Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

thực hiện tăng trưởng vì người nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.32 KB, 67 trang )

“Thực hiện tăng trưởng vì người nghèo”
Nghiên cứu chung của
AFD, BMZ (GTZ, Ngân hàng phát triển KfW ), DFID, và Ngân hàng Thế giới
Nghiên cứu trường hợp của Việt Nam
Rainer Klump và Thomas Bonschab
Tháng 10/2004
Tài liệu này thuộc một bộ tài liệu nghiên cứu về 14 quốc gia ở Châu Phi, Châu Á,
Châu Mỹ Latin và Đông Âu. Bộ nghiên cứu này là một phần của chương trình làm
việc về “thực hiện tăng trưởng vì người nghèo” (OPPG), một sáng kiến chung của
AFD, BMZ (GTZ, Ngân hàng Phát triển KfW ), DFID và Ngân hàng Thế giới.
Chương trình làm việc về OPPG nhằm tư vấn tốt hơn cho các chính phủ về những
chính sách hỗ trợ cho sự tham gia của người nghèo vào quá trình tăng trưởng.
Các sản phẩm khác của sáng kiến về OPPG bao gồm một báo cáo tổng hợp
chung, một ghi nhận về các phương pháp nghiên cứu khi phân tích tác động phân
phối của sự tăng trưởng, các nghiên cứu kinh tế lượng đa quốc gia, các tóm tắt
nghiên cứu trong lĩnh vực này và sáu tài liêu tổng hợp về: các chính sách cơ cấu
và kinh tế vĩ mô, thể chế, thị trường lao động, nông nghiệp và phát triển nông
thôn, chi tiêu vì người nghèo, và giới. Các nghiên cứu trường hợp về các quốc gia
và các tài liệu tổng hợp sẽ được công bố vào năm 2005.
Toàn bộ các nghiên cứu trường hợp về các quốc gia có thể tìm thấy trên trang
web của các tổ chức tham gia: BMZ www.bmz.de, DFID www.dfid.gov.uk, GTZ
www.gtz.de, Ngân hàng Phát triển KfW www.kfw-
entwicklungsbank.de/EN/Fachinformationen và Ngân hàng Thế giới
www.worldbank.org.
Để biết thêm thông tin, xin liên hệ:
AFD: Jacky Amprou
BMZ: Birgit Pickel
DFID: Manu Manthri và Christian Rogg
GTZ: Hartmut Janus
Ngân hàng Phát triển KfW : Annette Langhammer
Ngân hàng Thế giới: Louise Cord và Ignacio Fiestas



1
Thomas Bonschab* và Rainer Klump*
Thực hiện tăng trưởng vì người nghèo:
Nghiên cứu trường hợp Việt Nam
Bản dự thảo cuối cùng 9/2004 (sửa đổi)
Giới thiệu
Ba mươi năm sau chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc, Việt Nam được coi là một “con hổ”
Châu Á tiềm năng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và những thành công nổi bật trong việc
giảm nghèo. Tuy nhiên, những thành tựu này chỉ có được sau khi các nhà lãnh đạo cộng sản
nắm quyền thực hiện những cải cách kinh tế cơ bản từ giữa những năm 80 để đối phó với sự
khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Dưới tên gọi « đổi mới », các chính sách cải cách nhằm
vào việc tự do hoá kinh tế trong nước và tái hội nhập với bên ngoài để bắt kịp với các nước
Châu Á láng giềng đã thành công dù những cải cách này chưa được hoàn tất.
Trong tài liệu này, chúng tôi sẽ tìm hiểu về những vấn đề sau:
- Cách thức đo lường sự tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam.
- Các nhân tố và chính sách tác động tới sự tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam.
- Tại sao sự chênh lệch tăng trưởng vì người nghèo phân bố theo khu vực địa lý có thể
phát sinh
- Những triển vọng cho sự tăng trưởng vì người nghèo tiếp theo ở Việt Nam trong
bối cảnh đang thay đổi liên tục.
