Tải bản đầy đủ (.ppt) (47 trang)

Kinh dị Những động vật kí sinh trên cơ thể Người.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.58 MB, 47 trang )

/>ng1975
Trong các quá trình sinh học tự nhiên, mối quan hệ cộng sinh giữa một ký sinh trùng và thân chủ có thể
có những tác động có lợi. Tuy nhiên, mặt tiêu cực của mối quan hệ này thường lớn hơn nhiều so với
mặt tích cực của chúng. Tạp chí New Scientist đã thống kê một số loài ký sinh trùng phổ biến nhất của
con người và những tổn thương mà chúng có thể gây ra cho sức khỏe.
Cơ thể người là một mảnh đất màu mỡ cho các loài “quái vật” kinh dị ký sinh. Chúng ăn, ở,
sinh sôi nảy nở và sau đó quay lại làm hại chúng ta.
Theo VietNamNet (Discovery)
1. Ấu trùng ruồi botfly – làm ổ dưới da/2
2. Sán lá S. mansoni - làm ổ trong não/5
3. Sán lá máu/8
4. Rệp – hút máu/11
5. Ký sinh trùng Amip - ăn não/15
6. Giun chỉ Wuchereria – bệnh chân voi/17
7. Giun lươn S.sis stercoralis/21
8. Ký sinh trùng Toxoplasma gondii/26
9- Giun đũa (Ascaris lumbricoides)/28
10 - Giun móc (Necator americanus)/31
11-Cái ghẻ (S. var. Hominis)/35
12-Sán dây (Taenia solium)/36
13 - Giun kim (E. vermicularis)/38
14-Giun chỉ (Wuchereria bancrofti)/40
15- Ký sinh trùng Toxoplasma gondii/43
16- Trùng roi Giardia lamblia/44
17-Trùng Entamoeba histolytica/45
/>ng1975
1. Ấu trùng ruồi botfly – làm ổ dưới da
/>ng1975
Botfly (150 loài ruồi trâu) thuộc họ Oestroidea, sống chủ yếu ở Mexico, trung - nam Mỹ.
Vòng đời: khi 1 con botfly cái bắt và đẻ trứng lên mình của 1 động vật chân đốt chuyên hút
máu (như muỗi, bọ chét). Con vật trung gian truyền bệnh này sau đó được thả ra để tiếp tục


đi kiếm ăn ở các loài động vật khác (các loài gia súc và con người). Trứng của botfly sẽ nhờ
đó mà lây sang vật chủ. Chúng phản ứng với sự thay đổi nhiệt độ khi truyền từ vật trung gian
sang vật chủ và nở thành ấu trùng. Ấu trùng này đào xới - làm ổ và hút máu dưới da của vật
chủ qua vết đốt của vật trung gian hoặc qua lỗ chân lông. Chỗ chúng làm ổ sẽ sưng tấy, tiết
ra mủ và dịch gây đau nhức (khoảng 12 tuần cho tới lúc phát triển đủ lớn). Sau đó chúng bò
ra ngoài, rớt xuống đất và phát triển thành nhộng ở trong đất. Ở đó chúng làm kén cho tới khi
phát triển thành botfly trưởng thành và lại bắt đầu vòng đời mới.
Điều trị: cách thông thường là lấy ấu trùng ký sinh ra khỏi vật chủ bằng giải phẫu hoặc đơn
giản là nặn chỗ vết thương để đẩy ấu trùng ra.
Cách phòng tránh: thoa thuốc chống muỗi, mặc quần áo bảo vệ, ngủ trong màn để tránh bị
muỗi hoặc bọ chét đốt.
1. Ấu trùng ruồi botfly – làm ổ dưới da
/>ng1975
/>ng1975
2. Sán lá Schistosoma mansoni - làm ổ trong não
Schistosoma mansoni là một loài sán lá hút máu của những động vật có vú.
Chúng sống ở những hồ nước ngọt vùng nhiệt đới ở châu Phi, Á, và Nam Mỹ.
/>ng1975
Vòng đời bắt đầu khi 1 con giun trưởng thành đẻ trứng trên các mạch máu quanh thành
ruột của vật chủ. Trứng theo phân ra ngoài, khi tiếp xúc với nước, chúng nở thành những ấu
trùng cực nhỏ bám và chui qua phần thân mềm của những con ốc để phát triển thành ấu
trùng giun, lớn lên và trồi ra khỏi mình con ốc để tìm vật chủ khác với nguồn cung cấp máu.
Khi gia súc hoặc con người tiếp xúc với vùng nước này, axít béo trên da sẽ hấp dẫn ấu trùng,
khiến chúng bơi đến và bám vào mình vật chủ. Chúng tìm đến vết thương hở hoặc lỗ chân
lông, phóng 1 chất hóa học có khả năng phân hủy da để tạo 1 lỗ nhỏ đủ cho chúng bơi vào
cơ thể vật chủ. Trong vật chủ, chúng hút máu và phát triển thành giun trưởng thành. Chúng
thường sống, giao phối trong các mạch máu gần gan và đẻ trứng gần thành ruột. Trứng bám
theo phân của vật chủ và bắt đầu vòng đời mới.
Tác hại: Ước tính hàng năm có khoảng 200 triệu
cá thể trên khắp thế giới bị nhiễm loại sán này. Nó

