lựa chọn.
Tất nhiên, văn học không giản đơn chỉ là phản ánh các khả năng của
hiện thực. Làm như thế văn học sẽ chẳng khác gì chính trị, tương lai học,
xã hội học Mọi người đều biết, tư duy chẳng phải gì khác, mà là hành
động xuyên qua hiện thực để tiến đến các khả năng bị che giấu trong đó.
Và nói như nhà triết học Đức Leibnits: “Cơ sở của cái bản chất của sự vật
chính là cái khả năng nằm trong sự vật được xét”
(10)
. Như thế, chỉ nói đến
khả năng là chưa đủ. Điểm đặc thù của văn học còn là sáng tạo những cái
khả nhiên của đời sống. “Cái khả năng” mà Aristote nói đến trong bản dịch
tiếng Việt nêu trên, theo Chu Quang Tiềm, có thể dịch là “cái khả nhiên”,
nghĩa là “cái có thể như thế”. Hiện thực tồn tại trong dạng cái dĩ nhiên (cái
đã có như vậy rồi) và “cái tất nhiên” (cái bắt buộc phải có theo qui luật tất
yếu). Chỉ có trong văn học là có cái khả nhiên do nhà văn sáng tạo dựa trên
cái khả năng của cuộc sống mà nhà văn phát hiện ra. Mọi tác phẩm văn
học hư cấu – mọi hình tượng nghệ thuật có giá trị của nhân loại đều là
những cái khả nhiên như vậy. Cái khả nhiên không phải là sự bịa đặt tuỳ
tiện mà là sản phẩm sáng tạo trên cơ sở cái khả năng mang ý nghĩa nhân
sinh.
Xét theo quan niệm của Lôtman: hiện thực – chất liệu, hình tượng –
kí hiệu
(11)
thì mọi hình tượng văn học đều là kí hiệu và là cái khả nhiên. Một
hình tượng người nông dân (như chị Dậu, anh Dậu trong Tắt đèn của Ngô
Tất Tố) hay hình tượng Bác Hồ (chẳng hạn trong thơ Tố Hữu, Minh Huệ,
Chế Lan Viên ) đều là những cái khả nhiên trong cảm thụ của tác giả và
còn nhiều cái khả nhiên khác về các đối tượng hiện thực cùng loại. Không
có cái khả nhiên duy nhất. Hình tượng văn học với tư cách là cái khả nhiên
còn giàu tính khả nhiên hơn nữa, bởi ở đây còn có tính khả nhiên của sức
tưởng tượng mang tính cá thể. Đó là lí do vì sao mà trong văn học có nhiều
cái không giống như thật đến thế.
Vậy cái khả nhiên văn học có giá trị nhận thức như thế nào? Về mặt
này văn học có đặc điểm nhận thức giống như triết học. Nhà triết học
Bertrand Russell trong chương Giá trị của triết học trong sách Những vấn
đề triết học (1912) đã viết: “Mặc dù triết học không thể nói với ta một cách
chắc chắn câu trả lời chân lí đối với các mối nghi ngờ do triết học gợi lên thì
nó cũng có thể đề xuất với ta nhiều khả năng, những khả năng ấy mở rộng
tư tưởng của ta và giải phóng chúng khỏi sự chuyên chế của cái thói quen.
Bằng cách đó, trong khi giảm bớt tình cảm tin cậy của ta đối với trạng thái
sự vật như chúng đang có (what things are), triết học gia tăng mạnh mẽ tri
thức của ta về những trạng thái mà chúng có thể xuất hiện (may be) nó
đánh thức sự kinh ngạc dữ dội của ta bằng cách cho thấy những sự vật
quen thuộc trên các bình diện khác lạ. Cần nghiên cứu triết học không phải
nhằm để đưa ra các câu trả lời xác định đối với các câu hỏi, bởi vì thông
thường, không có câu trả lời xác định nào có thể được coi là chân lí, mà là
vì bản thân các câu hỏi, bởi các câu hỏi đó mở rộng quan niệm của ta về
những gì có thể có, chúng làm phong phú sức tưởng tượng trí tuệ của
ta”
(12)
. Có thể nghĩ rằng, kiến giải của nhà triết học về triết học cũng hoàn
toàn phù hợp với bản chất của văn học. Chúng ta không thể nói một cách
chắc chắn những gì văn học biểu hiện là chân lí, bởi đó là nhận thức của
nhà văn trong những hoàn cảnh nhất định dưới hình thức hư cấu với rất
nhiều ngẫu nhiên, nhưng có thể nói đó là những cái khả nhiên do tác giả
sáng tạo nhằm mở rộng tầm hiểu biết về cuộc sống, giải thoát con người
khỏi mọi thói quen trì trệ, mọi cái nhìn bề ngoài, kích thích sự chú ý đến mọi
biến dị và đa dạng của cuộc đời. Nhưng đồng thời nhận thức văn học khác
xa triết học, bởi nhà văn không chỉ khái quát các khả năng mà còn sáng
tạo cái khả nhiên, là cái có giá trị thẩm mĩ ở chỗ nó gây khoái cảm (bao
gồm cả thống cảm) cho con người, kích thích và mài sắc không chỉ là tư
duy, mà còn mài sắc cảm giác con người về sự đa dạng và khác lạ bất tận
của cuộc đời, nuôi dưỡng tình cảm và sự đánh giá có tính nhân văn đối với
mọi biến đổi của đời sống. Văn học khác hẳn khoa học vì khoa học chủ yếu
nhận thức cái quy luật, cái tất yếu, cái dĩ nhiên của hiện thực dưới hình
thức khái niệm, phạm trù, công thức trừu tượng.
Đó là sự phân biệt căn bản giữa văn học và khoa học. Nhìn nhận văn
học từ phạm trù cái khả nhiên chúng ta có cơ sở để hiểu thêm đối tượng
đặc thù của nó, nhìn thấy cơ chế bên trong của sự phản ánh thẩm mĩ./.