* Trường Đại học Tổng hợp Frankfurt. Chúng tôi xin đặc biệt cảm ơn Julie Litchfield và
Phạm Thái Hưng (Đại học Tổng hợp Sussex) và Patricia Prüfer (Đại học Tổng hợp
Frankfurt) cho sự hỗ trợ trong việc xử lý các số liệu về các hộ gia đình ở Việt Nam và Lê
Đăng Doanh (Bộ Kế hoạch Đầu tư, Hà Nội), Nguyễn Thị Tuệ Anh (Viện Nghiên cứu kinh tế
Trung ương, Hà Nội) vì đã chia sẻ với chúng tôi những kinh nghiệm sâu rộng về số liệu và
các ảnh hưởng của cải cách kinh tế Việt Nam.
2
Mục lục
CHƯƠNG 1 BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHUNG VÀ KHUÔN

KHỔ CHO VIỆC PHÂN TÍCH TĂNG TRƯỞNG VÌ NGƯỜI
NGHÈO
1.1 Điều kiện lịch sử cho các cuộc cải cách kinh tế đổi mới năm 1986
1.2Xu hướng chung về phát triển, giảm nghèo và bất bình đẳng
1.3Khuôn khổ nghiên cứu cho việc phân tích tăng trưởng vì người nghèo ở
Việt Nam
CHƯƠNG 2 SỰ PHÂN BỐ CỦA TÌNH TRẠNG NGHÈO VÀ CÁC NGUYÊN NHÂN
CỦA SỰ TĂNG TRƯỞNG VÌ NGƯỜI NGHÈO Ở VIỆT NAM
2.1 Sự phân bố tình trạng nghèo ở Việt Nam
2.2 Đo lường sự tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam
2.3Động lực của sự tăng trưởng ở Việt Nam
CHƯƠNG 3 CÁC YẾU TỐ VÀ CHÍNH SÁCH TÁC ĐỘNG TỚI NGƯỜI NGHÈO
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
3.1 Các chính sách về yếu tố thị trường và các yếu tố sản xuất
3.2 Các ngành sản xuất và chính sách đối với các ngành sản xuất
3.3 Sự phát triển nông thôn và sự tăng trưởng ở thành thị
3.4 Chi tiêu vì người nghèo
3.5 Các chính sách vĩ mô
3.6 Những thay đổi về cơ chế
CHƯƠNG 4 SỰ ĐÁNH ĐỔI GIỮA TĂNG TRƯỞNG VÀ TĂNG TRƯỞNG VÌ
NGƯỜI NGHÈO
4.1 Tự do hoá thương mại hơn nữa
4.2 Sự tăng trưởng không đồng đều giữa các khu vực
4.3 Chi tiêu công cho các khu vực nông thôn
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN CHO CHÍNH SÁCH
5.1 Đầu tư vào nguồn nhân lực
5.2 Hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân
5.3 Xử lý vấn đề di dân nội bộ
5.4 Thực hiện quá trình phân quyền
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
4
Các phụ lục
Phụ lục 1: Các khái niệm về chuẩn nghèo ở Việt Nam
Phụ lục 2: Diễn biến tình trạng nghèo ở Việt Nam
Phụ lục 3: Tính toán số liệu điều tra các hộ gia đình
Phụ lục 4: Tính toán sự tác động của các yếu tố đến tăng trưởng
Phụ lục 5: Các phương pháp được sử dụng trong việc tính toán mức độ đánh đổi
5
Danh sách các bảng
BẢNG 1.1.A: THU NHẬP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI CỦA VIỆT NAM SO VỚI CÁC
NƯỚC LÁNG GIỀNG QUAN TRỌNG
BẢNG 1.2.B (A) CÁC CHỈ SỐ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM
TỪ 1980-2001
BẢNG 0.C TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI ĐẾN TÌNH TRẠNG
NGHÈO (CHÍNH PHỦ VẪN GIỮ NGUYÊN NGUỒN THU)
HÌNH 2.1 (A): SỰ CHÊNH LỆCH VỀ TỐC ĐỘ GIẢM NGHÈO GIỮA CÁC VÙNG
(TÍNH THEO TỶ LỆ %)
Hình 2 1 (b): Tỷ lệ nghèo giữa các dân tộc năm 2002
Hình 2.2 (a) Đường cong về tác động của tăng trưởng
Hình 3.2 Sản lượng gạo và lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam 1986-2001
Hình 4.2 Dự báo về tình trạng nghèo giai đoạn 2000-2010
6
