Đề tài: Thực trạng
biến động cung -cầu
của sữa Vnamilk
trong hai năm
2008-2009
MỤC LỤC
Đề tài: Thực trạng biến động cung -cầu của sữa Vnamilk trong hai năm 2008-
2009 1
MỤC LỤC 2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây thị trường sữa ở Việt Nam cũng như trên thế giới có
nhiều biến động. Cuộc khủng hoảng sữa xảy ra, giá sữa tăng cao làm ảnh hưởng đến
tâm lý của người tiêu dùng.Sữa và các sản phẩm từ sữa đã gần gũi hơn với người dân,
nếu trước những năm 90 chỉ có 1-2 nhà sản xuất, phân phối sữa, chủ yếu là sữa đặc và
sữa bột ( nhập ngoại), hiện nay thị trường sữa Việt Nam đã có gần 20 hãng nội địa và
rất nhiều doanh nghiệp phân phối sữa chia nhau một thị trường tiềm năng với 80 triệu
dân. Nhìn vào biểu đồ ta thấy tổng lượng tiêu thụ sữa Việt Nam liên tục tăng mạnh
với mức từ 15-20% năm, theo dự báo đến năm 2010 mức tiêu thụ sữa tại thị trường sẽ
tăng gấp đôi và tiếp tục tăng gấp đôi vào năm 2020.
Về mức tiêu thụ sữa trung bình của Việt Nam hiện nay khoảng 7,8
kg/người/năm tức là đã tăng gấp 12 lần so với những năm đầu thập niên 90. Theo dự
báo trong thời gian sắp tới mức tiêu thụ sữa sẽ tăng từ 15-20% ( tăng theo thu nhập
bình quân). Sản phẩm sữa là sản phẩm dinh dưỡng bổ sung ngoài các bữa ăn hàng
2
ngày, với trẻ em, thanh thiếu niên và những người trung tuổi – sữa có tác dụng lớn hỗ
trợ sức khỏe. Trên thị trường có rất nhiều loại bột ngũ cốc, đồ uống tăng cường sức
khỏe… nhưng các sản phẩm này về chất lượng và độ dinh dưỡng không hoàn toàn
thay thế được sữa.
Chính vì thế, chúng em đã lựa chọn đề tài “Thực trạng biến động cung – cầu
và giá cả của Vinamilk trong hai năm 2008 &2009” cho bài tiểu luận để phân tích,
tìm hiểu làm rõ hơn về vấn đề này. Do kiến thức còn hạn chế nên bài tiểu luận của
chúng em còn rất nhiều thiếu sót, rất mong sự đóng góp của thầy cô giáo, đặc biệt là
cô giáo Nguyễn Thị Hoàng Oanh và cô giáo Nguyễn Thị Thanh Hà để báo cáo của
chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.
Nhóm thực hiện
Nhóm 22
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CUNG - CẦU HÀNG HÓA VÀ CƠ CHẾ
HÌNH THÀNH GIÁ CẢ
1.1 Cầu
1.1.1. Khái niệm
Cầu là thuật ngữ mô tả thái độ và khả năng mua về hàng hoá và dịch vụ nào đó
ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Khi nói đến cầu hàng hoá phải hội tụ được hai yếu tố cơ bản là sở thích mua
hàng và khả năng thanh toán cho hàng hoá hay dịch vụ đó. Cầu là tập hợp các mối
quan hệ giữa giá cả và lượng cầu với điều kiện các nhân tố khác ảnh hưởng đến lượng
cầu là không thay đổi.
Lượng cầu là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng mong muốn
và có khả năng mua tại nỗi mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định
với giả định các nhân tố khác không đổi.
3
Cầu cá nhân là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà một cá nhân mong muốn
mua và có khả nang mua tại các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất
định với các giả định các nhân tố khác không đổi.
Cầu thị trường: là tổng cầu cá nhân ở các mức giá. Khi cộng lượng cầu các
nhân ở mỗi mức giá, chúng ta được lượng cầu thị trường tại mỗi mức giá.
Để biểu diễn mối quan hệ giữa giá và lượng cầu (các nhân tố kahcs không đổi),
người ta sử dụng biểu cầu, đường cầu, hàm cầu.
- Biểu cầu: là bảng chỉ số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ người tiêu dùng sẵn
sàng mua và có khả năng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Giá tăng lên lượng cầu giảm dần. Giá giảm lượng cầu tăng. Cầu thị trường bằng
tổng cầu các cá nhân ở các mức giá khác nhau.
Q
TT
=
∑
=
n
i 1
Q
i
Trong đó i là số người mua trên thị trường.
- Đường cầu: là tập hợp các điểm biểu diễn lượng cầu tương ứng với các mức
giá. Đường cầu mô tả mối quan hệ giữa giá và lượng cầu khi các yếu tố khác không
đổi. Với giả thiết bỏ qua các yếu tố liên quan thì quan hệ giữa lượng cầu và giá cả là
quan hệ tỷ lệ nghịch. Đường cầu có xu hướng dốc xuống từ trái sang phải, nếu giá cả
tăng lượng cầu giảm và giá cả giảm thì lượng cầu tăng lên.
1.1.2. Những nhân tố tác động tới lượng cầu
- Thu nhập của người tiêu dùng: là một yếu tố quan trọng xác định cầu hàng
hoá. Thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mua của người tiêu dùng. Khi thu
nhập tăng thì cầu đối với đa số hàng hoá tăng lên và ngược lại.
- Giá cả của hàng hóa thay thế có liên quan: Hàng hóa liên quan là hàng hóa có
các đặc tính về giá trị sử dụng hoặc là thay thế bổ sung cho một hàng hóa nào đó trên
thị trường.
Hàng hóa có liên quan đến hàng hóa đang nghiên cứu được chia thành hai loại:
hàng hóa thay thế và hàng hóa bổ sung.
+ Hàng hoá thay thế: là hàng hóa có thể sử dụng thay cho hàng hóa khác nhưng
vẫn đảm bảo được mục đích sử dụng ban đầu.
+ Hàng hóa bổ sung: là những hàng hóa phải sử dụng đồng thời với các hàng
hóa khác.
- Thị hiếu của người tiêu dùng: là sở thích hay sự ưu tiên của người tiêu dùng
đối với hàng hóa dịch vụ nhất định.
4
- Số lượng người tiêu dùng: Nếu các yếu tố khác (thị hiếu, thu nhập,…) là như
nhau thì dân số tăng hay quy mô thị trường tưng dẫn đến nhu cầu về hàng hóa tăng.
- Kỳ vọng của người tiêu dùng: Là những dự đoán của người tiêu dùng về
nhwungx thay đổi trong tương lai của các yếu tố giá cẩ, thu nhập, thị hiếu… làm ảnh
hưởng tới cầu hiện tại. Nếu những thay đổi đó có lợi, cầu hiện tại sẽ giảm. Ngược lại,
nếu những diễn biến đổi đó là bất lợi, cầu hiện tại sẽ tăng.
