Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

chứng minh nguyễn khuyến là nhà thơ của làng cảnh việt nam qua chùm thơ thu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.29 KB, 28 trang )

BÀI VĂN MẪU LỚP 11
Đề bài: Chứng minh Nguyễn Khuyến là nhà
thơ của làng cảnh Việt Nam qua chùm thơ
Thu
Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn cuối thế kỉ
XIX, đầu thế kỉ XX của nước ta. Thơ ông đậm
đà tính dân tộc và mang một phong cách riêng
khó lẫn. Có ý kiến cho rằng : “Nguyễn Khuyến
là một trong những nhà thơ đặc sắc của làng
cảnh Việt Nam”. Điều đó thể hiện rất rõ qua
những sáng tác về thiên nhiên, nhất là qua
chùm thơ : “Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm”.
Đáng lưu ý là các chi tiết trong ba bài thơ này
cũng như nhiều bài thơ khác đều rút ra từ cảnh
vật ở quê hương tác giả, một vùng đồng chiêm
trũng quanh năm ngập nước, trong làng vô số
ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc
những mái rạ nghèo.
Tình yêu quê hương, sự hiểu biết tường tận về
làng quê kết hợp với hồn thơ đằm thắm, tinh tế
của tác giả đã sáng tạo nên những vần thơ bất
hủ về mùa thu nơi thôn dã của đồng bằng Bắc
bộ. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến
không phải là những hình ảnh trừu tượng, ước
lệ thường thấy trong thơ cổ điển mà là những
cảnh vật bình dị, thân quen ở nông thôn. Cái
hồn của cảnh vật thấm sâu vào tâm hồn nhà
thơ, đồng điệu với tâm trạng buồn, trăn trở của
ông.
Ba bài thơ, ba cảnh thu khác nhau nhưng hợp
lại thành một bức tranh hoàn chỉnh về mùa thu


với những nét đặc trưng nhất.
“Thu vịnh” vẽ nên cảnh thu với bầu trời “xanh
ngắt”, cao vời vợi, mấy “cành trúc” cong cong,
nhè nhẹ đung đưa trước làn “gió hắt hiu”. Tiết
thu se lạnh, sương khói lãng đãng phủ trên mặt
ao hồ lúc sáng sớm và chiều tối khiến cho
khung cảnh thực trở nên huyền ảo :
Trời thu xanh ngắt từng cao,
Cần trúc lơ phơ, gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Nét đẹp của mùa thu tụ lại ở bầu trời “xanh
ngắt”, ở làn “nước biếc” thấp thoáng khói
sương, ở ánh trăng thu bàng bạc tràn qua song
cửa, gợi nên khung cảnh quen thuộc của một
miền quê yên ả, thanh bình.
Nhà thơ quan sát rất kĩ chuyển biến tinh tế của
cảnh vật trong những thời điểm khác nhau của
một ngày. Tất cả đều gần gũi, gắn bó và đồng
điệu với tâm hồn nhạy cảm của thi nhân.
Ở “Thu điếu”, khung cảnh không mở ra mà thu
nhỏ lại. Ao đã nhỏ, chiếc “thuyền câu” càng
nhỏ : “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Mọi
hoạt động cũng hết sức nhẹ nhàng : “Sóng biếc
theo làn hơi gợn tí. Lá vàng trước gió khẽ đưa
vèo”. Gió heo may chỉ đủ sức bứt lìa những lá
tre, lá trúc vàng úa và lá rơi không thành tiếng.
Trên cao, “trời xanh ngắt” một màu, “tầng mây
lơ lửng” như đứng im một chỗ và ông câu với
cái dáng ngồi “tựa gối ôm cần” cũng như cố

thu mình cho nhỏ lại. Yên lặng bao trùm lên
hết thảy, đến nỗi nghe được cả tiếng “cá đâu
đớp động dưới chân bèo”. Âm thanh ấy càng
làm tăng thêm phần yên lặng. Ông câu thu
mình bất động phải chăng cũng là để tan hòa
vào trời đất xung quanh.
Mùa thu trong “Thu ẩm” lại hiện ra với một vẻ
đẹp khác. Nhà thơ uống rượu một mình dưới
trăng. Hình ảnh làng quê biến hiện theo cái
nhìn, cái cảm dần dần thấm độ say của rượu.
Vẫn là “ba gian nhà cỏ”, “ngõ tối”, “làn ao”,
“bóng trăng”, “da trời”… thường ngày quen
nhìn đến mức chẳng có gì đáng chú ý. Không
đáng chú ý nhưng đó là những cảnh, những vật
từ đất này mà ra, thiếu nó thì hình như không
còn gì là làng xóm tự nghìn xưa. Vậy mà với
tâm trạng u buồn có sẵn, lại được men rượu
ngấm vào khơi lên, nhà thơ thấy cảnh vật nhòe
dần theo con mắt ngà ngà : “nhà” thì “thấp le
te”, “đóm” thêm “lập lòe” , “bóng trăng” thì
“loe”, “mắt”cũng “đỏ hoe” và “người” thì cũng
“say nhè”.
Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng hoe.
Nghĩa là cảnh vật cũng như lảo đảo, chếnh
choáng men say. Người say bởi rượu thì ít mà
bởi buồn đau, day dứt và giận mình bất lực
trước thời thế thì nhiều.

