Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Thúc đẩy niêm yết cổ phiếu của VPBank trên Thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478 KB, 72 trang )

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Niêm yết cổ phiếu mang lại cho Ngân hàng rất nhiều lợi ích trong đó
có lợi ích về huy động vốn, về uy tín, về quản trị điều hành và cuối cùng là
nó giúp Ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị phần và tăng
trưởng lợi nhuận. Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh (VPBank) tuy còn khá non trẻ song đã từng bước khẳng định
được vị trí của mình và tạo được niềm tin trong công chúng. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành công đạt được, VPBank vẫn còn những khó khăn thách
thức cần tháo gỡ trong huy động vốn, trong xây dựng thương hiệu và các
mặt hoạt động khác. Những vấn đề này gây cho VPBank nhiều bất lợi rất
lớn mà nếu không có biện pháp giải quyết kịp thời, sẽ ảnh hưởng đến năng
lực cạnh tranh của VPBank trong các năm tới. Một trong những biện pháp
hữu hiệu và phù hợp với xu thế khách quan hiện nay, đó là đưa cổ phiếu của
VPBank niêm yết trên TTCK, đa dạng hoá hình thức huy động và tăng tính
chủ động cho Ngân hàng, đồng thời nâng cao uy tín của Ngân hàng trong
lòng công chúng. Xuất phát từ lý do trên, em đã lựa chọn đề tài: “Thúc đẩy
niêm yết cổ phiếu của VPBank trên Thị trường chứng khoán Việt
Nam”.
2. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ phần
Chương 2: Thực trạng các điều kiện niêm yết cổ phiếu của VPBank
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy niêm yết cổ phiếu của VPBank trên
TTCKVN
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44


2
CHƯƠNG I: NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1. CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế.
Lịch sử phát triển và hình thành của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản xuất hàng hoá. Nghề Ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi
tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng do nhu cầu giao lưu thương mại và hợp
tác quốc tế. Sau đó những người làm nghề đổi tiền còn làm thêm nghề cho
vay nặng lãi và nghiệp vụ cất trữ hộ do họ có ưu thế về tài chính và khả
năng giữ tiền tốt. Các nghiệp vụ này càng mở rộng đã làm tăng thu nhập cho
họ, đa dạng hoá các loại tiền cất trữ và tăng qui mô tài sản của người kinh
doanh tiền tệ. Điều này đã tạo ra điều kiện cho việc thực hiện nghiệp vụ
thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, Ngân hàng
cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới
chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ và thực
hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về Ngân hàng, tuy nhiên cách
tiếp cận thận trọng nhất là xem xét các tổ chức này trên phương diện những
loại hình dịch vụ mà nó cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Ngoài ra, còn có
thể định nghĩa Ngân hàng dựa trên các hoạt động chủ yếu của nó. Ví dụ,
Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ghi “Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
3

hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
 Hoạt động huy động vốn
Đối với bất kỳ một Ngân hàng nào, hoạt động huy động vốn luôn là
một hoạt động quan trọng mang tính sống còn. Có nhiều hình thức và các
nguồn khác nhau mà Ngân hàng có thể sử dụng dể huy động vốn như tăng
thêm vốn chủ sở hữu, vay nợ các tổ chức và các cá nhân khác trong nền kinh
tế, huy động tiền gửi tiết kiệm và thanh toán từ trong dân cư và nền kinh tế
hay phát hành ra các công cụ nợ hoặc phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Quy mô và thời hạn của nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được sẽ quyết
định trực tiếp đến thời hạn tín dụng của các khoản cho vay cũng như mức độ
an toàn trong hoạt động của Ngân hàng
 Hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động cơ bản nhất và đem
lại nguồn thu nhập chủ yếu cho NHTM. Theo luật các tổ chức tín dụng Việt
Nam, cho vay là hình thức tín dụng theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo
thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi vay. Tuỳ theo mục đích
quản lý và nghiên cứu khác nhau, người ta có thể phân chia hoạt động cho
vay của Ngân hàng theo nhiều tiêu thức khác nhau như thời gian, tài sản
đảm bảo, mục đích sử dụng vốn, v.v…Hoạt động cho vay của bất kỳ NHTM
nào cũng phải tuân theo những quy tắc nhất định về thủ tục cho vay, quy mô
khoản vay, thời han vay và đặc biệt là các điều kiện đảm bảo an toàn trong
hoạt động Ngân hàng do cơ quan quản lý đặt ra nhằm hạn chế những rủi ro
quá lớn đe dọa đến Ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động cho vay cũng là hoạt
động mang lại rủi ro lớn nhất cho Ngân hàng.
 Hoạt động dịch vụ và đầu tư khác
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44

4
Bên cạnh hai hoạt động cơ bản trên, NHTM còn thực hiện việc cung
cấp các dịch vụ tiện ích đa dạng khác. Ngày nay, đối với các Ngân hàng
hiện đại, tỷ trọng thu nhập từ hoạt động này so với tổng thu nhập của Ngân
hàng có xu hướng tăng lên và trở thành nguồn thu chính cho NHTM. Các
dịch vụ này rất đa dạng và linh hoạt với nhiều tiện ích đi kèm ngày một
phong phú bao gồm các dịch vụ về thanh toán trong nước và quốc tế, bảo
lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư
vấn, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, v.v…Ngày nay, cùng với sự phát
triển của công nghệ thông tin, hoạt động cung cấp dịch vụ Ngân hàng ngày
càng trở nên nhanh chóng và an toàn hơn, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách
hàng đến giao dịch. Bên cạnh đó, đầu tư dưới dạng hùn vốn trực tiếp cho các
công ty hoặc các dự án đầu tư dưới dạng nắm giữ cổ phần của các tổ chức
khác. Hoạt động đầu tư này tuy chứa đựng nhiều rủi ro và không phải là
nguồn thu chính của NHTM nhưng lại mang một ý nghĩa không nhỏ trong
việc đa dạng hoá danh mục đầu tư của Ngân hàng, qua đó giúp giảm thiểu
rủi ro cho NHTM.
1.1.3 Vai trò của việc niêm yết cổ phiếu trong hoạt động của Ngân hàng
thương mại cổ phần
1.1.3.1 Những lợi ích của NHTMCP khi niêm yết cổ phiếu trên TTCK
Là một kênh dẫn vốn hữu hiệu và linh hoạt, TTCK còn mang lại cho
NHTMCP rất nhiều lợi ích to lớn khác mà đặc biệt là các lợi ích trong hoạt
động niêm yết cổ phiếu
 Tăng cường khả năng huy động vốn của NHTMCP
Như đã phân tích ở trên, TTCK là một kênh huy động vốn hữu hiệu
cho NHTMCP, nơi các Ngân hàng có thể tìm ra cho mình những công cụ
huy động vốn phù hợp nhất về thời hạn, về quy mô và về các đặc tính khác.
Tuy nhiên, ở đây ta không đề cập đến việc niêm yết chứng khoán nói chung
(tức là bao gồm cả trái phiếu) mà chỉ xét riêng hoạt động niêm yết cổ phiếu
của NHTMCP trên TTCK. Nói đến cổ phiếu của NHTMCP, người ta nghĩ