1.1.3. Sự dịch chuyển đường cầu
Khi giá cả được giữ cố định P
1
, lượng cầu tăng từ Q
1
đến Q
2
tương ứng với sự
dịch chuyển đường cầu từ điểm A → C. Sự dịch chuyển đường cầu là do nguyên nhân
bên ngoài, dưới tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến lượng cầu hàng hoá như thu
nhập, giá cả hàng hoá liên quan, thị hiếu, dân số, các kỳ vọng…
- I tăng cầu hàng hoá bình thường tăng đường cầu D địch chuyển sang phải D
→
D'
- I tăng cầu hàng hoá thứ cấp giảm địch chuyển sang trái D
→
D'
Hình 1.1. Ảnh hưởng thu nhập I
5
Thị trường
Hàng hoá thông thường
Thị trường
Hàng thứ cấp
P
Q
Q
1
Q
1
’
P
1
D
D'
0
P
Q
Q
1
’
Q
1
P
1
D’
D
0
Thị trường
Hàng hoá thay thế
Thị trường
Hàng hoá bổsung
P
Q
Q
1
Q
1
’
P
1
D
D'
0
P
Q
Q
1
’
Q
1
P
1
D’
D
0
-P tăng cầu hàng hoá thay thế tăng địch chuyển sang phải D - >D'
- P tăng cầu hàng hoá bổ sung giảm đường cầu D dịch chuyển sang trái D -> D'
Hình 1.2. Tác động của hàng hoá liên quan
1.2. Cung
1.2.1. Khái niệm
Cung là số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người bán có khả năng bán và và sẵn
sang bán tại các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Cung bao gồm hai yếu tố cơ bản là khả năng và ý muốn sẵn sang bán hàng hóa,
dịch vụ của người bán.
Lượng cung là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng bán
và sẵn sàng bán tại mỗi mức giá khác nhac trong một khoảng thời gian nhất định với
giả định các nhân tố khác không thay đổi.
Cung cá nhân là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà một người bán mong muốn
bán và có khả năng bán tại các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất
định với giả định các nhân tố khác không đổi.
Cung thị trường là tổng cung cá nhân ở các mức giá.
1.2.2. Những nhân tố tác động đến lượng cung
- Các chính sách của chính phủ: Các chính sách của Chính phủ bao giờ cũng
ảnh hưởng trực tiếp tới cung của hang. Những chính sách này có thể làm giảm cung
(thuế) hay tăng cung (trợ cấp). Ngoài ra, ở những chính sách khác (quy định tiền
lương tối thiểu, quy định an toàn lao động, quy định vệ sinh môi trương…), tùy tính
chất cảu từng chính sách có thê dẫn đến tăng cung hoặc giảm cung.
- Công nghệ sản xuất hàng hóa: Trình độ công nghệ và kỹ thuật sẳn xuất có ảnh
hưởng đến năng suất lao động, qua đó ảnh hưởng đến chi phí và hiệu quả quá trình sản
xuất. Công nghệ tiên tiến, kỹ thuật sản xuất hiện đại sẽ giúp sản xuất ra nhiều sản
phẩm hơn với cùng một lượng yếu tố sản xuất như cũ; ngược lại, cung sẽ giảm. Điều
này giải thích vì sao các hang đều quan tâm đến vấn đề đổi mới công nghệ sản xuất và
ngân sách chi cho vấn đề này thường chiếm một khoản khá lớn trong tổng chi phí
doanh nghiệp.
- Chi phí sản xuất: Việc thay đổi giá cẩ các yếu tố ảnh hưởng tới chi phí sản
xuất, do vật sẽ ảnh hưởng tới số lượng đầu ra của các doanh nghiệp ở mỗi mức giá.
Nếu giá của các yếu tố đầu vào giảm sẽ dẫn đến chi phí sản xuất giảm và cơ hội kiếm
lợi nhuận cao, các doanh nghiệp sẽ quyết định cung ứng nhiều hơn.
- Kỳ vọng của người bán: Kỳ vọng là những dự đoán của người bán về những
diễn biến của các yếu tố giá cả, thu nhập, thị hiếu… trong tương lai làm ảnh hưởng tới
6
cung hiện tại. Nếu những thây đổi đó là có lợi, cung hiện tại sẽ giảm. Ngược lại, nếu
những diễn biến đó bất lợi, cung hiện tại sẽ tăng.
- Số lượng người bán: Số lượng người bán cũng phản ánh quy mô của thị
trường. thị trường có quy mô càng lớn, càng nhiều nhà cung cấp thì cung càng cao và
ngược lại.
1.2.3. Sự dịch chuyển đường cung
Sự dịch chuyển đường cung là do các nhân tố bên ngoài, dưới tác động của các
nhân tố ảnh hưởng đến lượng cung hàng hoá như thu nhập, giá cả hàng hoá liên quan,
thị hiếu, dân số, các kỳ vọng…. Khi các nhân tố thay đổi làm cung thay đổi tạo ra sựu
dịch chuyển đường cung.
Hình 1.3. Sự dịch chuyển đường cung
1.3.
Q
S’
P
P
*
Q
1
Q
2
S
7
PHẦN II: THỰC TRẠNG CUNG CẦU VÀ GIÁ CẢ
CỦA SỮA VINAMILK
2.1. Giới thiệu sản phẩm sữa Vinamilk
2.1.1. Đặc điểm chung về sản phẩm
Được hình thành từ năm 1976, Công ty sữa Việt Nam (Vinamilk) đã lớn mạnh
và trở thành doanh nghiệp hàng đầu của ngành công nghiệp chế biến sữa, hiện chiếm
lĩnh 75% thị phần sữa tại Việt Nam. Ngoài việc phân phối mạnh mẽ trong nước với
mạng lưới 183 nhà phân phối và gần 94.000 điểm bán hàng phủ đều 64/64 tỉnh thành,
sản phẩm Vinamilk còn được xuất khẩu sang nhiều nước như Mỹ, Pháp, Canada,
Balan, Đức, Khu vực Trung Đông, Đông Nam Á…
Từ khi bắt đầu hoạt động công ty đã xây dựng hệ thống phân phối rộng nhất tại
Việt Nam và đã làm đòn bẩy để giới thiệu các sản phẩm mới. Với sự đã dạng về sản
phẩm, Vinamilk hiện có trên 200 mặt hàng sữa và các sản phẩm từ sữa gồm: sữa đặc,
sữa bột, sưã dinh dưỡng, sữa tươi, kem, sữa chua, phoomai. Và các sản phẩm khác
như: sữa đậu nành, nước ép trái cây, bánh, café hòa tan, nước uống đống chai, trà,
chocolate hòa tan … Vinamlik cung cấp cho thị trường những danh mục các sản
phẩm, hương vị và quy cách bao bì có nhiều lựa chọn nhất.
Các sản phẩm của Vinamilk tuyệt đối không sử dụng nguyên liệu có melamine
và các tạp chất độc hại khác trong sản xuất thực phẩm nói chung, đặc biệt là các sản
phẩm sữa và được chế biến từ sữa. Kiểm soát , kiểm tra chất lượng chặt chẽ toàn bộ
các nguyên liệu đầu vào, quá trình sản xuất và thành phẩm trước khi đưa ra thịt rường.
Tất cả các sản phẩm của Vinamilk đảm bảo 100% các tiêu chuẩn sản phẩm và các tiêu
chí về vệ sinh thực phẩm, không có bất kỳ chất độc hại nào dối với người tiêu dùng,
người tiêu dùng hoàn toàn yên tâm khi sử dụng tất cả các sản phẩm của Vinamilk.
Vinamilk vừa ra mắt sản phẩm sữa giảm cân nặng hiệu quả và an toàn, được
xây dựng với công thức và chế độ điều trị khoa học cho những ai không may gặp tình
trạng thừa cân. Khác các sản phẩm trên thị trường, Vinamilk sữa giảm cân được xây
dựng với công thức hiệu quả và chế độ điều trị khoa học theo từng giai đoạn, hỗ trợ
người thừa cân kiểm soát cân nặng một cách hợp lý mà vẫn đảm bảo duy trì được mọi
sinh hoạt, công việc hằng ngày.