Chương 1 Bối cảnh lịch sử, xu hướng phát triển chung và khuôn khổ cho việc phân
tích tăng trưởng vì người nghèo
1.1 Điều kiện lịch sử cho các cuộc cải cách kinh tế đổi mới năm 1986
Việt Nam có diện tích 331.000 km2 trải dài từ Trung Quốc ở phía Bắc xuống Vịnh
Thái Lan ở phía Nam. Với dân số 79,7 triệu người năm 2002, mật độ dân số bình quân là 240
người/km2. Việt Nam được chia làm 3 miền Bắc, Trung, Nam với 64 tỉnh và thành phố trực
thuộc trung ương với 7 khu vực là: Miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng, (bao gồm cả

Hà Nội), duyên hải bắc trung bộ, duyên hải nam trung bộ, Tây Nguyên, đông nam bộ (bao
gồm cả trung tâm tài chính lớn nhất là TP. HCM- trước đây là Sài Gòn) và đồng bằng sông
Cửu Long. Việt Nam có nhiều dân tộc với dân tộc Kinh chiếm đa số. Dân tộc Kinh có khoảng
65 triệu người và sống ở tất cả các tỉnh dù họ tập trung đặc biệt là vùng đồng bằng và các
trung tâm thành thị. Hơn 10% dân số còn lại trên 50 dân tộc thiểu số, chủ yếu là sống ở vùng
nông thôn (Bhushan và các công sự, 2001). Nhìn chung, 20% dân số sống ở thành thị và 80%
sống ở nông thôn.
Việt Nam giành được độc lập từ Pháp, được công nhận chính thức bằng hiệp định
Geneva năm 1954. Tại thời điểm đó, mức độ phát triển của Việt Nam cũng tương tự như các
nước Châu Á láng giềng. Thu nhập đầu người không bị bỏ cách quá xa so với các nước láng
giềng và cao hơn 50% so với thu nhập đầu người ở Trung Quốc, nước láng giềng quan trọng
và cũng là đối phương trong quá khứ (xem hình 1.1).
Bảng 1.1.a: Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam so với các nước láng giềng
quan trọng
Thu nhập bình quân
đầu người của Việt
Nam so với (%)
1950 1960 1970 1975 1980 1990 1998 1998 1995 1999
Thái Lan 80.5 74.1 43.4 36.2 29.7 22.4 21.1 27.0 22.5 30.1
Hàn Quốc 85.5 72.3 37.6 22.5 18.4 11.9 11.8 13.8 11.2 13.2
Indonesia 78.3 78.4 61.6 47.2 40.5 41.3 42.1 54.6 41.8 55.5
Trung Quốc 149.9 118.7 93.9 81.2 71.0 56.0 52.9 52.8 54.0 57.3
Nguồn: Số liệu từ 1950-1998 được lấy từ nghiên cứu của Van Arkadie và Mallon (2001), các số liệu bổ sung
cho năm 1995 và 1999 được lấy từ cơ sở dữ liệu tăng trưởng vì người nghèo của Ngân hàng Thế giới.
Cũng giống như nhiều nước Đông Á khác, Việt Nam có đặc điểm là nhiều lao động
giản đơn và thiếu đất. Việt Nam có điều kiện địa lý thuận lợi với khả năng tiếp cận biển và
các cảng tốt dọc bờ biển dài của mình. Đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc và đồng bằng
sông Cửu Long ở miền Nam có các khu vực trồng lúa màu mỡ. Trong hàng thế kỷ, Việt
Nam có quan hệ văn hoá và kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc ở phía bắc và với nhiều quốc
gia quanh vịnh Thái Lan ở phía nam. Tuy nhiên, Việt Nam đã không thể tận dụng những tiền

đề thuận lợi của mình do đất nước bị chia cắt thành 2 miền Bắc, Nam từ năm 1955 đến 1975
với hai hệ thống chính trị và kinh tế khác nhau. Cả hai miền đều được sự hỗ trợ của các đồng
minh đã xung đột trong một cuộc chiến đẫm máu và chỉ kết thúc vào năm 1975 khi chính
quyền Sài Gòn sụp đổ.