có thể tồn tại trong cơ thể vật chủ hàng chục năm
mà không bị phát hiện, âm thầm phá hủy nội tạng
của vật chủ như gan, ruột, phổi, lá lách. Rất nguy
hiểm chết người nếu giun đi lạc lên não.
Ở trẻ em, bệnh gây thiếu máu, suy dinh dưỡng, ảnh
hưởng đến khả năng học tập. Trường hợp nghiêm
trọng, giun di chuyển lên não, đẻ trứng và làm ổ ở
não hoặc tủy sống, gây nên tai biến, liệt, hoặc thậm
chí tử vong.
Chu kỳ của Schistosoma mansoni.jpg
/>ng1975
Cơ chế miễn dịch chống
Sán lá Schistosoma
Điều trị:
uống thuốc sổ giun có
chứa Praziquantel làm
tê liệt giun là cách phổ
biến nhất.
Phòng ngừa:
tránh tiếp xúc với nguồn
nước bị ô nhiễm, đặc
biệt là nước thải.
/>ng1975
3 - Sán lá máu
(Schistosoma mansoni, S. haematobium, S. japonicum):
Chúng là những con sán lá nhỏ sống trong máu của thân chủ và gây ra bệnh máu
nhiễm giun. Vốn sống trong nước, sán lá máu xuyên qua da của nạn nhân khi họ tiếp
xúc với nước bị ô nhiễm. Chúng lá nguyên nhân gây viêm nhiễm ký sinh trùng (sưng)
và tổn thương các cơ quan nội tạng, đặc biệt là gan. Những con sán trưởng thành vẫn
có khả năng tồn tại thân chủ nhân trong nhiều thập niên, và có thể không gây ra bất kỳ

triệu chứng nào trong nhiều năm. Chúng rời khỏi thân chủ qua trong phân và và có thể
trải qua một phần của vòng đời trong cơ thể loài ốc sên. Triệu chứng nhiễm sán lá máu:
sốt, đau, ho, tiêu chảy, sưng hạch, đờ đẫn.
/>ng1975
Cấu tạo

vòng đời
của sán lá
/>ng1975
Vòng đời
của sán lá gan, sán lá phổi
/>ng1975
4. Rệp – hút máu
/>ng1975
Rệp (bedbug): là loài bọ nhỏ, thuộc động vật hút máu (Hematophagy), cánh nửa cứng, mình
dẹp, tiết chất hôi, hút máu người, chuyên sống ở khe giường, chiếu chăn,
Vòng đời của rệp: của con đực khi nó dùng cơ quan sinh dục của mình đâm vào lưng con
cái (giao phối bạo lực - thụ tinh cho trứng). Vết thương ở con cái sẽ liền trong vòng 24 tiếng,
sau đó nó bắt đầu đẻ trứng: khoảng 12 trứng/ngày, nó có thể đẻ 500 trứng/vòng đời. Trong
vòng 10 ngày, những cái trứng sẽ nở thành nhộng, chúng bị hấp dẫn bởi nguồn máu nóng
của động vật như gia súc hoặc con người.
CO2 trong hơi thở và nhiệt độ cơ thể người là những yếu tố hấp dẫn rệp: Chúng dùng vòi để
hút máu những vật chủ chủ quan (trong lúc ngủ) (rệp thường sinh hoạt về đêm). Sau khi hút
no, rệp ẩn trốn để tiêu hóa trong khoảng 7 ngày. Chúng lột xác khoảng 4 lần trước khi trưởng
thành, giao phối và bắt đầu vòng đời mới. Khi bị cắn thường xuất hiện triệu chứng ngứa, vết
cắn bị sưng đỏ; gây trằn trọc, khó chịu vào buổi tối.
Điều trị: các thuốc chứa antihistamine hoặc corticosteroids thường được chỉ định để giảm
các triệu chứng do rệp cắn. Các loại thuốc mỡ khử trùng và kháng sinh dùng để tránh nhiễm
trùng. Sau khi phát hiện bị rệp cắn, phải giặt toàn bộ quần áo, đệm, giường để diệt tận gốc.
Phòng tránh: vệ sinh quần áo, đệm, giường, ghế thường xuyên. Dùng thuốc diệt rệp và