Thử nghiệm lâm sàng trên các đối tượng thừa cân, kết quả cho thấy sau 6 tuần
sử dụng, người uống giảm được khoảng 5,9% trọng lượng cơ thể (khoảng 3,9 kg),
vòng bụng giảm 5 cm, tỷ lệ mỡ cơ thể giảm 2%. Ngoài ra, kết quả phỏng vấn sâu cho
thấy sản phẩm đạt tiêu chuẩn về mùi vị, dễ uống, tiện dụng và người dùng vẫn duy trì
8
mọi hoạt động sinh hoạt, làm việc bình thường. Công thức sữa an toàn, phác đồ điều
trị với 4 giai đoạn: thích nghi, tấn công, củng cố, duy trì phù hợp cho từng mục tiêu
giảm cân nặng và thời gian cụ thể. Với mục tiêu nghiên cứu và đưa ra giải pháp giảm
cân hiệu quả, an toàn phù hợp với thể trạng người Việt Nam, sản phẩm Vinamilk sữa
giảm cân là một bước đột phá mới giúp đem lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng.
Một cân nặng như ý cùng cơ thể khỏe mạnh là điều hoàn toàn có thể đạt được.
Trong thời gian qua, Vinamilk đã không ngừng đổi mới công nghệ, đầu tư dây
chuyền máy móc thiết bị hiện đại nâng cao công tác quản lý và chất lượng sản phẩm
để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Tính theo doanh số và sản lượng, Vinamilk là nhà sản suất sữa hàng đầu tại
Việt Nam. Danh mục sản phẩm của Vinamilk bao gồm: sản phẩm chủ lực là sữa nước
và sữa bột; sản phẩm có giá trị cộng thêm như sữa đặc, yoghurt ăn và yoghurt uống,
kem và phó mát. Vinamilk cung cấp cho thị trường một những danh mục các sản
phẩm, hương vị và qui cách bao bì có nhiều lựa chọn nhất.
Theo Euromonitor, Vinamilk là nhà sản xuất sữa hàng đầu tại Việt Nam trong 3
năm kết thúc ngày 31 tháng 12 năm 2007. Từ khi bắt đầu đi vào hoạt động năm 1976,
Công ty đã xây dựng hệ thống phân phối rộng nhất tại Việt Nam và đã làm đòn bẩy để
giới thiệu các sản phẩm mới như nước ép, sữa đậu nành, nước uống đóng chai và café
cho thị trường.
Phần lớn sản phẩm của Công ty cung cấp cho thị trường dưới thương hiệu
“Vinamilk”, thương hiệu này được bình chọn là một “Thương hiệu Nổi tiếng” và là
một trong nhóm 100 thương hiệu mạnh nhất do Bộ Công Thương bình chọn năm
2006. Vinamilk cũng được bình chọn trong nhóm “Top 10 Hàng Việt Nam chất
lượng cao” từ năm 1995 đến năm 2007.
Hiện tại Công ty tập trung các hoạt động kinh doanh vào thị trường đang tăng
trưởng mạnh tại Việt Nam mà theo Euromonitor là tăng trưởng bình quân 7.85% từ
năm 1997 đến 2007. Đa phần sản phẩm được sản xuất tại chín nhà máy với tổng công
suất khoảng 570.406 tấn sữa mỗi năm. Công ty sở hữu một mạng lưới phân phối rộng
lớn trên cả nước, đó là điều kiện thuận lợi để chúng tôi đưa sản phẩm đến số lượng lớn
người tiêu dùng.
2.1.2. Những nhân tố tác động đến giá cả
Trong năm 2008, Vinamilk dự kiến đầu tư vào các nhà máy và vùng nguyên
liệu sữa. Để chủ động về nguồn nguyên liệu cho cac nhà máy chế biến sữa, Vinamilk
đã có chủ trương giảm dần nguyên liệu nhập khẩu, phát triển đàn bò sữa trong nước
cung cấp sữa tươi nguyên liệu cho các nhà máy, với cam kết bao tiêu toàn bộ sản
phẩm sữa tươi nguyên liệu cho người chăn nuôi bò sữa trong cả nước. Theo Báo Cáo
9
của hội đồng cổ đông năm 2007, Vinamilk thu mua khoảng 40% sữa tươi nguyên liệu
tại Việt Nam.
Do nguồn nguyên liệu sữa nội địa chưa đạt tiêu chuẩn thật ổn định, Vinamilk đã
quyết định đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu sữa tươi dưới các hình thức trang trại
chăn nuôi bò sữa quy mô công nghiệp khép kín, với quy trình công nghệ hiện đại, tiên
tiến song song với phát triển chăn nuôi bò sữa nông hộ nhằm cung cấp nguồn sữa tươi
nguyên liệu ổn định.
Dự kiến công ty sẽ xây dựng các trang trại chăn nuôi bò sữa công nghệ cao tại
Nghệ An, Vĩnh Phúc, Lâm Đồng, Bình Định, Bình Dương, Sóc Trăng… Quy mô trang
trại là 2000con/trại cung cấp trung bình 30 triệu lít sữa/năm.
Trong năm 2008, theo giới kinh doanh nguyên liệu sữa, giá sữa bột nguyên kem
chỉ còn 3.400 USD/tấn; sữa bột gầy còn 2.800 USD – 3.000 USD / tấn. NGuyên liệu
sữa bột béo với độ đạm cao hiện cũng chỉ còn 4.500 USD /tấn (giẩm hơn 40% so với
năm 2007). Đi ngược với xu hướng ngành sữa thế giới, giá bán sữa thành phẩm Việt
Nam trong thời gian qua chủ yếu không thay đổi sau thời gian tăng mạnh suốt hơn một
năm trước đó.
Như vậy, giá sữa tươi nguyên liệu thấp và giảm mạnh trong khoảng thời gian
dài khi giá thành không bị điều chỉnh là yếu tố để Vinamilk hưởng lợi từ điều này,
đóng góp một phần vào khả năng hoàn thành kế hoạch lợi nhuận chung của cả công ty.
Tuy nhiên, đến cuối năm 2008 khi sự cố melamine xảy ra, sữa và các sản phẩm
từ sữa lập tức bị ảnh hưởng, sữa nhiễm melamine đã gây tâm lý hoang mang cho
người tiêu dùng, doanh nghiệp không bán được sản phẩm nên hạn chế mua nguyên
liệu của người chăn nuôi, người chăn nuôi không bán được sữa phải đổ đi, tưới cây,
thậm chí là để tắm….Lượng sữa tươi dần ứ đọng lại được người dân dồn đập chuyển
cho các nhà máy. Sự tồn đọng bất bình thường này khiến các đại lý nghi ngờ về chất
lượng sữa. Vấn đề đặt ra là bản thân chính các doanh nghiệp cũng đang gặp khó khăn
trong việc tiêu thụ nên doanh nghiệp ép giá người nông dân. Cho thấy việc mua bán
sữa còn bất bình đẳng.
Để giải quyết vấn đề này Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn đã ra quyết
định thu mua sữa của người dân, dự kiến hỗ trợ tại các trạm thu mua là 1.000đồng/lít
trong vòng 3 tháng với tổng ngân sách 3,5 tỷ đồng (tại Hà Nội). Sở Nông nghiệp và
phát triển nông thôn còn đánh giá sẽ thiệt thòi đối với những hộ ở vùng xa, không
mang sữa đến trạm thu hoặc chưa thong qua hệ thống thu mua. Chưa kể, thống kê sản
lượng cụ thể của từng hộ dân, hỗ trợ cho từng con bò lại gặp vướng mắc về xác định
chi kỳ khai thác sữa. Vấn đề trước mắt là các doanh nghiệp cần giảm tỷ lệ sữa bột
nhập khẩu, tăng mua hết sữa tươi cho nông dân (hiện mới chỉ chiếm 8 – 10 % tổng
10
nguyên liệu). Đồng thời nên cải tiến cách thu mua bằng cách ký hợp đồng trực tiếp với
các hộ nông dân.