Từ năm 1955, miền Bắc đã áp dụng những nguyên tắc cộng sản. Nông dân và thợ thủ
công được tập hợp lại, khu vực tư nhân bị loại bỏ và một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
có trọng tâm là công nghiệp nặng với các doanh nghiệp nhà nước lớn được xây dựng. Đồng
thời chính sách của chính phủ nhằm vào chăm sóc sức khoẻ và giáo dục ở trình độ cao. Đến
7
đầu năm 1958, nạn mù chữ đã thực sự được giải quyết xong ở miền Bắc. Một cuộc cải cách
ruộng đất sớm tạo ra sự phân phối đất đai tương đối bình đẳng giữa các hộ gia đình
1
. Ngược
lại, miền Nam vốn được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Hoa Kỳ đã xây dựng một cơ chế tư bản chủ
nghĩa gắn với các thị trường quốc tế với sự tập trung mạnh mẽ vào công nghiệp nhẹ và dịch
vụ. Dù con đường đi của mỗi miền đều có ưu nhược điểm song nhìn chung Việt Nam đã thụt
lùi đáng kể so với các nền kinh tế Đông Á trong giai đoạn này (xem hình 1.1) do quá nhiều
nguồn lực đã được sử dụng cho chiến tranh.
Việc áp dụng một chiến lược phát triển cho Việt Nam chỉ có thể được thực hiện khi
đất nước tái thống nhất năm 1975. Cho dù có những quan ngại, thậm chí ngay cả trong nội
bộ Đảng Cộng sản, nhưng chiến lược phát triển này đã dựa vào hệ thống xã hội chủ nghĩa
của miền Bắc để được thực hiện tại miền Nam. Toàn bộ đất đai được tập trung lại, thị trường
dần bị loại bỏ, giá cả được kiểm soát và nỗ lực xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
chính thống với việc kế hoạch tập trung cao độ việc sản xuất và đầu tư theo mô hình Liên
Bang Xô Viết. Hình 1.1 cho thấy thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã thụt lùi
thêm so với các nước láng giềng. Rõ nét nhất là Việt Nam đã mất đi sự hỗ trợ từ Trung Quốc
vốn đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Sự căng thẳng về chính trị
với Trung Quốc và các đồng minh của Trung Quốc trong thời gian này đã dẫn đến nhưng
mẫu thuẫn quân sự như Việt Nam đưa quân vào Cam Pu Chia năm 1978 và chiến tranh biên
giới với Trung Quốc năm 1979. Những lý do kinh tế và chính trị đã khiến nhiều người gốc

Hoa vốn là xương sống của nền kinh tế thị trường ở miền Nam Việt Nam phải di cư. Trong
thời gian này, vị thế của Việt Nam so với các nước láng giềng lại tồi tệ hơn và có lẽ điều
quan trọng nhất là khoảng cách với Trung Quốc đã tăng lên một cách đáng kể. Việt Nam bị
cô lập về kinh tế và chính trị không chỉ từ Hoa Kỳ mà còn từ Trung Quốc và hầu hết các
nước láng giềng Châu Á. Việc tiếp cận với các nguồn vốn từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân
hàng Thế giới hay Ngân hàng Phát triển Châu Á bị Hoa Kỳ ngăn chặn cho đến tận năm
1993. Chỉ có Liên Xô, nước vốn đang phải chịu khủng hoảng kinh tế ngày càng tăng có ủng
hộ về tài chính và chính trị cho Việt Nam cho dù những hỗ trợ này ngày càng giảm dần.