trứng rệp
/>ng1975
Rệp là loài chạy rất nhanh, sợ ánh sáng nên hút máu về
ban đêm thường là 1 giờ trước khi bình minh.
/>ng1975
Vòng đời: Từ trứng - ấu trùng, sau 5 lần hút
máu - lột xác thành rệp trưởng thành, có khả
năng đẻ trứng.
Con trưởng thảnh có thể sống đến 6-9 tháng
nếu hút máu thường xuyên hoặc ngủ đông
đến 1 năm mà không cần hút máu.
Con trưởng thành sau khi giao phối, đẻ 5
trứng/ngày (cả vòng đời đẻ 500 trứng).
- Ai cũng có thể bị nhiễm rệp nhưng lại không hề biết mình bị nhiễm cho đến khi đã bị
khá nặng. Bị nhiễm rệp không có nghĩa là bạn ở bẩn trừ khi là bị nhiễm cực nặng tức là
rệp ở khắp nơi.
-
Rệp cần máu người, sống ở tất cả những nơi quanh bạn nên lây lan nhanh; ít lây bệnh
truyền nhiễm ít nguy hiểm hơn muỗi hay rận, chỉ gây khó chịu mất ngủ, đặc biệt là rất
khó để diệt tận gốc khi thiếu quan tâm và không biết cách ngăn ngừa lây lan trong cộng
đồng.
-
Rệp không có thói quen sống kí sinh vào người, ở trên quần áo vì chúng rất rất nhát.
/>ng1975
5. Ký sinh trùng Amip - ăn não
Naegleria fowleri là loài ký sinh chủ yếu ở nước ngọt và trong đất. Vòng đời: bắt đầu ở
dạng bào xác bám ở đáy các hồ nước ngọt. Chúng xâm nhập vào cơ thể người qua
đường mũi khi tiếp xúc với nước bị nhiễm ấu trùng giun - bơi lên não và tủy sống, phá
hủy mô não. Khi bị hệ miễn dịch tấn công, khi môi trường không thuận lợi, chúng kết
bào xác để tự vệ. Khi nguy hiểm đã qua, chúng lột xác, bắt đầu tự phân chia và một