Nhà sản xuất Vinamilk với thương hiệu đã được xây dựng có uy tín, đa dạng về
các sản phẩm và với lợi thế về hệ thống phân phối rộng khắp, ngành hàng sữa tươi/tiệt
trùng của Vinamilk được dự báo vẫn sẽ được người tiêu dùng tin dùng trong thời gian
tới. Tuy vậy, Vinamilk cũng sẽ chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của Dutch Lady (Cô gái
Hà Lan), Netslé, Mộc Châu và HanoiMilk.
Số liệu khảo sát cho thấy, tỷ lệ người tiêu dùng được hỏi tiếp tục chọn mua sữa
tươi/ tiệt trùng của Vinamilk cao nhất, ví dụ như sữa tươi 100% có đường của
Vinamilk có tỷ lệ người tiêu dùng được hỏi khẳng định tiếp tục chọn chiếm 26,5%.
Đối với sữa tươi/ tiệt trùng Dutch Lady, có 15,3% người tiêu dùng trả lời sẽ lựa chọn
sử dụng sữa tiệt trùng Dutch Lady 100% nguyên chất có đường trong thời gian tới;
10,9% người tiêu dùng chọn sử dụng sữa Dutch Lady có đường.
Sữa chua Dutch Lady và Vinamilk có tỷ lệ người tiêu dùng dự định lựa chọn
trong thời gian tới khá cao. Có 12,4% người tiêu dùng cho biết sẽ sử dụng sản phẩm
sữa chua uống Yomost của hãng sữa Dutch Lady. Trong khi đó sản phẩm sữa chua
uống của Vinamilk cũng có tỷ lệ khá cạnh tranh với sản phẩm sữa chua uống của
Dutch Lady với 8,5% người tiêu dùng sử dụng sản phẩm sữa chua uống vị trái cây
tổng hợp. Điều này cho thấy, HanoiMilk, Dutch Lady cũng đang duy trì được sự cạnh
tranh cần thiết với Vinamilk trong phân khúc thị trường sữa chua.
Việc sử dụng các loại sữa không đạt chất lượng sẽ gây tác hại rất lớn cho người
tiêu dùng, đặc biệt là trẻ em. Nếu trẻ em dùng sản phẩm sữa không đạt hàm lượng đạm
(tiêu chuẩn Việt Nam) kéo dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển thể chất,
trí tuệ của trẻ về sau. Nhất là với những bé vẫn trong giai đoạn ăn sữa hoàn toàn, ăn
sữa không đủ làm lượng đạm, bé sẽ chậm, thậm chí không lên cân, còi cọc, thiếu máu,
suy dinh dưỡng, ảnh hưởng đến sự phát triển cả thể chất và trí tuệ.
Riêng đối với việc tăng giá sữa bất hợp lý thì khỏi phải bàn, giá sữa Việt Nam
hiện cao nhất thế giới và đang có chiều hướng tăng thêm khoảng cách. Theo đánh giá
của nhiều cơ quan quản lý thì giá sữa liên tục tăng chủ yếu là do các nhà sản xuất sữa
nước ngoài nắm bắt được tâm lý của người tiêu dùng Việt Nam - Đó là tâm lý chuộng
và tin tưởng vào hàng ngoại, đặc biệt là không bao giờ tiếc tiền khi chăm sóc cho con
cái mình. Thứ hai, lý do mà các doanh nghiệp đưa ra đó là tỷ giá giữa đồng VNĐ đồng
và USD biến động
Tuy nhiên, đó chỉ mới là các nguyên nhân thứ yếu. Vì thế để kiểm soát tốt mặt
hàng sữa, thì các cơ quan chức năng cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó
chú trọng đến việc tuyên truyền cho người dân nắm được kiến thức, có sự hiểu biết
11
đúng đắn về các loại sữa do Việt Nam sản xuất không thua kém sữa nước ngoài, tránh
trình trạng chuộng hàng ngoại không có căn cứ.
Bên cạnh đó, cần ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh đối với mặt hàng
sữa như bãi bỏ tình trạng độc quyền nhập và phân phối sữa trên thị trường Việt Nam
của một số nhà nhập khẩu trong nước nhằm hạn chế tình trạng áp đặt giá cao so với
thực tế. Tiến hành kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm đối với các hãng sữa công bố,
quảng cáo sai sự thật, có biện pháp xử lý lượng sữa trôi nổi, không rõ nguồn gốc trên
thị trường có thể gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Mặt khác, cần có các biện pháp hỗ trợ đối với các nhà sản xuất sữa trong nước,
như hỗ trợ nguồn vốn cho nông dân đầu tư chăn nuôi bò sữa, có chính sách ưu đãi đối
với doanh nghiệp sữa như lãi suất, mặt bằng, thuế suất trong khuôn khổ thỏa thuận
WTO nhằm vực dậy nền sản xuất sữa trong nước, chủ động nguồn hàng, hạn chế sự
phụ thuộc vào nước ngoài.
2.2. Thực trạng cung – cầu và giá cả của Sữa Vinamilk trong hai năm 2008 -2009
Năm 2008 là năm có nhiều biến cố bất thường đối với nền kinh tế thế giới và là
năm hết sức khó khăn đối với kinh tế Việt Nam. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm
2008 của Việt Nam chỉ tăng 6,23% sau 3 năm liên tục tăng trên 8%. Chỉ số giá tiêu
dùng tăng rất cao, bình quân năm 2008 tăng 22,97%. Lạm phát tăng đẩy lãi suất ngân
hàng tăng vọt. Tỷ giá hối đoái biến động trong năm. Thị trường chứng khoán và thị
trường bất động sản đều đi xuống.
Bên cạnh tình hình khó khăn chung, vụ bê bối sữa nhiễm melamine xuất phát từ
Trung Quốc đã nhanh chóng lan sang các nước lân cận. Tiếp sau đó là một số sản
phẩm sữa bột thành phẩm trên thị trường bị phát hiện có hàm lượng thấp hơn nhiều lần
so với mức công bố. Những vụ việc về chất lượng sản phẩm không đạt tiêu chuẩn đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin và sứ mua của người tiêu dùng. Tuy nhiên, với
việc kiểm tra nghiêm ngặt toàn bộ quá trình sản xuất từ khâu nguyên liệu đầu vào, tất
cả sản phẩm và nguyên liệu của Vinamilk đều không nhiễm melamine, chất lượng sản
phẩm Việt Nam vầ quốc tế. Điều này một lần nữa đã khẳng định cam kết của Công ty
đối với chất lượng sản phẩm.
Kết thúc năm tài chính 2008, Vinamilk tiếp tục giữ vị trí là công ty sữa hàng
đầu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, lợi nhuận của công ty đã vượt qua mốc 1.000 tỷ đồng.
Doanh thu thuần tăng lên 25,5%, lợi nhuận trước thuế tăng 43,5%, lợi nhuận sau thuế
đạt 1.250 tỷ đồng, tăng 29,8% so với năm 2007.
12
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Tổng doanh thu (tỷ đồng) 6.289 6.675 8.381
Doanh thu thuần 6.246 6.538 8.209
Lợi nhuận trước thuế 663 955 1.371
Lợi nhuận sau thuế 660 963 1.250
Tốc độ tăng trưởng
Tổng doanh thu 11,6% 6,1% 25,5%
Doanh thu thuần 11,2% 4,7% 25,6%
Lợi nhuận trước thuế 15,7% 44,1% 43,5%
Lợi nhuận sau thuế 14,6% 46,0% 29,8%
Doanh thu và lợi nhuận cũng vượt kế hoạch được Đại hội đồng cổ đông. Tổng
doanh thu đạt 102,2% kế hoạch, trong khi lợi nhuận sau thế bằng 109,7%.