Gác bút lại không làm thơ nữa, quên mình
trong mộng, đắm chìm trong yên lặng hay
uống rượu đến “say nhè” để quên bớt nỗi chua
chát đắng cay đến cùng xuất phát từ tâm tư ấy,
tuy nhiên nó vẫn được ẩn giấu ở bên trong.
Nét chung của ba bài thơ “Thu” đều quy tụ vào
việc tả cảnh vật thân thuộc, đơn sơ mà dung dị,
đáng yêu của làng cảnh Việt Nam. Cái nhìn
trên bề mặt cùng cái hồn đồng quê hiện lên rất
rõ trong từng câu, từng chữ. Cái tình của nhà
thơ cũng thật đằm thắm và tinh tế.
Trong những năm tháng cáo quan về ở ẩn tại
quê nhà, chỉ có thiên nhiên gần gũi, trong sạch,
nên thơ mới giúp Nguyễn Khuyến khuây khỏa
đôi lúc trong khi nỗi buồn thời cuộc thường
xuyên đè nặng trái tim ông.
Ba bài thơ “Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm”
tạo thành một chùm thơ thu tuyệt đẹp, thể hiện
nét tài hoa của ngòi bút cụ Tam Nguyên, tiêu
biểu cho hồn thơ dung dị, thẳm sâu, đầy chất
trữ tình. Bạn đọc Việt Nam yêu thơ Nguyễn
Khuyến, yêu quê hương một phần là từ những
bài thơ đó.

Đề bài: Phân tích ba bài thơ thu (Thu vịnh, Thu
điếu, Thu ẩm) của Nguyễn Khuyến
Mùa thu ở đất Bắc là khoảng thời gian kết thúc
cái oai nồng của mùa hạ, chưa kèm theo mưa
dầm gió bấc của mùa đông
Mùa thu đẹp vì có những đêm trăng vằng vặc,

những ngày xanh thắm tuyệt vời.
Đối với các nhà thơ cận đại, kể cả các nhà Thơ
Mới nữa thì mùa thu là mùa của cảm xúc, của
thương nhớ. Trong làng thơ Việt Nam sau
Nguyễn Khuyến, Tương Phố, Tản Đà, Lưu
Trọng Lư, Xuân Diệu… đều có những bài thơ
thu nổi tiếng. Tuy vậy, giữa Tam nguyên Yên
Đổ và các nhà thơ mới đang có một khoảng
cách. Thơ thu của Nguyễn Khuyến là thơ của
làng cảnh Việt Nam đậm đà chân thực dù tác
giả có gửi gắm vào trong thơ ít nhiều tâm sự.
Thơ thu của các nhà Thơ Mới từ Giọt lệ thu
(Tương Phố), Tiếng thu (Lưu Trọng Lư) đến
Đây mùa thu tới (Xuân Diệu) chỉ mượn cảnh
thu, sắc thu, màu thu, âm thanh mùa thu để gửi
gắm tâm trạng đượm buồn hay lưu luyến bâng
khuâng trước đất trời đã chuyển sang thu.
Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là hiện
tượng độc đáo và là cống hiến xuất sắc của nhà
thơ.
Cả ba bài đều viết theo thể thất ngôn bát cú
Đường luật. Mỗi bài là một phác thảo với nét
bút của nền hội họa phương Đông, không rườm
rà loè loẹt mà cũng không gò bó khuôn sáo.
Nhà thơ – họa sĩ họ Nguyễn đã đưa chúng ta về
một vùng chân quê quanh năm ngập nước của
đất Hà Nam đầu thế kỷ này vào độ sang thu.
Thu vịnh phác họa khái quát những đặc điểm
nổi bật về mùa thu.
Thu điếu dừng lại ở một không gian và thời