Tình hình này không thể kéo dài nên nhu cầu cần có cải cách kinh tế cơ bản là điều
không tránh khỏi. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo chính trị của Việt Nam vẫn còn chưa hiểu hết
khái niệm cải cách toàn diện. Việc chỉnh sửa cơ chế kế hoạch hoá tập trung được thực hiện
một cách rời rạc và từ từ ở mức độ vi mô trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ năm 1981, cơ chế
“khoán sản phẩm” cho phép nông dân sử dụng một số khoảnh đất một cách độc lập với
chính sách hợp tác xã hoá và vì vậy đó là một thử nghiệm về cơ chế thị trường. Ngoài ra,
một số doanh nghiệp nhà nước cũng được hoạt động theo xu hướng thị trường hơn. Tuy
nhiên, những cuộc cải cách đầu tiên này không động chạm tới những vấn đề chủ chốt về giá
cả, nguyên tắc tài chính và việc quản lý kinh tế vĩ mô. Do đó, thâm hụt ngân sách và thâm
hụt thương mại tăng một cách báo động, và lạm phát cũng tăng lên tới đỉnh điểm 700% vào
năm 1986. Biến động trong sản xuất lúa gạo giữa thập kỷ 80 đã dẫn tới nạn đói tại một số
tỉnh nông thôn và làm cho việc nhập khẩu gạo là cần thiết dù đất nước còn thiếu ngoại tệ và
sự hỗ trợ từ bên ngoài đang giảm xuống.
Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) đã thông qua một kế hoạch cải cách toàn diện hơn dưới cái tên là “Đổi mới” vào
năm 1986. Đại hội đã thay thế những người đã lãnh đạo đất nước từ thời kỳ chiến tranh và
bầu ra những nhà lãnh đạo mới với ông Nguyễn Văn Linh giữ chức Tổng bí thư của ĐCSVN
(cho đến năm 1991) và ông Đỗ Mười là Thủ tướng Chính phủ (từ năm 1988 đến 1991)
1
Cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới về hệ số Ginis đối với sự phân phối đất đai cho (Bắc) Việt Nam trong
năm 1960 là 0.583 là mức thấp nhất của thế giới vào thời điểm đó.
8

người sau này trở thành Tổng bí thứ (cho tới năm 1997). Người kế nhiệm vị trí đứng đầu
ĐCSVN là ông Lê Khả Phiêu (tới năm 2001) và ông Nông Đức Mạnh (từ 2001 đến nay).
Cuộc đổi mới đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của nền kinh tế đa thành phần và có kỷ luật
hơn đối với việc quản lý kinh tế vĩ mô. Theo chiều hướng này, chế độ phân phối đối với rất
nhiều hàng hoá được bãi bỏ vào năm 1987, và nhiều loại giá cả được điều chỉnh theo giá thị
trường tự do. Tính đến năm 1990, hầu hết giá các mặt hàng là do thị trường quyết định. Việc
rút quân khỏi Cam Pu Chia vào năm 1989 và việc Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận năm 1993 đã mở
ra một con đường cho sự tái hội nhập về kinh tế và chính trị của Việt Nam với cộng đồng
quốc tế. Sau một thập kỷ cải cách, Việt Nam đã có thể đuổi kịp với những nước láng giềng
đi trước và ít nhất thì cũng chấm dứt sự tiếp tục tụt hậu so với Trung Quốc. Thành công này
là điều quan trọng cho sự hỗ trợ chính trị đang tiếp diễn của lãnh đạo ĐCSVN cho quá trình
đổi mới.
Chiến lược phát triển bền vững mới được áp dụng trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Tuy nhiên, nó có thể tính tới kinh nghiệm của Trung Quốc nơi mà các cải cách kinh tế
đã cho thấy những thành công từ cuối những năm 1970 cũng như những “con rồng Châu Á”
tại khu vực đông bắc và đông nam Á. Các nhà lãnh đạo của Việt Nam đã thu được nhiều bài
học từ các nước láng giềng thành công (Leipziger và Thomas 1993): (1) sự tăng trưởng bền
vững trong một nền kinh tế thị trường phải dựa trên xu hướng hướng ngoại, sự ổn định kinh
tế vĩ mô và đầu tư vào con người, (2) nền kinh tế thị trường có thể phù hợp với việc kiểm
soát xã hội, tức là nhà cầm quyền có thể cho rằng sự thành công về kinh tế là thành tựu riêng
của họ và (3) tăng trưởng đi kèm với công bằng là khả thi theo nghĩa là nền kinh tế thị
trường không nhất thiết phải tạo ra tình trạng nghèo đói và bóc lột.