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Kế hoạch
năm 2008
Thực hiện
năm 2008
Tỷ lệ hoàn thành kế
hoạch năm 2008
Tổng doanh thu 8.200 8.381 102,2%
Lợi nhuận trước thuế 1.326 1.371 103,4%
Lợi nhuận sau thuế 1.140 1.250 109,7%
Trong năm 2008, công ty tiếp tục nắm giữ thị phần lớn nhất trong thị trường
sữa Việt Nam, chiếm 37% thị phần toàn quốc. Để đạt được sự tăng trưởng đáng khích
lệ này trong bối cảnh chung của nền kinh tế, Vinamilk đã nỗ lực không ngừng trong
mọi lĩnh vực.
Hoạt động của marketing tiếp tục được đẩy mạnh để khẳng định và củng cố các
thương hiệu Vinamilk, gắn liền hình ảnh Vinamilk với các sản phẩm có lợi cho sức
khỏe. Theo AC Nielsen, tỷ lệ nhãn hiệu người tiêu dùng yêu thích nhất và tỷ lệ được
tiêu dùng thường xuyên nhất đối với nhãn hiệu Vinamilk tăng lần lượt là 14% vầ 12%
so với năm 2007.
Hoạt động marketing của công ty cũng ngày càng được cải thiện. một ví dụ rõ
nét là tháng 9 năm 2008 Vinamilk đã được nhận giải thưởng “Quảng cáo hiệu quả
nhất” cho chiến dịch tung sản phẩm “sữa tươi nguyên chất 100%” trong hệ thống giải
thưởng thường niên Asian Marketing Effectiveness Awards của tạp chí Media
Magazine Asia và tập đoàn truyền thông Haymedia của Anh trao tặng.
Song song với hoạt động marketing, mạng lưới phân phối cũng được mở rộng.
Cuối năm 2008, sản phẩm của Vinamilk đã có mặt tại 125.000 điểm bán lẻ tại 64/64
tỉnh thành trên toàn quốc. Hệ thống nhà phân phối cũng có sự điều chỉnh, Cong ty đã
13
hoàn thành việc tách nhà phân phối nhóm sữa bột trên toàn quốc vào tháng 4/2008
đồng thời với việc phát triển nhóm sữa chua – kem đạt 3.314 VIP shops. Công ty cũng
đã và đang triển khai hệ thống bán lẻ thông qua chương trình bán hàng bằng xe tải
trong các thành phố lớn. Hệ thống tủ đông, tủ mát cũng được đầu tư mở rộng để đáp
ứng nhu cầu tăng trưởng của nhóm ngành hàng lạnh. Trong năm 2008, Vinamilk đã
đầu tư hơn 7.000 tủ đông, tủ mát cho hệ thống nhà phân phối hàng lạnh và hoen 300
xe tải nhỏ cho các nhà phân phối.
Về sản phẩm mới, Vinamilk cũng liên tục giới thiệu ra thị trường các sản phẩm
mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng. Trong năm 2008,
Trung tâm nghiên cứu và phát triển sản phẩm của Công ty đã nghiên cứu trên 40 sản
phẩm mới, và công ty đã tung ra thị trường trong và ngoài nước 12 sản phẩm mới các
loại.
Về sản xuất, tổng công suất hiện nay của Vinamilk là 504 nghìn tấn /năm, với
hiệu suất sử dụng đạt gần 70%. Năm 2008, Công ty đã đầu tư 546 tỷ đồng để mở rộng
và nâng cấp công suất máy móc thiết bị, đưa vào hoạt động nhà máy sữa Tiên Sơn và
hoàn thành giai đoạn 2 của nhà máy cà phê Sài Gòn.
Bên cạnh đó, các đơn vị dã thực hiện tốt việc duy trì và cải tiến liên tục hệ
thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và hệ thống kiểm soát và
ngăn ngừa mối nguy trong sản xuất HACCP. Bureau Veritas (Anh quốc) đã tiếp tục
đánh giá chứng nhậ HACCP cho 8 nhà máy và đánh giá chứng nhận lần đầu cho 2 nhà
máy mới hoàn thành là Tiên Sơn và Cà phê Sài Gòn.
Năm 2008, Vinamilk đã thu mua 118 nghìn tấn sữa tươi, với giá trị gần 840 tỷ
đồng, tăng 14,2% về sản lượng so với năm 2007, chiếm gần 50% tổng sản lượng sữa
sản xuất trong nước. Nhằm ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào, Vinamilk đã và đang
phát triển các trại bò kiểu mẫu, xây dựng các trang trại chăn nuôi bò sữa công nghệ
cao tại Nghệ An, Vĩnh Phúc, Lâm Đồng, Bình Định, Bình Dương, Sóc Trăng… Quy
mô trang trại là 2000con/trại cung cấp trung bình 30 triệu lít sữa/năm, cung cấp
khoảng 19 tấn sữa/ ngày. Các trang trại của Vinamilk vừa cung cấp sữa cho Công ty,
vừa là hạt nhân cung cấp con giống, dịch vụ, khuyến nông cho phát triển chăn nuôi bò
sữa của địa phương.
Nhằm bảo đảm được lợi nhuận trong bối cảnh kinh tế khó khăn, giá cả nhiều
nguyên vật liệu đầu vào tăng mạnh, Vinamilk đã và đang thực hiện chính sách kiểm
soát và thắt chặt chi phí kinh doanh của Công ty. Tất cả các khoản chi phí đều được
lập kế hoạch chi tiết từng tháng. Cuối mỗi tháng, chi phí thực tế sẽ được đối chiểu với
kế hoạch được duyệt để tìm ra nguyên liệu sai biệt và có biện pháp khắc phục cụ thể
ngay lập tức. Kiểm soát chi phí cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá kết quả
hoàn thành công việc hàng tháng của các cấp quản lý.
14
Trong năm 2009, các doanh nghiệp liên tục đẩy giá sữa thành phẩm trong nước
lên cao từ 7-25%, thậm chí là 100%, trong khi nguyên liệu sữa bột nguyên kem và
giữa bột gầy tại châu Âu đã giảm mạnh, tới 50-60%. Theo dairyvietnam.org.vn, từ
cuối năm 2008, giá sữa nguyên liệu nhập khẩu chỉ còn 2.000 USD/tấn, trong tháng
1/2009 tiếp tục giảm xuống 1.900 USD/tấn (sữa bột gầy là 1.750 USD/tấn).
Trong cơ cấu giá sữa thành phẩm, về nguyên liệu thì sữa bột chiếm tới 70% giá
thành, sữa tươi là 30%, còn các loại khác như kem, bánh ngọt thì không ảnh hưởng
đáng kể. Như vậy, với việc giá sữa nguyên liệu giảm mạnh như thời gian qua, các
doanh nghiệp sữa đã thu được khoản lợi nhuận rất lớn.
Một chuyên gia ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã tính toán, với mức thuế
và giá nhập khẩu trên, cộng với chi phí, khi về đến Việt Nam, giá sữa chỉ vào khoảng
7.000 đồng/lít. Sau khi bổ sung một số khoáng chất, cùng lắm giá sữa là 15.000-
16.000 đồng/lít.
Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp sữa đang bán trên thị trường giá 150.000
đồng/hộp sữa bột 400 gram, nếu quy ra sữa nước theo công thức chuẩn 120 gam = một
lít, thì được 3,4 lít. Như vậy, giá một lít sữa lên tới trên 40.000 nghìn đồng. Nhà sản
xuất lãi trên 100%.