gian cụ thể: trên một ao thu, vào một chiều thu,
một ông già trên chiếc thuyền câu thả mồi đợi
cá.
Thu ẩm quan sát cảnh thu trong nhiều thời
điểm khác nhau để thâu tóm những nét nên thơ
nhất.
Cảnh thu trong Thu vịnh đã được nhà thơ phác
họa như thế nào?
Phần lớn dung lượng bài thơ (6/8 câu) là thơ tả
cảnh. Biên độ không gian và thời gian không
hạn chế: một buổi sáng, một cảnh chiều, một
đêm trăng đượm màu thu. Ta vẫn bắt gặp trời
(c1-2), nước (c3), trăng (c4), hoa (c5) có điểm
xuyết âm thanh vọng lại từ không trung cao vút
nhưng điệu thơ, hồn thơ thì đã vượt khỏi khuôn
sáo kiểu tứ thời, tứ thú, tứ quý… của nét bút
thơ và họa cổ điển.
Nét thu quán xuyến tất cả là bầu trời không ủ
dột, quẩn quanh, tù túng mà cao vời vợi, cao
ngất mấy tầng, cao hút tầm mắt… và thăm
thảm màu xanh huyền diệu. Giữa thu bao la ấy,
một khóm tre xa xa từ thôn vắng lả ngọn theo
làn gió thu nhẹ nhàng uyển chuyển càng tô
thêm sắc thu: Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu như
làm sống động bầu trời vốn tĩnh lặng.
Đối chiếu với trời thu là sông thu vào sáng tinh
mơ, lúc màn đêm đã vén hay vào buổi chiều tà,
lúc bóng ô vừa ngậm non đoài, thời điểm "long
lanh đáy nước in trời"; nước biếc dội lên màu
xanh thơ mộng tạo nên ảo ảnh màn khói mênh

mông mà các nhà thơ cổ điểm thường gọi là
"yên ba giang thượng" (khói sóng trên sông).
Trời thu và nước thu. Thu thuỷ cộng trường
thiên nhất sắc (trời nước một màu) là như vậy.
Sau thu thiên, thu thuỷ là thu nguyệt. Trăng thu
sáng dịu trong trẻo tuyệt trần. Xưa nay trăng
vốn là bạn của thi nhân. Trăng là kẻ đồng hành
chè tiên, nước ghín, nguyệt đeo về (Nguyễn
Trãi); Một trăng, một bóng một người hoá ba
(Nguyễn Huy Tự). Trăng là người chứng giám:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai
miệng một lời song song (Nguyễn Du). Có khi
trăng là kẻ thóc mách Gương Nga chênh chếch
dòm song (Nguyễn Du). Nguyễn Khuyến
không cài song để đón trăng và ngắm trăng
chẳng biết trăng ở đây có đòi thơ Tam nguyên
Yên Đổ như nó đã lọt qua cửa sổ đòi thơ Hồ
Chí Minh: "Trăng vào cửa sổ đòi thơ" – Nhật
kí trong tù. Hẳn là chỉ có trăng thu mới thâm
quen với con người đến thế!
Bây giờ đến hoa thu. "Mấy chùm trước giậu
hoa năm ngoái", ý nhà thơ muốn nói: Mấy
chùm hoa trước giậu đã nở từ năm ngoái nay
lại đã trổ bông chăng? Và hoa thu chỉ là hoa
cúc, một trong bốn loài hoa quý (lan, sen, cúc,
mai) chọn mùa thu để trổ hoa.
Điểm xuyết cảnh thu là tiếng ngỗng trời từ
từng trên không xa tít vọng lại. Âm thanh
không líu lo nhưng con chim oanh học nói
trong tiết xuân sang (Truyện Kiều) mà chỉ

thoáng qua như nâng thêm tầm cao rộng rộng
của không giang hẳn là đàn ngỗng bay nhanh
về phương nam để tránh rét, tường bắt gặp
trong kì thu muộn.
"Nhân hứng" mà tác giả đã vẽ xong bức tranh
thu. Say theo cảnh trí thơ mộng nhưng rồi chợt
tỉnh. Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào – ông Đào
Bành Trạch treo ấn từ quan từ hồi còn trẻ, trở
về vui với cỏ hoa và non xanh nước biếc.
Nguyễn Khuyến cũng đã vứt miếng đỉnh chung
về ở ẩn tại quê nhà. Có lẽ danh nho Nguyễn
Khuyến "thẹn với ông Đào" bởi ông từ cho là
mình từ quan hơi muộn?
Với Thu vịnh, chúng ta cảm thu bằng "nhân
hứng" chung mà nhà thơ để lại; với Thu điếu
chúng ta có một thú vui nhỏ mà cũng rất hấp
dẫn.
Nơi quê hương nhà thơ trước đây lắm ao, lắm
vũng. Có lẽ không riêng gì Nguyễn Khuyến mà
dân quê cả vùng nhất là các ông già, lúc rảnh
rỗi thường lên thuyền nan ngồi thả mồi đợi cá,
coi đó là một thú tiêu khiển chăng? Đối với cụ
Tam nguyên mùa thu câu cá quả là một lạc thú.
Ông đẩy thuyền xa bờ để được đắm mình trong
thiên nhiên bao la trời nước một màu. Chỉ có
câu kết nói đến chuyện thả câu, bài thơ chủ yếu
ghi nhận những quan sát và cảm nhận của nhà
thơ và cảnh vật đang diễn ra quanh mình. Ở
đây mọi chi tiết đều được chắt lọc sao cho mỗi
cảnh sắc chỉ cần điểm một nét, cộng hưởng