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
5
đến vốn tự có của Ngân hàng đó. Hoạt động phát hành và niêm yết cổ phiếu
của Ngân hàng cũng đồng nghĩa với việc tăng thêm vốn tự có của Ngân
hàng. Tuy quy mô vốn huy động được từ hoạt động này có khối lượng nhỏ
hơn nhiều so với việc phát hành và niêm yết các loại chứng khoán khác,
nhưng việc tăng thêm vốn tự có cho NHTMCP lại có một ý nghĩa quan
trọng, tác động đến quy mô hoạt động của NHTMCP. Do tính chất rủi ro
trong hoạt động Ngân hàng, bất cứ NHTMCP nào cũng phải đặt an toàn lên
làm một trong hai mục tiêu quản lý hàng đầu của mình. Cũng chính vì lý do
này, mọi Ngân hàng phải đảm bảo quy mô các hoạt động của mình ở một
mức nhất định so với vốn điều lệ. Vốn điều lệ sẽ ràng buộc và quy định giới
hạn nguồn vốn tiền gửi mà Ngân hàng được cho phép huy động, quy định
hạn mức tín dụng tối đa cấp cho một mhóm khách hàng và ở một số nước
khác nhau, vốn điều lệ có thể ràng buộc thêm một số hoạt động khác. Như
vậy, việc niêm yết cổ phiếu trên TTCK có một vai trò vô cùng quan trọng,
nó giúp NHTMCP huy động hoặc tăng thêm vốn tự có cho mình một cách
thuận lợi và linh hoạt trong khi lại không bị ràng buộc bởi trách nhiệm trả
nợ như đối với các loại chứng khoán khác. Ngoài ra, thông thường,
NHTMCP niêm yết cổ phiếu sẽ được công chúng tín nhiệm hơn các Ngân
hàng chưa niêm yết, và do vậy có thể giúp Ngân hàng huy động vốn dẽ dàng
với chi phí rẻ. Việc niêm yết cổ phiếu trên TTCK cũng sẽ mở đường cho
Ngân hàng tiến tới phát hành và niêm yết các loại chứng khoán khác trên thị
trường, từ đó tăng cường huy động vốn cả về quy mô cũng như chất lượng.
Đây sẽ là tiền đề cho NHTM mở rộng các hoạt động khác của mình, góp
phần thực hiện các mục tiêu chiến lược
 Nâng cao uy tín của NHTMCP
Một thuận lợi nữa mà các NHTMCP có được khi niêm yết cổ phiếu
của mình trên TTCK, đó là tác động đến công chúng và nâng cao uy tín của

Ngân hàng. Như đã phân tích ở trên, Ngân hàng muốn đựoc niêm yết chứng
khoán trên thị trường phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn định lượng và
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
6
định tính. Sở dĩ phải như vậy là để hạn chế rủi ro cho công chúng đầu tư và
các đổ vỡ nguy hiểm cho TTCK. Mặt khác, NHTMCP chỉ có thể tồn tại
được nếu công chúng tin vào Ngân hàng đó. Đối với những Ngân hàng yếu
kém trong hoạt động, việc niêm yết trên TTCK cùng với chế độ công khai
hoá thông tin có thể sẽ trở thành “con dao hai lưỡi” đối với Ngân hàng đó.
Nếu không đặt ra các điều kiện để hạn chế bớt các Ngân hàng này, việc sụp
đổ Ngân hàng và đổ vỡ trên TTCK chỉ là vấn đề sớm hay muộn. Do vậy, ở
bất cứ quốc gia nào trên thế giới, các NHTMCP đều phải đáp ứng được các
điều kiện nhất định để được niêm yết trên TTCK. Chính vì vậy, khi Ngân
hàng được phép niêm yết trên thị trường, điều này cũng đồng nghĩa với việc
khẳng định Ngân hàng có một nền tảng kinh doanh hiệu quả và lành mạnh,
do đó mà có thể nâng cao uy tín của NHTMCP. Ngoài ra, việc niêm yết cổ
phiếu cũng có những tác động tâm lý đến các nhà đầu tư, những người cảm
thấy yên tâm hơn khi bỏ tiền của mình vào những công ty, tổ chức có tên
tuổi. Do đó, nói một cách tượng hình, việc niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng
có khả năng “tô đẹp” thêm cho hình ảnh của Ngân hàng góp phần xây dựng
thương hiệu cho Ngân hàng
 Nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu NHTMCP
Không chỉ tác động tích cực đến hoạt động huy động vốn và uy tín
của Ngân hàng, việc niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng trên TTCK còn giúp
tạo ra một thị trường rộng lớn hơn cho cổ phiếu của NHTMCP. Được giao
dịch thường xuyên với số lượng đa dạng từ lớn đến nhỏ, các cổ phiếu này do
đó sẽ tăng thêm tính thanh khoản. Tính thanh khoản hay còn gọi là tính lỏng
có thể được hiếu là khả năng chuyển đổi thành tiền của một tài sản nào đó.
Việc chuyển đổi càng nhanh chóng dễ dàng, càng tốn ít chi phi giao dịch và