Chính vì vậy mà năm 2008, các doanh nghiệp trong nước đã chi tới 535 triệu
USD để nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa, tăng gần 16% so với năm trước đó. Dutch
Lady dẫn đầu với 37%, tiếp đến là Vinamilk 32%, các doanh nghiệp còn lại như
Hanoimilk, Cổ phần Sữa Quốc tế chiếm 31%.
Theo báo cáo tài chính công bố công khai ngày 15/1, năm 2008, trong bối cảnh
kinh tế khó khăn Vinamilk vẫn đạt lợi nhuận sau thuế 1.230 tỷ đồng, tăng gần 28% so
với năm ngoái.
2.3. Dự báo cung cầu và giá cả của sữa Vinamilk trong năm 2010.
2.3.1 Dự báo cung cầu và giá sữa trên thế giới năm 2010
Ban Nông nghiệp quốc tế thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (FAS/USDA) dự báo sản
lượng sữa tươi trong năm 2010 tại hầu hết các nước sản xuất chính như Ấn Độ, Brazil,
New Zealand sẽ tăng nhẹ, kéo tổng sản lượng thế giới tăng lên mức 436,53 triệu tấn,
cao hơn 6,4 triệu tấn so với năm 2009.
Mức tăng này chủ yếu xuất phát từ sự hồi phục của đàn bò sữa tại một số khu
vực quan trọng như Nam Mỹ, EU, châu Úc và Nam Á sau cuộc khủng hoảng gây giảm
sút nghiêm trọng số lượng bò sữa trong năm 2009. Tính chung, đàn bò sữa thế giới
trong năm 2010 được dự báo sẽ vào khoảng 125,46 triệu con, tăng gần 1 triệu con so
với cuối năm 2009.
15
Trong số các nước sản xuất chính, Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước được dự
báo có mức tăng sản lượng sữa đáng kể nhất với mức tăng lần lượt là 2,84 và 1,8 triệu
tấn so với năm 2009.
Tốc độ tăng GDP trung bình của các nền kinh tế phát triển dự kiến sẽ ở mức
1,7% trong khi tăng trưởng GDP tại các nền kinh tế đang phát triển được IMF dự báo
sẽ ở mức trung bình 4-5%. Như vậy, sự hồi phục kinh tế mạnh hơn trong năm 2010 có
thể sẽ giúp cải thiện các giao dịch trên thị trường sữa thế giới. FAS dự báo tổng
thương mại thị trường sữa thế giới năm 2010 sẽ đạt khoảng 7,2 triệu tấn, tăng 146.000
tấn so với năm 2009.
Về nhập khẩu, sau vụ bê bối melamine khiến người dân tẩy chay sản phẩm sữa
nội địa, Trung Quốc đã nổi lên như là một thị trường chính của sữa bột khi nâng tổng
lượng nhập khẩu sữa bột từ 46.000 tấn năm 2008 lên gấp ba lần trong năm 2009. Năm
2010, mặc dù nhập khẩu sữa bột nguyên kem dự báo sẽ giảm khoảng 15.000 tấn
nhưng Trung Quốc vẫn được xem là nước nhập khẩu lớn trên thị trường toàn cầu
(chiếm khoảng 29% tổng thị phần).
Dự báo cung cầu và giá cả sữa năm 2010
Năm2008 Năm 2009
Dự báo
năm 2010
Thay đổi
2010/2009
Cung cầu sữa thế giới Triệu tấn %
Sản lượng sữa tươi 432,48 430,13 436,53 1,49
Tiêu thụ 163,20 161,56 165,14 2,22
Quy mô đần bò sữa(triệu con) 126,17 124,54 125,46 0,74
Thương mại sữa thế giới Nghìn tấn %
Sữa bột nguyên kem 2.024 2.238 2.157 -3,62
Sữa bột tách bơ 1.706 1.675 1.723 2,87
Bơ 1.029 1.003 1.055 5,18
Phomat 2.283 2.150 2.277 5,91
Trong xu hướng hồi phục nói chung của kinh tế toàn cầu, giao dịch trên thị
trường sữa thế giới được các tổ chức kinh tế dự báo sẽ sôi động trở lại. Giá sữa ngay
từ những tháng cuối năm 2009 đã có những cú bứt phá rất mạnh và xu hướng đó được
USDA dự báo sẽ tiếp tục chủ đạo trong năm 2010.
Ngoài ra, những yếu tố tác động từ bên ngoài như giá đường tăng nóng và việc
người tiêu dùng thay đổi thói quen sử dụng các sản phẩm ít béo tại nhiều nước phát
triển cũng là những yếu tố kích giá sữa thế giới tiếp tục đi lên. Cụ thể, giá sữa tại thị
trường Mỹ trong năm 2010 được dự báo sẽ tăng từ 25-35% so với năm 2009, trong đó
tăng mạnh nhất là các mặt hàng sữa tươi (tăng 35-36%), sữa bột tách bơ (tăng 33,7%)
và phomat (tăng 27,03%).
16
Theo kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, quy mô đàn bò sữa
cũng như sản lượng sữa tươi của Việt Nam trong năm 2010 sẽ tăng từ 25-30% so với
năm 2009. Trong đó Đông Nam bộ và đồng bằng sông Hồng vẫn là hai khu vực phát
triển chăn nuôi bò sữa trọng điểm. Với kế hoạch trên, ước tính sản lượng sữa trong
nước sẽ đáp ứng được khoảng 24-27% tổng nhu cầu tiêu thụ.
Về giá cả, báo cáo thường niên thị trường sữa 2009 và triển vọng 2010 của
AgroMonitor nhận định trong bối cảnh xu hướng tăng cao của giá thế giới, giá sữa
trong nước năm 2010 cũng sẽ tăng trong vòng từ 12-17% so với mức trung bình năm
2009. Lý do thứ nhất và cũng là quan trọng nhất là xu hướng tăng mạnh của giá sữa
thế giới vào cuối năm 2009 được nhiều chuyên gia nhận định sẽ là xu hướng chủ đạo
sau giai đoạn ngành sữa thế giới lâm vào khủng hoảng và điều chỉnh cơ cấu. Theo đó
giá sữa trong nước cũng khó tránh khỏi một chu kỳ tăng giá mới. Thứ hai, giá thức ăn
chăn nuôi có khả năng sẽ tăng mạnh khi nhu cầu tiêu thụ thực phẩm tăng trở lại sau
hai năm suy thoái kinh tế vừa qua. Thứ ba, thị trường đường trong nước cũng như thế
giới đang lâm vào tình trạng mất cân đối cung cầu, đẩy giá mặt hàng này lên mức cao
kỷ lục trong hơn 20 năm qua. Thậm chí Việt Nam đã và đang phải lên kế hoạch nhập
khẩu đường trong bối cảnh nguồn cung trong nước tương đối khan hiếm, giá mía
nguyên liệu leo thang. Đây là yếu tố quan trọng góp phần đẩy chi phí đầu vào của
ngành sản xuất sữa tăng cao.
Cuối cùng, nhiều khả năng trong năm 2010, tỷ giá đô la Mỹ/đồng Việt Nam sẽ
còn tiếp tục biến động, gây tác động tiêu cực đến giá sữa nhập khẩu.
2.3.2. Dự báo cung cầu và giá sữa Vinamilk năm 2010
Thị trường sữa được dự báo vẫn sẽ sôi động bởi sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng
đối với các sản phẩm sữa ở thị trường thành thị và sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt
giữa các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Yếu tố thúc đẩy tăng trưởng cho các
doanh nghiệp lúc này bao gồm khả năng nắm bắt và đáp ứng tốt nhất nhu cầu, thị hiếu
của người tiêu dùng; mở rộng mạng lưới phân phối; xây dựng thương hiệu với sự hỗ
trợ mạnh mẽ của các hoạt động tiếp thị, tập trung nhiều hơn vào tăng trưởng
doanh thu.