Ngoài ra, những điều kiện bên ngoài và điều kiện lịch sử sau đây cũng góp phần vào
sự mở đầu thành công của quá trình chuyển đổi kinh tế: (1) sự kế thừa nền kinh tế thị trường
ở miền Nam và sự linh hoạt và tính thực tế với cơ chế quản lý kinh tế tập trung là đặc trưng
của hệ thống kinh tế của miền Bắc trong những năm chiến tranh (2) Gần ba triệu người Việt
sống ở các nước phát triển hơn trên khắp thế giới đã hỗ trợ tài chính cho gia đình của mình
cùng với sự chuyển giao kiến thức và mạng lưới kinh doanh quốc tế, (3) sự thống trị của
nông nghiệp, khu vực mà sự cải cách kinh tế có thể diễn ra nhanh và đơn giản hơn so với các
nhà máy công nghiệp lớn thuộc sở hữu nhà nước (4) về mặt địa lý, Việt Nam nằm trong khu

vực phát triển nhanh nhất thế giới. Những điều kiện thuận lợi này giúp Việt Nam có khả
năng bắt kịp các nước Châu Á láng giềng về kinh tế từ một vị trí bị bỏ cách khá xa như được
nêu ở Bảng 1.1.
1.2 Xu hướng chung về phát triển, giảm nghèo và bất bình đẳng
Do sự khởi đầu mạnh mẽ của công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có được những thành
công đáng kể về mặt phát triển và tăng trưởng kinh tế. Bảng 1.2(a) tóm tắt một số thành tựu
chính. Với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7% trong cả giai đoạn, Việt Nam là một trong
những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á
và dịch SARS gần đây cũng không chấm dứt được thành tựu nổi bật này cho dù tốc độ tăng
trưởng kinh tế đầu những năm 1990 không quá cao. Trong cả giai đoạn, tốc độ tăng dân số
đã giảm đáng kể (White và các công sự, 2001) nên tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người
trung bình trong cả giai đoạn là 5% còn ấn tượng hơn. Ngoài ra, chỉ số HDI cũng tăng lên
cho thấy những dấu hiệu phát triển tích cực.
Bảng 1.2.b (a) Các chỉ số tăng trưởng và phát triển của Việt Nam từ 1980-2001
9
Các chỉ số 1980-1986 1987-1991 1992-1997 1988-2001 1987-2001
Tăng trưởng GDP thực tế
hàng năm (%)
4.88 5.05 8.77 6.04 6.8
Tốc độ tăng dân số hàng
năm (%)
2.2 1.9 1.9 1.5 1.8
Tăng trường GDP theo
đầu người (%)
2.66 3.15 6.87 4.54 5
GDP theo đầu người tính
theo sức mua tương
đương và giá cố định năm
1996 (nghìn VND)
1045,986

(1984)
1190,056
(1990)
1521,767
(1995)
1957,481(19
99)
Dân số (triệu người) 54 (1980) 66 (1990) 72 (1995) 78 (2000)
HDI 0,582 (1985) 0.603 (1990) 0.646 (1995) 0.688 (2000)
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Cơ sở dự liệu tăng trưởng vì người nghèo của Ngân hàng Thế
giới, Ngân hàng thế giới (2003) và UNDP.