thời gian, sự sụt giảm giá càng ít thì tài sản đó được coi là có tính thanh
khoản lớn và ngược lại. Tính thanh khoản càng cao, rủi ro khi nắm giữ nó
càng thấp và do vậy đòi hỏi phần bù rủi ro càng thấp. Tính thanh khoản càng
nhỏ, việc nắm giữ cổ phiếu càng trở nên rủi ro và do đó nhà đầu tư cũng đòi
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
7
hỏi phải có một phần bù rủi ro tương xứng. Khi niêm yết cổ phiếu trên
TTCK, các cổ phiếu được chấp nhận và mua bán trên phạm vi rộng lớn hơn,
với tần suất cao hơn, tạo ra tính lỏng cho chúng. Không chỉ được chấp nhận
trong các giao dịch mua bán, các cổ phiếu còn có khả năng được chấp nhận
một cách dễ dàng làm vật thế chấp và sử dụng cho các mục tiêu tài chính,
thừa kế và các mục đích khác. Như vậy, rõ ràng, việc niêm yết cổ phiếu của
Ngân hàng trên TTCK có tác dụng làm tăng tính thanh khoản và do đó làm
tăng thêm tính hấp dẫn đối với cổ phiếu của NHTMCP, nhờ vậy mà làm
giảm chi phí vốn cho Ngân hàng do giảm được phần bù rủi ro phải trả thông
qua việc nâng cao tính thanh khoản cho cổ phiếu
 Nâng cao khả năng hoạt động và quản lý của NHTMCP
Một tác động tích cực không kém phần quan trọng đối với Ngân hàng
khi niêm yết cổ phiếu trên TTCK đó là khả năng nâng cao hiệu quả hoạt
động và quản lý của NHTMCP. Cũng như bất cứ một tổ chức kinh doanh
nào khi tham gia TTCK, NHTMCP cũng phải thực hiện nhiệm vụ cáo bạch
thông tin của mình. Mọi thông tin về tình hình hoạt động của Ngân hàng đều
phải được phản ánh trung thực và đầy đủ cả về mặt tích cực và mặt yếu kém
để làm tham khảo cho các nhà đầu tư khi họ đưa ra các quyết định trên
TTCK. Các thông tin được Ngân hàng đưa ra phải được một công ty kiểm
toán độc lập có chuyên môn nghiệp vụ cao kiểm định lại và được công bố
rộng rãi thường xuyên cho công chúng đầu tư biết. Điều này tạo ra một sức
ép lớn đối với các NHTMCP trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động và
năng lực quản lý của Ngân hàng mình cũng như hoàn thiện, phát triển hoạt

động cả về chất cũng như về lượng. Chỉ cần một yếu kém hay thiếu minh
bạch trong hoạt động, các NHTMCP cũng có thể gặp phải nguy cơ phá sản
do sự mất niềm tin của công chúng, mà như đã phân tích ở trên , uy tín của
Ngân hàng chính là yếu tố quyết định Ngân hàng đó sẽ tồn tại hay sụp đổ
nhanh chóng. Chính vì vậy, NHTMCP sẽ không thể đứng vững trên TTCK
nếu họ không thường xuyên tìm ra các giải pháp hoàn thiện hoạt động của
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
8
mình, nâng cao hiệu quả hoạt động, đa dạng hoá các loại hình sản phẩm dịch
vụ đồng thời nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ đó. Mặt khác, tính
hấp dẫn của cổ phiếu Ngân hàng lại liên quan đến tỷ lệ lợi tức mà nhà đầu tư
nhận được. Không có nhà đầu tư nào thích bỏ tiền ra để nắm giữ một cổ
phiếu không sinh lợi. Tính hấp dẫn của cổ phiếu càng lớn, tính thanh khoản
của nó càng cao, dẫn đến thị giá của cổ phiếu tăng lên rất nhiều và theo đó là
nâng cao uy tín cho NHTMCP. Vì vậy, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị
Ngân hàng là phải duy trì được một sự tăng trưởng đều đặn về tỷ lệ cổ tức
chi trả cho người sở hữu nó. Muốn như vậy, Ngân hàng phải thực sự kinh
doanh có hiệu quả, khả năng sinh lời lớn và tăng trưởng ổn định. Những
điều này sẽ buộc Ngân hàng phải quan tâm đến việc hoàn thiện mọi mặt
hoạt động của mình và nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng quản lý
 Được hưởng các ưu đãi về thuế
Bên cạnh những thuận lợi trên, các Ngân hàng khi niêm yết cổ phiếu
trên TTCK còn nhận được những ưu đãi về thuế. Chính sách ưu đãi này bao
gồm có ưu đãi về thuế cho các Ngân hàng niêm yết và các ưu đãi cho các
nhà đầu tư mua chứng khoán của Ngân hàng niêm yết. Thông thường, ở các
TTCK mới phát triển, các công ty niêm yết trong đó có NHTMCP sẽ được
miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh tính trên
một số năm nhất định. Còn đối với nhà đầu tư mua cổ phiếu của Ngân hàng
niêm yết, họ sẽ được hưởng các chính sách miễn, giảm thuế đối với cổ tức

nhận được từ hoạt động đầu tư hoặc chênh lệch từ hoạt động mua bán chứng
khoán. Các ưu đãi về thuế trong thời gian đầu khi Ngân hàng mới niêm yết
sẽ tạo cho Ngân hàng một lợi thế để dần thích nghi với thị trường và vượt
qua thời gian đầu khó khăn, tiến tới tăng trưởng ổn định. Mặt khác, chính
sách ưu đãi thuế đối với những nhà đầu tư mua bán cổ phiếu của Ngân hàng
niêm yết cũng tạo nên tính hấp dẫn cho cổ phiếu của Ngân hàng trên TTCK.
Nếu Ngân hàng biết tận dụng tốt thuận lợi này, đây sẽ là một cơ hội tốt cho
Ngân hàng bứt phá và tạo ra lợi thế so sánh với các Ngân hàng khác.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
9
Rõ ràng, việc niêm yết cổ phiếu của NHTMCP trên TTCK đem lại
cho Ngân hàng rất nhiều lợi ích. Khi NHTMCP có thể chuẩn bị cho mình
đầy đủ các điều kiện để sẵn sàng tham gia TTCK thì việc niêm yết cổ phiếu
trên thị trường sẽ là lực đẩy lớn cho các NHTMCP nâng cao năng lực cạnh
tranh và khẳng định vị thế của mình trên thị trường trong và ngoài nước.
1.1.3.2 Những bất lợi của NHTMCP khi niêm yết cổ phiếu trên TTCK
Mặc dù việc niêm yết mang lại rất nhiều các lợi ích không thể phủ
nhận cho NHTMCP, nhưng nếu không có sự chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt
hay nói cách khác không đáp ứng đủ các điệu kiện để tham gia hiệu quả thì
việc niêm yết cổ phiếu lại có thể trở thành một “con dao hai lưỡi”.
Thứ nhất là, các Ngân hàng non yếu khi tham gia TTCK sẽ phải chịu
tác động rất lớn từ nghĩa vụ công khai hoá thông tin. Công khai hoá thông
tin đồng nghĩa với việc đưa ra công chúng những thông tin một cách đầy đủ,
chính xác và kịp thời liên quan đến mọi mặt hoạt động của Ngân hàng,
những gì hiệu quả và chưa hiệu quả. Đối với các Ngân hàng có nền tảng
kinh doanh yếu kém, việc công bố thông tin sẽ tác động xấu tới uy tín của
họ trên thị trường, tạo ra một phép so sánh tương đối với các Ngân hàng
khác lớn mạnh hơn và có thể gặp nguy cơ phá sản lớn gấp nhiều lần so với
khi chưa niêm yết cổ phiếu trên TTCK