Công ty sữa Việt Nam sẽ tập trung mọi nguồn lực để trở thành công ty sữa và
thực phẩm có lợi cho sức khỏe với mức tăng trưởng nhanh và bền vững nhất tại thị
trường Việt Nam bằng chiến lược xây dựng các dòng sản phẩm có lợi thế cạnh tranh
dài hạn.
Vinamilk không ngừng đa dạng hóa các dòng sản phẩm, mở rộng lãnh thổ phân
phối nhằm duy trì vị trí dẫn đầu bền vững trên thị trường nội địa và tối đa hóa lợi ích
của cổ đông Công ty.
17
Vinamilk mong muốn trở thành sản phẩm được yêu thích nhất ở mọi khu vực,
lãnh thổ. Vì thế chúng tôi tâm niệm rằng chất lượng và sáng tạo là người bạn đồng
hành của Vinamilk. Vinamilk xem khách hàng là trung tâm và cam kết đáp ứng mọi
nhu cầu của khách hàng. Luôn thỏa mãn và có trách nhiệm với khách hàng bằng cách
đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm với
giá cả cạnh tranh, tôn trọng đạo đức kinh doanh và tuân theo luật định.
Năm 2010, dự báo giá sữa Vinamilk sẽ tăng giá bán các sản phẩm sữa chua
uống, sữa bột, sữa đặc thêm 6%, còn các loại sữa chua ăn và sữa tươi mức tăng là 3%.
các sản phẩm sữa công ty phải tăng giá từ 35-40% mới đủ bù đắp chi phí theo đúng
mức tăng của nguyên liệu đầu vào. Tuy nhiên, nếu tăng giá sản phẩm quá mạnh thì
bản thân doanh nghiệp cũng sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, Vinamilk chỉ tăng ở mức
6% để chia sẻ với người tiêu dùng.
Phần lớn các doanh nghiệp trong nước hiện nay rất thiếu thông tin về thị trường
như : Cung - cầu, giá cả và đặc biệt là thói quen, thị hiếu của người tiêu dùng sản
phẩm sữa trong ngắn hạn, trước những tác động chung của sự suy giảm kinh tế và
những biến đổi nhanh chóng, sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Chúng tôi đã thực
hiện báo cáo qua tập trung nghiên cứu 3 loại sản phẩm là: Sữa tươi/ tiệt trùng, sữa
chua ăn và sữa chua uống trên các khía cạnh:
Thói quen và thị hiếu tiêu dùng sản phẩm sữa
* Các tiêu chí được cho là quan trọng khi chọn mua sản phẩm sữa
* Thị phần chia theo ngành hàng sữa lớn của các nhà sản xuất
* Nhãn hiệu sữa được người tiêu dùng thích nhất
* Nhà cung cấp dược người tiêu dùng thích nhất
* Đánh giá sự hài lòng của người tiêu dùng đối với một số sản phẩm sữa hiện nay
* Nhận định về xu hướng tiêu dùng trong tương lai
Trong thời gian gần đây, các mặt hàng sữa đồng loạt tăng giá. Sở dĩ có tình
trạng trên là do những quy định hiện có của Việt Nam chưa đủ sức ngăn cản những
chiêu thức tiếp thị vốn bị cấm ở nước ngoài, đang được các doanh nghiệp trong nước
tận dụng, đẩy giá sữa lên cao. Hôm 16/7, Bộ Tài chính có văn bản gửi các cơ quan
chức năng xin ý kiến về phương án tăng thuế nhập khẩu đối với một số sản phẩm như
sữa chưa pha thêm đường và chất tạo ngọt khác, sữa dùng cho y tế Trong đó, Bộ Tài
chính đề nghị điều chỉnh thuế đối với các mặt hàng sữa bột lên 5%. Các loại sữa chưa
pha đường, một số loại khác dự kiến tăng lên mức 5-7%, thay cho 0-3% hiện hành. Bộ
Tài chính khẳng định, việc điều chỉnh thuế sẽ không ảnh hưởng đến giá cả vì hiện, sữa
nguyên liệu nhập khẩu đã giảm mạnh từ 5.700 USD xuống còn 1.800-2.200 USD một
tấn.
18
PHẦN III: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP BÌNH ỔN CUNG-CẦU
VÀ GIÁ CẢ CỦA SỮA VINAMILK
19
Vinamilk là doanh nghiệp dẫn đầu ngành công nghiệp chế biến sữa ở Việt Nam,
tuy nhiên Vinamilk chỉ chiếm hơn 10% thị phần sữa bột trên toàn quốc, hơn 80% thị
phần rơi vào các hãng sữa nước ngoài, thị phần còn lại là của một số công ty nhỏ ở
Việt Nam.
Hiện giá cả của sữa bột Dielac Alpha/Vinamilk so với sữa bột ngoại chỉ bằng
một phần ba, hoặc một nửa. Giá 1 hộp sữa bột Dielac Alpha 900gr dành cho trẻ đang
tăng trưởng, Vinamilk đang bán với giá 130.000đồng, giá bán này đã ổn định hơn 1
năm nay. Trong khi đó, các nhãn sữa bột nước ngoài đang bán từ 300.000-
400.000đồng/hộp 900gr tùy từng nhãn hiệu.
Về năng lực sản xuất sữa bột của Vinamilk: công suất 26.000 tấn/năm, trong
đó, Vinamilk xuất khẩu 14.500 tấn và 11.500 tấn tiêu thụ nội địa. Như vậy, vấn đề
không phải Vinamilk không có khả năng cung cấp đủ hàng cho thị trường mà do người
tiêu dùng sính hàng ngoại nên thị phần sữa bột trong nước chỉ chiếm một phần rất nhỏ
so với đối thủ nước ngoài. Một nghịch lý hiện nay đang diễn ra là Vinamilk đang hàng
ngày xuất khẩu sản phẩm sữa bột ra nước ngoài nhưng người tiêu dùng trong nước lại
đang bỏ ra rất nhiều tiền để mua sữa bột ngoại nhập với giá cao.
Bộ Công Thương cho biết, trong tháng 1 - 2010, sản lượng của ngành sữa ước
đạt 4,4 nghìn tấn, tăng 41,2% so với cùng kỳ. Lượng sữa nhập khẩu trong tháng cũng
gia tăng mạnh so với tháng trước đó.
Các doanh nghiệp đã chi tổng cộng 60 triệu USD để nhập khẩu sữa. Tuy nhiên,
giá sữa trên thị trường đang có nhiều biến động, gây ra tình trạng mất ổn định cho sự
phát triển của ngành này.
Các doanh nghiệp sản xuất sữa cho biết, do chi phí thức ăn chăn nuôi tăng cao
nhưng giá nguyên liệu sữa trong nước lại giảm, làm nhiều chủ trang trại phải bán bớt
bò sữa, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của nông dân. Trong khi đó, giá sữa nhập khẩu
lại đồng loạt tăng từ 5 - 15% so với cuối năm 2009.
Trước việc một số hãng sữa tăng giá bán từ tháng 1 - 2010, Bộ Tài chính đã có
văn bản yêu cầu Ủy ban nhân dân các địa phương tổ chức thực hiện những biện pháp
bình ổn giá sữa và chỉ đạo các cơ quan tiến hành kiểm tra ngay doanh nghiệp sữa và
đại lý trên địa bàn. Những vi phạm pháp luật về giá sẽ bị xử lý nghiêm.