thành màu sắc thu đích thực và độc đáo. Ông
kết hợp tuyệt diệu hình ảnh và từ ngữ. Cả bức
tranh có vẻ tĩnh lặng nhưng từng chi tiết thì
động và gợi cảm.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo: nước tinh kết
và lạnh gây cảm giác khẽ rùng mình. Thuyền
câu vốn đã nhỏ bé khi nhập vào không gian
bao la càng trở nên bé xíu "bé tẻo teo". Ngư
ông dường như cảm thấy mình quá bé trước tạo
hoá!
Thuyền vừa xa bờ, cận cảnh dẫn đến một cảm
giác thu mới: Phẳng lặng trong xanh vốn là đặc
tính của mặt nước ao thu, hồ thu. Chỉ thế mà
sau này Tản Đà viết: Trời xanh xanh, nước
xanh xanh, khói lam xây thành: Màu biếc xao
động khi gió thu khẽ khàng lướt qua. "Hơi gợn
tí" nhưng cũng đủ mạnh để đưa chiếc lá già của
cây cao gần bờ lìa cành "đưa vèo" xoay xoay
giữa không gian theo chiều gió… Gió thu là
như vậy.
Bình giảng hai câu 3-4, Xuân Diệu đã viết:
"Thật tài tình! Nhà thơ đã tìm được cái tốc độ
bay của lá, vèo, dễ tương xứng với cái mức độ
gợn của sóng: "tí". Tác giả Đây mùa thu tới
quả thật đã phát hiện đầy đủ tài nghệ của
Nguyễn Khuyến.
Chắc là sau khi đã buông câu, nhà thơ mới có
dịp ngẩng đầu nhìn trời và làng mạc vây
quanh. Trời thăm thẳm một màu xanh, vài đám
mây bạc lững lờ trôi như tôn thêm độ cao xa

của không giang (Tầng mây lơ lửng trời xanh
ngắt). Đường đi lối lại trong thôn viễn rặng
trúc uống lượn vòng vèo không ồn ào náo nhiệt
như những ngày mùa mà êm đềm u tịch. Nhà
thơ "tựa gối ôm cần" chìm đắm vào cảnh vật
tựa sống trong mơ…
Câu kết thức Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Tiếng động của cá đớp mồi đã trả nhà thơ về
cõi thực. Nguyễn Khuyến là ông ngư trên chiếc
thuyền nan mỏng mảnh.
Với Thu ẩm, nhà thơ Hà Nam đưa chúng ta về
nhiều thời điểm khác nhau để cảm nhận vẻ đẹp
mùa thu.
Mở đầu bài thơ, tác giả nói về một ngôi nhà
xuềnh xoàng ở tận sâu trong làng Và (Vị Hạ)
nơi cụ Thượng quan hưu trí thường độc ẩm để
tìm cách lãng quên thế sự; bởi vì người xưa đã
nói: "Chỉ có rượu mới phá được thành sầu".
Từ "năm gian nhà cỏ" này ông nhập vào cảnh
thu và quan sát những nét thu khi về chiều, vào
đêm tối hay buổi trăng thu viên mãn. Thu ẩm
thường diễn ra trong ngôi nhà này vào những
thời điểm kể trên. Không có bóng dáng buổi
mai hồng hay chính ngọ trong thơ thu. Phải
chăng những thời điểm đó không hợp với tạng
của nhà thơ? Hai buổi đêm và một buổi chiều
lần lượt xuất hiện trong Thu ẩm.
Một đêm không trăng dày đặc bóng tối trùm
lấp đường ngõ, "lập loè" ánh sáng đom đóm
vây bủa đường thôn (Ngõ tối đêm sâu đóm lập

loè). Một đêm khác trăng soi vằng vặc "bóng
trăng vàng từ mặt nước ao loé ra, bốn chữ 1 gợi
chất vàng [đang dàn trải] ba dấu sắc khứ thanh
gợi ánh bắn đi từ loa gợi [vòng tròn lan toả]"
(Xuân Diệu). Nguyễn Khuyến dùng thần bút để
cực tả đêm thu.
Một buổi chiều nhẹ thênh từ "nhà cỏ" hay từ
bếp nhà ai toả ra làn khói lam chiều? Một nét

×