Điều này cũng đẩy họ tới nguy cơ bị thâu tóm và sáp nhập cũng như
những cản trở do quá trình này mang lại. Khi các Ngân hàng niêm yết chứng
khoán của mình trên thị trường, họ có khả năng bị những tổ chức khác lợi
dụng đầu cơ cho mục tiêu sáp nhập hoặc thâu tóm, đặc biệt là khi Ngân hàng
lại non yếu và ít có khả năng “tự vệ”. Ngoài ra, việc niêm yết cũng phản ánh
nguồn vốn và việc phân chia quyền biểu quyết của Ngân hàng cho những
người nắm giữ cổ phiếu. Điều này có thể gây bất tiện cho những cổ đông
chủ chốt và công việc điều hành hiện tại của NHTMCP và vì thế mà chính
bản thân Ngân hàng cũng sẽ gặp nhiều cản trở trong việc thực hiện thâu tóm
hay sáp nhập.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
10
Với tính thanh khoản rất cao, mức độ nhạy cảm của cổ phiếu của
Ngân hàng có thể tạo ra tác động kép đến giá cổ phiếu. Khi giá cổ phiếu của
Ngân hàng tăng, uy tín, vị thế của Ngân hàng sẽ tăng lên rất cao, đồng thời
góp phần phát triển các hoạt động khác của Ngân hàng. Ngược lại, Ngân
hàng sẽ bị đổ vỡ khi giá cổ phiếu giảm. Ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ
rút tiền hang loạt khi khách hàng yêu cầu trước kỳ hạn.
Ngoài ra, do Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt nên
việc kiểm soát hoạt động của Ngân hàng là khá khó khăn. Mỗi khi muốn
thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động của Ngân hàng thì phải có sự đồng ý
của Ngân hàng Nhà nước. Ngay cả khi tiến hành kiểm tra cũng không dễ
dàng gì vì quy mô của Ngân hàng rất lớn, có rất nhiều hoạt động khó kiểm
soát.
Như vậy, việc tham gia niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng trên TTCK
không phải lúc nào cũng mang lại những tác động tích cực. Điều quan trọng
là các Ngân hàng cần phải nhận thức được các lợi ích to lớn mang lại từ việc
niêm yết cổ phiếu trên TTCK cũng như xu thế tất yếu khách quan của việc
niêm yết cổ phiếu trên TTCK để có sự chuẩn bị và lựa chọn hợp lý thời

điểm, đưa cổ phiếu của NHTMCP niêm yết trên TTCK
1.2 NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NHTMCP
1.2.1 Khái niệm niêm yết cổ phiếu của NHTMCP
“Niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khoán có đủ tiêu chuẩn
vào đăng ký và giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung”. Một cách cụ
thể, đây là quá trình Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) chấp thuận cho
công ty phát hành được phép niêm yết và thực hiện giao dịch các chứng
khoán của mình trên SGDCK nếu công ty đó đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn
định lượng và định tính do SGDCK đặt ra. Niêm yết chứng khoán bao hàm
việc yết tên tổ chức phát hành và giá chứng khoán
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
11
1.2.2. Phân loại niêm yết chứng khoán
1.2.2.1. Niêm yết lần đầu (Initial Listing)
Niêm yết lần đầu là việc cho phép chứng khoán của tổ chức phát hành
được đăng ký niêm yết giao dịch chứng khoán lần đầu tiên sau khi phát hành
ra công chúng (IPO) khi tổ chức phát hành đó đáp ứng được các tiêu chuẩn
niêm yết.
1.2.2.2. Niêm yết bổ sung (Additional Listing)
Niêm yết bổ sung là quá trình chấp thuận của SGDCK cho một công
ty niêm yết được niêm yết các cổ phiếu mới phát hành với mục đích tăng
vốn hay vì các mục đích khác như sáp nhập, chi trả cổ tức, thực hiện các
quyền hoặc thực hiện các trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu, v.v…
1.2.2.3. Thay đổi niêm yết (Change Listing)
Thay đổi niêm yết phát sinh khi công ty niêm yết thay đổi tên chứng
khoán giao dịch, khối lượng, mệnh giá hoặc tổng giá trị chứng khoán được
niêm yết của mình.
1.2.2.4. Niêm yết lại (Relisting)
Niêm yết lại là việc cho phép một công ty phát hành được tiếp tục