vòng đời mới bắt đầu.
/>ng1975
Tác hại và triệu chứng: Ký sinh trùng amip (Naegleria fowleri) thường gây viêm não
nghiêm trọng dẫn đến tử vong do mô não bị phá hủy. Triệu chứng thường xuất hiện sau
2 tuần nhiễm khuẩn, biểu hiện ở nhức đầu, sốt, buồn nôn, cổ bị cứng. Nặng hơn, người
bệnh cảm thấy choáng váng, mất thăng bằng. Cũng có thể bị đột quỵ, ảo giác. Quá
trình phát bệnh rất nhanh, có thể gây tử vong trong 3-7 ngày. Chúng là loài ký sinh ưa
nhiệt, vì thế bệnh lây nhiễm nhanh vào mùa hè.
Điều trị: chưa có thuốc đặc trị.
Phòng tránh: tránh tiếp xúc với nước bị ô nhiễm. Dùng kẹp mũi khi đi bơi để hạn chế
sự lây lan.
/>ng1975
6. Giun chỉ Wuchereria – gây bệnh chân voi
Giun chỉ Wuchereria bancrofti là loài ký sinh phổ biến ở Đông Nam Á. Giun chỉ bao gồm
tất cả các lọai giun có kích thước rất dài, không sinh trứng mà sinh con, các ấu trùng
được phóng thích vào trong máu, trong dịch lympho, da hay trong mô.
/>ng1975
Vòng đời giun chỉ: khi 1 con muỗi nhiễm ấu trùng giun hút máu sinh vật chủ chuyển hàng
trăm ấu trùng vào mạch máu đến mạch bạch huyết, ở đó chúng phát triển thành giun trưởng
thành dài từ 7-10cm. Giun trưởng thành sinh ra vô số ấu trùng - rời mạch bạch huyết đến các
cơ quan khác của cơ thể. Ban ngày ấu trùng nằm trong phổi, đến đêm, khi nhiệt độ cơ thể
vật chủ hạ thấp, chúng bò ra ngoài da để nhờ muỗi mang đi phát tán, bắt đầu vòng đời mới.
Những trường hợp nhiễm nghiêm trọng, giun chỉ gây ra bệnh phù chân voi (hiện tượng sưng
phù ở chân với kích cỡ khủng khiếp). Giun chỉ có thể ký sinh hàng chục năm trong cơ thể
trước khi bị phát hiện thông qua các triệu chứng về hô hấp (do ấu trùng tập trung trong phổi)
thường bị nhầm với hen suyễn. Qua nhiềm năm, xác chết của giun tích tụ ở mạch bạch huyết
gây hiện tượng sưng phù ở chân, mưng mủ, chảy nước dịch ở chân lông.
Điều trị: thuốc diệt ký sinh anti-parasitic kết hợp với việc tắm rửa và chăm sóc da triệt để.
Tập thể dục, matxa có thể làm dịu các cơn đau.
Phòng tránh: bôi thuốc chống côn trùng và mắc màn khi đi ngủ.

/>ng1975
Con đường lây nhiễm: Ấu trùng giun chỉ được muỗi hút theo máu, một số thóat khỏi sự
tiêu hóa của muỗi nhờ chui kịp vào xoang chung trở thành dạng nhiễm, rồi thừa dịp
muỗi đi hút máu mà lại nhiễm người khác.
Muỗi truyền bệnh giun chỉ này là những lọai muỗi Culex, Aedes, Anopheles và
Mansonia Chúng chích người vào buổi chiều và buổi tối. Chỉ có muỗi cái mới hút máu,
và chúng hút vào lúc ấu trùng giun chỉ xuất hiện trong máu ngọai vi.
Triệu chứng: gây bệnh viêm và tắc nghẽn mạch lympho, người bệnh thấy khó chịu, mất
ngủ, hay thức giấc vì những cơn đau khu trú ở những nơi như : nách, háng, bộ phận
sinh dục, bìu dái; Từng nơi bị nổi phồng, sưng với nổi hạch, dần dần hạch nổi khắp nơi,
xuất hiện những cơn hen suyễn, bạch cầu toan tính trong máu tăng đến 70-90%, ở phổi
thì xuất hiện những đám thâm nhiễm bạch cầu toan tính, sốt 38-38,50C. Gây hội
chứng Weingarten điển hình: viêm mạch lympho ở các chi, ở bìu dái, viêm tinh hòan
làm cho các tổ chức này phồng lên to gấp bội lần.
Giun chỉ ký sinh hệ lympho
/>ng1975
/>ng1975
7. Giun lươn Strongyloidiasis stercoralis
Strongyloides là giun ký sinh ở người gây ra các bệnh về đường ruột. Giai đoạn ấu
trùng chúng có dạnh như sợi chỉ, tồn tại độc lập trong đất.
/>ng1975
Vòng đời của nó bắt đầu khi vật chủ tiếp xúc với đất có nhiễm phân, ấu trùng xâm nhập
qua da, di chuyển đến các động mạch ở phổi, từ đó chúng đến cơ quan hô hấp của vật
chủ đợi cho đến khi được nuốt vào ruột. Ở hệ tiêu hóa, chúng làm tổ và sống thoải mái
ở ruột non cho đến khi trưởng thành và tiếp tục sinh sản. Mỗi con cái trưởng thành có
thể sống đến 5 năm. Chúng đẻ ấu trùng vào phân của vật chủ, theo phân ra ngoài và
tiếp tục vòng đời bất tận của chúng. Đôi khi ấu trùng tự lột xác để phát triển thành một
dạng ấu trùng sống ký sinh trong ruột, rồi sẽ đâm xuyên thành ruột và di chuyển khắp
cơ thể đến gan và phổi.
Vật chủ nhiễm giun lươn thường có biểu hiện các bệnh về đường ruột như bụng trương