Để đơn giản hoá, kinh nghiệm tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới có
thể được chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (1986-1991) kết thúc với sự ổn định kinh tế
vĩ mô tạo đà cho sự tái hội nhập với thị trường quốc tế. Sự hội nhập này diễn ra trong giai
đoạn thứ hai với những thành công rực rõ và tốc độ tăng trưởng cao nhất (1992-1997) kéo dài
cho tới cuộc khủng hoảng Châu Á. Từ năm 1998, một giai đoạn tăng trưởng mới đã bắt đầu
trong đó tận dụng nguồn nội lực cho tăng trưởng là chủ yếu trong khi việc tự do hoá khu vực
đối ngoại vẫn tiếp diễn. Việt Nam đã ra nhập khu vực tự do mậu dịch của ASEAN (AFTA)
năm 1995, trở thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình
Dương (APEC) năm 1998, ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ vào tháng
12/2001 và hiện đang đàm phán đề trở thành thành viên của WTO. Những đặc trưng cụ thể
hơn của ba giai đoạn phát triển này sẽ được phân tích chi tiết dưới đây
Bảng 1.2 (b) Các chỉ số về nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1990-2002
Các chỉ số về nghèo và bất bình đẳng (%) 1990 1993 1998 2002
Tỷ lệ nghèo quốc gia (GSO) 65 58.1 37.4 28.9
Tỷ lệ nghèo lương thực (GSO) 24.9 15.0 10.9
Chênh lệch nghèo (GSO) 18.5 9.5 6.9
Chênh lệch nghèo bình phương 8.3 3.6 2.6
Tỷ lệ nghèo của Bộ LĐ-TB-XH (cả nước) 25 16 12.4
Tỷ lệ 1$/ngày theo quốc tế 50.8 39.9 16.4 13.6

Tỷ lệ 2$/ngày theo quốc tế 87 80.5 65.4 58.2
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2003), Uỷ ban lãnh đạo của CPRGS (2003) và MPI
Bảng 1.2 (b) cho thấy công cuộc đổi mới đã mang lại kết quả khá ấn tượng cho việc
giảm nghèo ở Việt Nam. Sự khác biệt giữa các định nghĩa về tiêu chuẩn nghèo được giải
thích ở Phụ lục 1. Ước tính trước năm 1986, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam là từ 74 đến 78%
(Dollar và Litvack 1998). Dù chuẩn nghèo nào được áp dụng thì tất cả các số liệu trên đều
cho thấy là sau khi thực hiện các cải cách kinh tế, tỷ lệ nghèo của Việt Nam đã giảm hơn
một nửa chỉ trong một thập kỷ. Mức độ và sự nghiêm trọng của tình trạng nghèo thậm chí
còn giảm xuống nhanh hơn.
Sự giảm nghèo của ở các nước đang phát triển khác trên thế giới gần như không thể
so sánh với Việt Nam (xem nghiên cứu của Ngân hàng thế giới 2003). Thành tựu này không
hề bị giảm sút ngay cả khi so sánh với các nước Châu Á khác mà còn cho thấy mức độ cần
10
thiết của sự cải thiện nhanh chóng lạ thường này nếu Việt Nam muốn bắt kịp với các nước
láng giềng. Ví dụ, Trung Quốc đã giảm tỷ lệ nghèo tuyệt đối (được tính bằng thu nhập bình
quân $1/ngày) từ 32% năm 1990 xuống còn khoảng 2% năm 1999 trong khi Thái Lan giảm
từ 11% năm 1985 xuống còn khoảng 2% và Malaysia đã xoá bỏ nghèo sau khi giảm từ mức
khá thấp 5,6% năm 1989 xuống mức thấp kỷ lục là 1% năm 1995. Tỷ lệ nghèo ở Lào là gần
nhất so với Việt nam với lần đầu đạt mức 26.3% vào năm 2001.
Trong chiến lược Tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện (CPRGS) vừa mới được
công bố gần đây, Chính phủ Việt Nam muốn đạt tỷ lệ nghèo thấp hơn 20% vào năm 2010
(Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2002). Việc mục tiêu đầy tham vọng này có đạt
được hay không chỉ phụ thuộc vào việc có tiếp tục tăng trưởng hay không mà còn dựa vào
xu hướng chung về sự bất bình đẳng trong tương lai. Số liệu ở Bảng 1.2 (c) cho thấy hệ số
Gini của Việt Nam là tương đối thấp trong thời kỳ đầu cải cách, rõ ràng là hậu quả một thời
kỳ xã hội chủ nghĩa dài. Tuy nhiên, hệ số GINI đã tăng đáng kể đặc biệt là từ 1998. Ngoài
ra, khoảng cách ngày càng tăng giữa chi tiêu của người giàu và người nghèo đã cho thấy
những dấu hiệu của sự mất cân đối trong phân phối ngày càng tăng mà theo một số nhà quan
sát là đáng báo động (Fritzen 2002).