niêm yết trở lại các chứng khoán trước đây đã bị huỷ bỏ niêm yết vì các lý
do không đáp ứng được các tiêu chuẩn duy trì niêm yết.
1.2.2.5. Niêm yết cửa sau (Back door Listing)
Niêm yết cửa sau là trường hợp một tổ chức niêm yết chính thức sáp
nhập liên kết hoặc tham gia vào hiệp hội với một tổ chức, nhóm không niêm
yết và kết quả là các tổ chức không niêm yết đó lấy được quyền kiểm soát
của tổ chức niêm yết.
1.2.2.6. Niêm yết toàn phần và niêm yết từng phần (Dual Listing & Partial
Listing)
Niêm yết toàn phần là việc niêm yết tất cả các cổ phiếu sau khi đã
phát hành ra công chúng trên một SGDCK trong nước hoặc nước ngoài.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
12
Niêm yết từng phần là việc niêm yết một phần trong tổng số chứng
khoán đã phát hành ra công chúng của lần phát hành đó, phần còn lại không
hoặc chưa được niêm yết. Niêm yết từng phần thường diễn ra ở các công ty
lớn do Chính phủ kiểm soát, phần chứng khoán phát hành ra thị trường do
các nhà đầu tư cá nhân nắm giữ được niêm yết, còn phần nắm giữ của Chính
phủ hoặc tổ chức đại diện cho Chính phủ nắm giữ không được niêm yết.
1.3. ĐIỀU KIỆN NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NHTMCP
1.3.1. Các điều kiện chủ quan
 Điều kiện về quy mô vốn chủ sở hữu
Khi NHTMCP muốn niêm yết cổ phiếu trên TTCK, yếu tố đầu tiên
được xem xét chính là quy mô vốn chủ sở hữu. Đối với NHTMCP, quy mô
chủ sở hữu sẽ ràng buộc và quyết định trực tiếp đến quy mô hoạt động về
quy mô vốn tiền gửi, về cho vay, về khả năng chống đỡ rủi ro, v.v…Một
Ngân hàng bé nhỏ về vốn chủ sở hữu cũng đồng nghĩa với một Ngân hàng
bé nhỏ về quy mô các mặt hoạt động cơ bản khác. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu
còn đóng vai trò như một tấm chống đỡ rủi ro cho Ngân hàng trong những

thời điểm nhạy cảm, giúp Ngân hàng vượt qua khó khăn trước mắt. Quy mô
vốn chủ sở hữu cũng tác động đến tính hấp dẫn, tính thanh khoản và cơ cấu
cổ đông sở hữu đối với cổ phiếu của Ngân hàng. Khi quy mô vốn chủ sở
hữu không đủ lớn sẽ dẫn đến số lượng cổ phiếu khả mại thấp, tập trung vào
tay một số ít cổ đông và do vậy làm giảm đi tính thanh khoản. Do vậy, vốn
chủ sở hữu của Ngân hàng phải đạt đến một quy mô nhất định để tạo nên
tính thanh khoản tối thiểu cho cổ phiếu của Ngân hàng khi đưa ra niêm yết
và đảm bảo tính hiệu quả cho thị trường. Thông thường, ở một số nước
khác, các NHTMCP chỉ cần có mức vốn chủ sở hữu tối thiểu bằng mức vốn
pháp định là đã được phép nộp đơn xin niêm yết. Tuy nhiên, ở một số quốc
gia khác nhau, mức vốn chủ sở hữu để được niêm yết có thể được quy định
phải lớn hơn mức vốn pháp định trong lĩnh vực Ngân hàng với một tỷ lệ
nhất định
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
13
 Điều kiện về thời gian hoạt động tối thiểu của Ngân hàng tính đến
thời điểm xin niêm yết
Đây là một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Ngân hàng phải có
một nền tảng kinh doanh nhất định, qua đó có thể nhận xét được khả năng
trụ vững của Ngân hàng trên thị trường. Điều kiện này cũng cho thấy hiệu
quả kinh doanh và tính chất ổn định trong xu hướng phát triển của Ngân
hàng đó. Thường thì, đối với các TTCK truyền thống, các Ngân hàng niêm
yết phải có thời gian hoạt động tối thiểu là 3-5 năm, hoặc cổ phiếu của nó đã
được giao dịch trên TTCK phi tập trung
 Điều kiện về số năm kinh doanh có lãi liên tục gần nhất tính đến thời
điểm xin niêm yết
Số năm có lãi liên tiếp gần thời điểm xin niêm yết nhất của Ngân hàng
cho phép nhận xét được tình hình kinh doanh gần đây cũng như tiềm năng
phát triển của Ngân hàng đó. Khi thời gian hoạt động của Ngân hàng quá

ngắn, sẽ làm hạn chế khả năng kiểm chứng thông qua số liệu về khả năng
thực sự của Ngân hàng và rủi ro sẽ rất lớn. Thông thường, các Ngân hàng
muốn niêm yết cổ phiếu trên TTCK phải có số năm có lãi liên tục tối thiểu
tính đến thời điểm xin niêm yết là từ 2-3 năm
 Điều kiện về tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay
Bên cạnh các điều kiện trên, khi xem xét các tiêu chuẩn để quyết định
một NHTMCP được phép hay không được phép niêm yết cổ phiếu trên
TTCK, người ta còn quan tâm đến tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay của
Ngân hàng liên tục trong một số năm gần nhất. Điều này cho phép đánh giá
được khả năng quản lý, chất lượng tín dụng cũng như những rủi ro tiềm ẩn
của Ngân hàng. Nếu Ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ cao liên
tục qua các năm. Ngân hàng đó có thể sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn trong
kinh doanh và đứng trước nguy cơ phá sản. Đối với những Ngân hàng
không lành mạnh về mặt tài chính như vậy, việc niêm yết cổ phiếu của
chúng sẽ là điều bất lợi cho cả hai bên: Ngân hàng và TTCK đồng thời sẽ
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
14
dẫn đến những hệ quả không lường trước được. Thông thường,tỷ lệ nợ xấu
trên tổng dư nợ của Ngân hàng phải đảm bảo dưới 5%.
 Điều kiện về tỷ lệ cổ tức
Một tiêu chuẩn nữa được xem xét như điều kiện để NHTMCP được
phép niêm yết cổ phiếu trên TTCK là tỷ lệ cổ tức trong một số năm theo quy
định gần với thời điểm niêm yết nhất. Đây cũng là một tiêu chi cho phép
đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động trong kinh doanh của NHTMCP vì
lợi suất thu được từ vốn cổ phần phản ánh một phần khả năng sinh lợi của
Ngân hàng đó. Thường thì, tỷ lệ này phải đạt đến một mức tối thiểu bằng lãi
suất tiền gửi Ngân hàng kỳ hạn một năm. Điều này đảm bảo cho các cổ
phiếu được niêm yết thực sự là những tài sản tài chính lành mạnh và sinh lời
 Điều kiện về giới hạn sở hữu cổ phần