phồng, đau bụng, tiêu chảy, có thể gây phát ban, thường là ở chân hoặc lan khắp cơ
thể (gây ho, thở khò khè và một số triệu chứng giống như bệnh viêm màng não).
Điều trị: Nếu có nghi ngờ bị nhiễm giun, hãy đi khám ngay để kịp thời điều trị, tránh biến
chứng nguy hiểm. Khi bị nhiễm giun lươn, cần điều trị ngay bằng Thuốc ivermectin
hoặc albendazole.
Phòng tránh: ở những vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới cần tránh để da tiếp xúc trực tiếp
với đất có nhiễm phân. Xây dựng hệ thống xử lý chất thải.
Lịch sử: Năm 1876, tác giả Normand ghi nhận có một loài giun nhỏ nằm trong thành hồi
tràng, ống mật và ống tụy khi giải phẩu tử thi 5 bệnh nhân bị tử vong do tiêu chảy không
rõ nguyên nhân ở Cochin-China.
/>ng1975
Phân bố địa lý bệnh giun lươn: lan rộng hầu khắp các quốc gia trên thế giới,
phổ biến hơn là ở các vùng nhiệt đới châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ.
Trong một vài điều kiện, chu kỳ ký sinh xảy ra, ấu trùng giai đoạn 1 (Rhabditiform) lột vỏ
2 lần để tạo ra thể nhiễm trong vòng vài ngày; ấu trùng giai đoạn nhiễm sống trên bề
mặt của lớp đất, trên các thực vật và tồn tại khoảng vài ngày. Khi tiếp xúc với da người,
chúng xâm nhập gây ra viêm da ở vi trí xuyên vào. Chúng tấn công vào mạch máu nhỏ
hoặc hệ mạch lympho, đi đến tim rồi đến phổi. Sau khi xuyên qua phế nang, chúng đến
hệ hô hấp, đến hầu họng rồi xuống thực quản đến ruột non. Quá trình lột vỏ có thể diễn
ra trong suốt quá trình di chuyển đến hệ hô hấp và/ hoặc khi chúng đến ruột non và
trưởng thành ở đó. Con giun cái đào hàm trong niêm mạc ruột và đẻ trứng trong thời
gian 17 ngày kể từ khi ấu trùng tiếp xúc/ xuyên da. Lượng trứng đẻ ra không vượt quá
50 trên một ngày.
/>ng1975
/>ng1975
Giun lươn lây nhiễm cho
người :Giun lươn tồn tại trong cơ
thể con người hoặc ngoài môi
trường tự do với 3 dạng: giun
trưởng thành, trứng và ấu trùng;

giun sinh sản, phát triển và lây
nhiễm theo các chu trình sau:
Ấu trùng giun lươn xâm nhập cơ thể bằng cách chui qua da, theo đường tĩnh mạch về
tim, qua phổi, lên khí quản - tới hầu, thực quản, xuống ruột để trở thành giun trưởng
thành. Giun lươn là loại KST có chu kỳ phức tạp: giun đực, giun cái trưởng thành sống
ở ruột, ấu trùng phát triển ở ngoại cảnh (đôi khi giun trưởng thành cũng sống được ở
ngoại cảnh). Nếu cường độ nhiễm đáng kể, giun lươn gây rối loạn tiêu hóa. Giun
trưởng thành ký sinh ở niêm mạc ruột, sau khi giao hợp sẽ đẻ trứng - phát triển thành
ấu trùng dạng tự do và bị thải ra ngoài: tiếp tục phát triển thành giun trưởng thành, xâm
nhập cơ thể người và gây bệnh. Khi ấu trùng xuyên qua da, bệnh nhân có thể thấy biểu
hiện viêm, ngứa da kiểu dị ứng. Nếu cường độ nhiễm cao mới xuất hiện rõ những triệu
chứng về tiêu hóa: tiêu chảy 5-7 lần /ngày, phân lỏng toàn nước. Bệnh nhân thường bị
thiếu máu nhẹ đến trung bình, suy nhược thần kinh. Một số trường hợp giun lươn lạc
chỗ có thể gây các triệu chứng viêm phổi bất thường (hội chứng Loffler).

×