Ngoài ra, cơ quan chức năng có thể tiến hành đình chỉ thực hiện mức giá hàng hóa và
dịch vụ do doanh nghiệp quyết định và yêu cầu thực hiện các mức giá trước khi có
biến động bất thường; phạt cảnh cáo, phạt tiền, thu hồi chênh lệch giá do tăng giá bất
hợp lý hoặc tăng giá do tăng phí hoa hồng, phí quảng cáo so với quy định hoặc thu hồi
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Trong năm tới Vinamilk cần tiếp tục điều chỉnh và công bố hệ thống dự báo kế
hoạch kinh doanh trung hạn chi tiết và hoàn chỉnh, có cơ sở thuyết phục:
20
- Kế hoạch chiến lược cho giai đoạn 3 năm từ 2010 đến 2012 đã được soạn thảo
và điều chỉnh trong năm 2009 và trình Hội đồng quản trị để thảo luận, thông qua và
trình lên Đại hội đồng cổ đông lần này, theo đề xuất của ban kiểm soát nêu tại Đại hội
đồng cổ đông 2008.
- Các chiến lược phát triển được xây dựng dựa trên những thông số và xu
hướng phát triển kinh tế vĩ mô được lấy từ các báo cáo, dự báo của các tổ chức có uy
tín trên thế giới như Ngân hàng thế giới, IMF và các nghiên cứu chuyên ngành.
- Các kế hoạch thực hiện cho từng nội dung chiến lược đều được hoạch định chi
tiết, dựa trên những quan sát và dự báo thị trường sát thực do các phòng, ban liên quan
trong Vinamilk và các công ty tư vấn chuyên ngành cung cấp, được tổng hợp qua
nhiều cấp từ dưới lên trên và có sự kiểm tra, soát xét chéo để bảo đảm tính hợp lý và
khả thi của các dự án.
Các dự án đầu tư cơ bản được hoạch định cần phải tập trung vào các lĩnh vực
hoạt động kinh doanh chính trong ngành sữa và mang tính khả thi cao:
- Một số dự án ngoài lĩnh vực sữa đã được xem xét và thanh lý với mức lợi
nhuận hợp lý, đóng góp làm tăng cường dòng ngân lưu của Vinamilk cho các hoạt
động kinh doanh chính trong năm 2009 và trung hạn, điển hình là dự án Liên doanh
Bia SAB-Miller.
- Hầu hết các dự án đầu tư lớn đều được quản lý tốt và theo đúng kế hoạch đã
đề ra để tăng năng lực sản xuất của Vinamilk, nhằm đáp ứng được nhu cầu sản phẩm
tăng rất nhanh của thị trường, ví dụ dự án Nhà máy Sữa Tiên Sơn, các dự án phát triển
vùng nguyên liệu trong nước, dự án Nhà máy Nước Giải Khát.
- Dự án Nhà máy Sữa Mega Bình Dương đang được hoạch định lại và sẽ được
thực hiệnchậm hơn tiến độ đưa ra lúc ban đầu đề phù hợp hơn với tốc độ phát triển của
công ty và thị trường.
Cùng với đó, mục tiêu của Công ty là tối đa hóa giá trị của cổ đông và theo
đuổi chiến lược phát triển kinh doanh dựa trên những yếu tố chủ lực sau:
- Mở rộng thị phần tại các thị trường hiện tại và thị trường mới;
- Phát triển toàn diện danh mục sản phẩm sữa nhằm hướng tới một lực lượng
tiêu thụ rộng lớn đồng thời mở rộng sang các sản phẩm giá trị cộng thêm có tỷ suất lợi
nhuận lớn hơn;
- Phát triển các dòng sản phẩm mới nhằm thỏa mãn nhiều thị hiếu tiêu dùng
khác nhau;
- Xây dựng thương hiệu;
- Tiếp tục nâng cao quản lý hệ thống cung cấp;
- Phát triển nguồn nguyên liệu để đảm bảo nguồn cung sữa tươi ổn định và tin cậy.
21
Thực tế thị trường sữa Việt Nam, chỉ có thể áp dụng một số giải pháp như: tiến
hành điều tra, chống tình trạng liên kết để độc quyền, lũng đoạn về giá sữa tại Việt
Nam giữa các hãng, công ty nhập khẩu sữa ngoại (đã có những dấu hiệu); khống chế
các chi phí về quảng cáo, tiếp thị giá sữa của công ty sữa hiện nay (theo cục Quản lý
cạnh tranh, chiếm từ 30 – 60% tổng chi phí, trong khi mức quy định tối thiểu là 10%);
xem xét việc điều chỉnh thuế nhập khẩu đối với sữa thành phẩm có hàm lượng dinh
dưỡng tương đồng với sữa trong nước hay phân chia các nhóm sữa theo hàm lượng
dinh dưỡng và các tiêu chuẩn để áp dụng thuế nhập khẩu theo các mức khác nhau.
Vinamilk sẽ tập trung mọi nguồn lực để trở thành công ty sữa và thực phẩm có
lợi cho sức khỏe với mức tăng trưởng nhanh và bền vững nhất tại thị trường Việt Nam
bằng chiến lược xây dựng các dòng sản phẩm có lợi thế cạnh tranh dài hạn.
KẾT LUẬN
22
Qua việc phân tích thị trường cung – cầu và giá cả của sữa Vinamilk ta thấy
được rằng thị trường sữa ở Việt Nam có tiềm năng lớn. Mức tiêu thụ sữa hàng năm
tăng 30%. Mặc dù “chậm chân” hơn các đối thủ khác nhưng với sản phẩm chất lượng
cao cũng như thương hiệu từ lâu đời, Vinamilk đã nhanh chóng tiếp cận tốt với người
tiêu dùng và trở thành một trong những nhãn hiệu sữa hàng đầu tại Việt Nam.
Là công ty đứng đầu về sản xuất và chế biến sữa, cùng với việc giành thị phần
và mở rộng thị trường, Vinamilk phải có trách nhiệm trong việc góp phần giáo dục về
trị giá của sữa tươi trong đời sống hiện đại. Có nghĩa là không chỉ có mục tiêu giành
thị phần mà phải góp phần làm cho việc sử dụng sữa không chỉ là thói quen tốt cho
sức khoẻ mà phải có sự thích thú, có niềm vui. Đó là chiến lược và phải tạo ra nhiều
dòng sản phẩm, với những mẫu mã đa dạng, đẹp mắt để sữa không chỉ bổ, ngon mà
còn hấp dẫn, phù hợp với cuốc sống hiện đại. Uống sữa như một phần tất yếu trong
cuộc sống năng động hiện đại. Vinamilk không phải bán sữa mà trao cho người tiêu
dùng cuộc sống vui khoẻ, năng động, lành mạnh, hiện đại.
Vinamilk luôn mang đến cho bạn những sản phẩm chất lượng, bổ dưỡng và
ngon miệng nhất cho sức khoẻ của bạn. Bạn sẽ không phải lo lắng khi dùng sản phẩm
của Vinamilk. Mọi lứa tuổi, đối tượng đều phù hợp với Vinamilk. Dây chuyền sản
xuất sữa Trang thiết bị hàng đầu, phòng thí nghiệm hiện đại bậc nhất, Vinamilk tự hào
cùng các chuyên gia danh tiếng trong và ngoài nước đồng tâm hợp lực làm hết sức
mình để mang lại những sản phẩm dinh dưỡng tốt nhất, hoàn hảo nhất. Biết bao con
người làm việc ngày đêm. Biết bao tâm huyết và trách nhiệm chắt chiu, gửi gắm trong
từng sản phẩm. Tất cả vì ước nguyện chăm sóc sức khỏe cộng đồng, cho tương lai thế
hệ mai sau, bằng tất cả tấm lòng. Đó cũng là cam kết của Vinamilk.
MỤC LỤC
23
Đề tài: Thực trạng biến động cung -cầu của sữa Vnamilk trong hai năm 2008-
2009 1
MỤC LỤC 2
24