Các NHTMCP muốn niêm yết cổ phiếu của mình phải đáp ứng được
các tiêu chuẩn nhất định về giới hạn sở hữu cổ phần được đặt ra bởi Ngân
hàng Nhà nước. Tuỳ thuộc vào các quốc gia khác nhau, giới hạn này đựơc
quy định khác nhau cho các cổ đông là cá nhân hay tổ chức. Các tỷ lệ giới
hạn này phải đảm bảo cho không một cổ đông nào được quyền chi phối toàn
bộ hoạt động của Ngân hàng, làm mất tính khách quan, từ đó làm giảm hiệu
quả hoạt động của NHTMCP. Mặt khác, việc nắm giữ một tỷ lệ quá nhiều
cổ phiếu sẽ làm giảm tính thanh khoản của cổ phiếu trên thị trường do một
lượng lớn vốn cổ phần đã bị nắm giữ nhằm mục tiêu kiểm soát, lượng chứng
khoán được mua bán bị hạn chế về số lượng, làm mất đi tính thị trường hiệu
quả.
1.3.2. Các điều kiện khách quan
Bên cạnh các tiêu chuẩn định lượng cần xem xét, ta cũng cần phải
quan tâm đến các chỉ tiêu định tính đối với hoạt động của Ngân hàng. Mặc
dù có điểm hạn chế là các chỉ tiêu này khó có thể lượng hoá được nhưng
chúng cũng là những yếu tố quan trọng để quyết định xem có nên niêm yết
hay không cổ phiếu của NHTMCP
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
15
 Triển vọng của Ngân hàng
Tiêu chuẩn này được đưa ra để đánh giá về tiềm năng phát triển của
Ngân hàng. Một Ngân hàng có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn về định
lượng theo yêu cầu đặt ra nhưng có thể lại ít có triển vọng phát triển do
nhiều yếu tố quy định, chẳng hạn lĩnh vực hoạt động chủ đạo của Ngân hàng
đang có xu hướng thu hẹp dần hoặc sự kém đa dạng và đổi mới trong kinh
doanh của Ngân hàng. Một Ngân hàng có tiềm năng phát triển là Ngân hàng
không chỉ lành mạnh trong hoạt động kinh doanh hiện thờii mà còn có một
chiến lược kinh doanh tiến bộ, luôn đổi mới với nguồn nhân lực được đào
tạo và thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ

 Ý thức tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn và pháp luật
Tiêu chuẩn định tính tiếp theo được xem xét đó là tiêu chuẩn về ý
thức tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn và pháp luật trong hoạt động
kinh doanh của NHTMCP. Nhìn chung, những Ngân hàng tuân thủ nghiêm
chỉnh các quy định được đặt ra thường là các Ngân hàng tổ chức tốt các hoạt
động và có được một chiến lược đảm bảo an toàn đúng đắn. Đối với tiêu
chuẩn này, người ta tiến hành xem xét lịch sử hoạt động của Ngân hàng và
những lần vi phạm quy định và bị xử phạt gần với thời điểm xin niêm yết
nhất. Số lần vi phạm càng gần và mức độ nghiêm trọng của lần vi phạm
càng lớn thì tính chất rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng càng cao.
 Ý kiến của các công ty kiểm toán về hoạt động của NHTMCP
` Trong quá trình xem xét này, ý kiến của công ty kiểm toán về hoạt
động của Ngân hàng cũng là một nguồn thông tin cần tham khảo. Các báo
cáo kiểm toán của các công ty này đối với hoạt động của Ngân hàng có thể
cung cấp những chi tiết đáng tin cậy về tình hình tài chính và kinh doanh
của NHTMCP, từ đó có được cái nhìn tổng quan về thực trạng của Ngân
hàng. Mặt khác, vì đây là các đánh giá dựa trên các báo cáo tài chính, nên ý
kiến của công ty kiểm toán có thể cho thấy những điểm thiếu minh bạch
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
16
trong hoạt động của Ngân hàng, đây cũng là yếu tố quan trọng khi xem xét
có cho phép niêm yết cổ phiếu của một NHTMCP hay không.
 Hệ số tín nhiệm và thứ hạng của NHTMCP
Bên cạnh những yếu tố định tính ở trên, người ta còn quan tâm đến hệ
số tín nhiệm và thứ hạng của Ngân hàng được đưa ra bởi các tổ chức chuyên
thực hiện việc đánh giá xếp hạng. Ngân hàng sẽ được xếp hạng dựa trên một
loạt các chỉ tiêu về loại hình kinh doanh, uy mô vốn, tỷ lệ nợ xấu, mức độ
sinh lời, cơ cấu tổ chức, nguồn nhân lực, v.v…Mỗi chỉ tiêu được cho một số
nhất định dựa trên các tiêu chuẩn trong thang đo đã đặt ra và tổng hợp lại

theo những trọng số cho sẵn để làm cơ sở cho việc xếp hạng. Nhìn chung,
các NHTMCP muốn được niêm yết cổ phiếu trên thị trường phải là các
Ngân hàng được xếp loại A trong một khoảng thời gian liên tục (thường là
từ 2-3 năm), tức phải có tình hình tài chính lành mạnh, tính an toàn trong
hoạt động cao và khả năng sinh lời tốt.
Bên cạnh các tiêu chuẩn cơ bản trên, mỗi nước khác nhau sẽ có thêm
các điều kiện bổ sung hoặc cụ thể hoá cho phù hợp vói tình hình đặc điểm
kinh tế mỗi nước.

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
17
Kết luận chương 1
Trong chương I, chúng ta đã tìm hiểu về các hoạt động cơ bản của
Ngân hàng thương mại nói chung và việc niêm yết cổ phiếu của Ngân
hàng thương mại cổ phần nói riêng. Đồng thời, chúng ta cũng đã nghiên
cứu các điều kiện để có thể niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng thương mại
cổ phần. Trong chương sau, chúng ta sẽ xem xét và tìm hiểu thực tế các
điều kiện niêm yết của VPBank: những kết quả đã đạt được, mặt hạn chế
và nguyên nhân.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC ĐIỀU KIỆN NIÊM
YẾT CỔ PHIẾU CỦA VPBANK
2.1. KHÁI QUÁT VỀ VPBANK
2.1.1. Sơ lược quá trình phát triển của VPBank
Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Việt Nam (tên viết tắt tiếng Việt – Ngân hàng ngoài quốc doanh - VPBank)
được thành lập theo giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc

Ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian
hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 09 năm
1993 theo giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm 1993.
Thời gian đầu mới hoạt động, Ngân hàng có số vốn điều lệ là 20 tỷ VNĐ do
16 cổ đông sáng lập đóng góp. Qua các năm hoạt động, Ngân hàng đã từng
bước chứng tỏ vị trí của mình trong hệ thống các NHTMVN và trưởng
thành cả về số lượng cũng như chất lượng hoạt động. Sau đó, do nhu cầu
phát triển, VPBank đă tiếp tục tăng vốn điệu lệ lên 70 tỷ VND trong năm
1994 và tiếp tục tăng lên 174,9 tỷ vào năm 1996. đến cuối năm 2004,
VPBank được nâng vốn điều lệ lên 198,4 tỷ. Trong quý I/2005, số vốn điều
lệ của VPBank đă là 243,7 tỷ VND. Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận cho
VPBank tăng vốn điều lệ năm 2006 lên 500 tỷ đồng theo phương án đã được
Đại hội cổ đông thường niên năm 2006 (ngày 31/03/2006) thông qua. Trong
suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở
rộng qui mô, tăng cường mạng lưới hoạt động. Trong năm 2004, VPBank đã
mở thêm 3 chi nhánh cấp I mới đó là chi nhánh Hà Nội, chi nhánh Huế, chi
nhánh Sài Gòn. Đầu năm 2005, VPBank tiếp tục mở thêm 4 chi nhánh cấp I
là chi nhánh Cần Thơ, chi nhánh Quảng Ninh, chi nhánh Vĩnh Phúc và chi
nhánh Bắc Giang.
Tính đến thời điểm lập báo cáo thường niên năm 2005 (tháng 7 năm
2005), hệ thống VPBank có tổng cộng 30 điểm giao dịch gồm có: hội sở
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
19
chính tại Hà Nội, 10 chi nhánh cấp I tại các tỉnh, thành phố của đất nước đó
là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng,
Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc và Bắc Giang; 15 chi nhánh cấp II và 4
phòng giao dịch. Năm 2005 và 2006 , VPBank dự kiến sẽ mở thêm khoảng
20 điểm giao dịch mới tại các tỉnh, thành phố trọng điểm kinh tế của đất
nước.

Bên cạnh việc mở rộng quy mô hoạt động, Ngân hàng còn chú trọng
và quan tâm đến việc xây dựng một đội ngũ cán bộ Ngân hàng năng nổ,
nhiệt tình và có trình độ chuyên môn cao. Tính đến tháng 11/2005 VPBank
có 764 cán bộ nhân viên, trong đó, nam chiếm 44%, nữ chiếm 56%; với độ
tuổi trung bình là 29 và với trình độ đại học và trên đại học là 78%.
Trải qua 13 năm hoạt động và phát triển, VPBank đã từng bước đi lên,
khẳng định vai trò và tiềm năng phát triển của một NHTMCP còn tương đối
non trẻ. Trong các năm tới, VPBank sẽ tiếp tục kiên trì đường lối cải tổ toàn
diện đã đặt ra, xây dựng VPBank trở thành một trong những NHTMCP hàng
đầu khu vực phía Bắc và sẽ phấn đấu sớm trở thành một trong những
NHTMCP hàng đầu Việt Nam, có vị thế và năng lực cạnh tranh trong điều
kiện hội nhập khu vực và quốc tế.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
20
2.1.2. Cơ cấu tổ chức nhân sự
Sơ đồ tổ chức

Đại hội cổ đông
Hội đồng quản trị
Ban Điều hành
Hội đồng tín dụng
Các ban tín dụng
Ban kiểm soát
Phòng kiểm tra kiểm
toán nội bộ
Hội sở
Chi nhánh Hà Nội
Chi nhánh HCM
Chi nhánh Sài Gòn

Chi nhánh Hải Phòng
Chi nhánh Huế
Chi nhánh ĐàNẵng
Chi nhánh Cần Thơ
Chi nhánh Quảng Ninh
Chi nhánh Vĩnh Phúc
Chi nhánh Bắc Giang
Phòng Kế toán
Phòng Ngân quỹ
Phòng tổng hợp và quản lý
chi nhánh
Phòng Thanh toán Quốc tế và
Kiều hối
Phòng Thu hồi nợ
Văn phòng VPbank
Trung tâm tin học
Trung tâm Kiều hối phát
chuyển tiền nhanh Western
Union
Trung tâm đào tạo
Các Chi nhánh cấp II
và các Phòng giao dịch
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
21
Hội đồng quản trị: gồm 5 thành viên trong đó có 3 uỷ viên thường
trực gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch thứ nhất và một uỷ viên thường trức kiêm
Tổng giám đốc, có nhiệm kỳ 4 năm kể từ Đại hội cổ đông thường niên năm
2001 ngày 02/02/2002
Ông Lâm Quang Lộc Chủ tịch HĐQT (thường trực)

Ông Nguyễn Quang A Phó chủ tịch thứ nhất (thường trực)
Ông Dominic Scriven Phó chủ tịch
Ông Lê Đắc Sơn Thành viên (thường trực)
Ông Phạm Hà Trung Thành viên
Ban kiểm soát gồm:
Ông Vũ Hải Bằng Trưởng ban
Bà Phan Thị Thu Hà Thành viên chuyên trách tại hội sở
Bà Nguyễn Thị Liên Thành viên chuyên trách tại CN HCM
Ban Tổng giám đốc gồm:
Ông Lê Đắc Sơn Tổng giám đốc
Ông Trần Văn Hải Phó Tổng giám đốc
Ông Nguyễn Thanh Bình Phó Tổng giám đốc
Tính đến thời điểm tháng 07/2005 số lượng cán bộ, nhân viên của
VPBank trên toàn hệ thống là 607 người (tăng 170 người so với năm 2003),
trong đó có 339 nữ và 268 nam. Về trình độ, có 3 người trình độ trên đại
học, 450 người có trình độ đại học (chiếm 87% tổng nhân sự VPBank). Tính
đến tháng 11/2005, VPBank có 764 cán bộ, nhân viên trong đó nam chiếm
44%, nữ chiếm 56% với độ tuổi trung bình là 29 và trình độ đại học và trên
đại học là 78%. Công tác đánh giá nhân sự định kỳ và bình bầu cá nhân xuất
sắc được duy trì đều đặn, nhờ vậy đã khuyến khích nhân viên công tác tốt.
Bằng việc chăm lo nghiêm túc đến công tác tuyển dụng nhân viên, đồng thời
thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ
cho nhân viên, VPBank đã có một đội ngũ cán bộ, nhân viên năng động,
nhiệt tình và có trình độ nghiệp vụ cao. Đây sẽ là một trong những tiền đề
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
22
giúp Ngân hàng phát triển có thể đương đầu với cạnh tranh khi hệ thống
Ngân hàng Việt Nam bước vào hội nhập.
2.1.3. Kết quả hoạt động của VPBank trong thời gian qua

2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Với mục tiêu trở thành Ngân hàng bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam và
khu vực, VPBank luôn tập trung vào cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng bán lẻ, trong đó hướng mục tiêu phục vụ chủ yếu vào các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể và tầng lớp trung lưu trở lên.
Để cạnh tranh, VPBank đã cho ra đời những sản phẩm mới đáp ứng được
nhu cầu của thị trường. Nhờ đó, lượng vốn mà VPBank huy động được
trong thời gian qua đã liên tục tăng nhanh.
Bảng 1. Kết quả huy động vốn của VPBank
( Nguồn: Báo cáo thường niên của VPBank)
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Huy động từ thị trường 1
1242,884
1824,539
3217
Huy động từ thị trường 2
950,061
2011,256
2353
Tiền gửi khác (ký quỹ, huy động khác)
20,019
37, 018
75
Tổng nguồn huy động
2212,964
3872,813

5645
Chênh lệch so với kỳ trước
¾
1659,849
1772,187
Tăng trưởng so với kỳ trước
¾
75%
45%
Có thể nhận thấy giá trị vốn mà VPBank huy động được tăng trưởng
rất mạnh trong năm 2004, tăng xấp xỉ 1660 tỷ đồng so với năm 2003, với tốc
độ tăng lên tới 75%. Điều này cho thấy uy tín của VPBank đã tăng đáng kể
qua thời gian này, hoàn toàn phù hợp với việc năm 2004 cũng là thời điểm
mà VPBank thoát khỏi diện kiểm soát đặc biệt của Nhà nước. Đến 2005 thì
tốc độ tăng trưởng của tổng vốn huy động đã đạt được là 45%, với chênh
lệch huy động tăng là 1772,187 tỷ đồng. Việc đạt được tỷ lệ tăng trưởng
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
23
45% trong huy động vốn năm 2005 là khá tốt khi đã có sự tăng mạnh so với
thực hiện năm 2004, và cũng không là quá lớn khi mà trong giai đoạn này,
tăng trưởng huy động vốn của các Ngân hàng được coi là quá “nóng” với
tốc độ tăng trung bình đạt xấp xỉ 58%.
Việc tăng cao huy động vốn qua thị trường 1 và giữ một tỷ lệ hợp lý
giữa huy động từ thị trường 1 và thị trường 2 trong tổng nguồn vốn cho thấy
VPBank không những đã nhận được sự tín nhiệm của các tổ chức dân cư mà
còn quản lý khá hiệu quả cơ cấu các nguồn của mình, bởi thị trường 1 sẽ có
chi phí cao hơn, nhưng với thời gian huy động dài hơn, trong khi đó thì thị
trường 2 lại chỉ huy động được trong thời gian ngắn, nhưng bù lại đây là
nguồn vốn “giá rẻ “, không những vậy nó còn làm tăng cường quan hệ giữa

VPBank với các Ngân hàng khác.
Từ bảng 1, ta có:
Bảng 2. Tỷ trọng, tăng trưởng của vốn huy động từ các thị trường
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tỷ trọng huy động tiền gửi
trong tổng nguồn huy động
56,164%
47,11%
57%
Mức tăng so với năm trước
¾
581,655 tỷ
1392,461
tỷ
Thị trường 1
Tăng trưởng so với năm trước
¾
47%
76,3%
Tỷ trọng huy động tiền gửi
trong tổng nguồn huy động
42,93%
51,93%
41,7%
Mức tăng so với năm trước
¾
1061,195 tỷ

341,744 tỷ
Thị trường 2
Tăng trưởng so với năm trước
¾
11,7%
17%
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NguyÔn TiÕn Th¸i Líp: TTCK 44
24
2.1.2.2. Hoạt động tín dụng
Trong hoạt động tín dụng của VPBank, hoạt động cho vay chiếm tỷ
trọng lớn nhất, còn lại các hoạt động bảo lãnh, chiết khấu còn nhỏ, hoạt
động cho thuê đến thời điểm hiện tại vẫn chưa tiến hành.
Do những quy định an toàn trong tín dụng, tại VPBank chỉ tồn tại
hình thức tín dụng thế chấp, tức là tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo, chứ
không tồn tại hình thức tín dụng tín chấp. Tuy vậy, doanh số cho vay của
VPBank vẫn liên tục tăng mạnh qua các năm, với các tỷ lệ nợ xấu ngày càng
giảm, năm 2005 chỉ dừng ở mức 0,75%, các khoản vay đều có tài sản bảo
đảm. Việc tăng trưởng tín dụng phù hợp với quy định của NHNN cũng như
của chính VPBank cho thấy hiệu quả tốt trong công tác tổ chức, quản lý hoạt
động tín dụng của Ngân hàng.
Bảng 3. Kết quả hoạt động tín dụng tại VPBank
( Nguồn: Báo cáo thường niên, Bản tin VPBank)
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Doanh số cho vay
1749

2155
3922
Tốc độ tăng doanh số cho vay
¾
23,2%
82%
Tổng dư nợ
1525
1865
3014
Tốc độ tăng tổng dư nợ
¾
22,3%
61,6%
Tăng trưởng trong tổng huy động vốn và huy động từ dân cư, cũng
như tăng trưởng dư nợ của VPBank có thể được biểu thị qua các biểu đồ
sau:
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nguyễn Tiến Thái Lớp: TTCK 44
25
Biu 1- Tng trng tng ngun vn huy ng v huy ng t dõn
c ca VPBank
( Ngun: Bỏo cỏo tng kt nhim k 2002- 2005)
Đơn vị tính: tỷ đồng
0 1000 2000 3000 4000 5000 6000
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tổng nguồn vốn huy động Huy động vốn từ dân c


Biu 2- Tng trng d n cho vay ca VPBank
( Ngun: Bỏo cỏo tng kt nhim k 2002-2005)
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
D nợ cho vay
1525
1865
3014
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005

×