Bảng 1.2 (c) Các chỉ số về sự bất bình đẳng ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002

CHỈ SỐ BẤT BÌNH ĐẲNG (Tỷ lệ %) 1993 1998 2002
Hệ số Gini (GSO) 0.34 0.35 0.42
Tỷ lệ chi tiêu của người giàu và người nghèo (WB/GSO) 4.97 5.49 6.03
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2003), GSO
Hình 1.2 tóm tắt những xu hướng chính trong sự tăng trưởng, giảm nghèo và bất bình
đẳng của Việt Nam giai đoạn 1986 đến 2002. Nó cho thấy việc có đạt được những thành tựu
trong tương lai hay không phụ thuộc chủ yếu vào xu hướng tăng trưởng và bất bình đẳng.
Mục tiêu đầy tham vọng của Việt Nam về chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện
chỉ có thể được thực hiện nếu tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức cao như trong quá khứ
và sự gia tăng về bất bình đẳng có thể được hạn chế.
Hình 1.2 Những xu hướng chính về tăng trưởng, giảm nghèo và sự bất bình đẳng
11
Nguồn: xem Bảng 1.2 (a)-(c)
1.3 Khuôn khổ nghiên cứu cho việc phân tích tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam
Từ cách nhìn chung, sự tăng trưởng vì người nghèo xuất phát từ những cách thức cụ
thể để tạo và (tái) phân phối thu nhập ưu đãi cho người nghèo. Ngoài những chỉ số tổng hợp,
diễn biến nghèo ở các nước đang phát triển có thể được phân tích và đánh giá theo sự phân bố
về không gian, giới tính và dân tộc. Để có thể xác định đúng khả năng can thiệp bằng chính
sách, chúng ta cần chia quá trình tăng trưởng vì người nghèo làm những thành phần nhỏ hơn
và phân biệt ba giai đoạn khác nhau thành sản suất, tạo thu nhập và (tái) phân phối thu nhập
có ảnh hưởng tới kết quả phát triển vì người nghèo (xem hình 1.3). Những yếu tố sản xuất cơ
bản như đất đai, lao động (giản đơn hoặc có kỹ năng) và vốn được sử dụng với những tỷ lệ
khác nhau trong quá trình sản xuất của các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Điển
hình là khu vực nông thôn và thành thị sử dụng những yếu tố sản xuất này theo những cách
khác nhau và từ đó mỗi khu vực có một cơ cấu ngành khác nhau và cơ hội thu nhập khác
nhau. Do năng suất và thu nhập ở khu vực thành thị thường cao hơn so với vùng nông thôn
nên cần có di chuyển giữa các vùng thông qua việc di cư trong nội bộ quốc gia và chuyển tiền
tự nguyện để giảm bớt tình trạng nghèo ở các vùng nông thôn. Toàn bộ quá trình từ sản xuất,
tạo thu nhập, (tái) phân phối thu nhập chịu ảnh hưởng bởi các chính sách cụ thể trong từng
bước, bởi các cơ chế hiện tại và các chính sách kinh tế vĩ mô. Chi tiêu vì người nghèo có tác

động ngay tới phúc lợi của người nghèo thông qua hệ thống phúc lợi xã hội trực tiếp nhưng nó
cũng có thể ảnh hưởng gián tiếp tới khả năng tiếp cận các yếu tố sản xuất của người nghèo
(bằng việc đầu tư vào các chương trình giáo dục và sức khoẻ) cũng như sự phân bố giữa các
ngành và các vùng sản xuất.
Do sự khởi đầu mạnh mẽ của các cải cách kinh tế trong những năm 80, Việt Nam đã
đạt được tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc và cải thiện mạnh trình trạng nghèo nói chung.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào mặt phân bố không gian thì tình trạng phát triển và giảm nghèo lại
cho thấy sự mất cân đối nhiều hơn. Sự phân bổ theo dân tộc với mức độ mất cân đối ngày
càng tăng và sự phân bổ theo giới với mức độ cân đối hơn nhiều đều có thể liên quan trực tiếp
tới cùng nguyên nhân như sự mất cân đối như phân bổ không gian. Những nguyên nhân này
hiện đang làm thay đổi hình thái của sự phát triển thành thị và nông thôn trong các giai đoạn
khác nhau của quá trình phát triển tại Việt Nam. Phần nhiều sự tăng trưởng đáng kinh ngạc và
ảnh hưởng tới tình trạng nghèo trong giai đoạn đầu là do các chính sách nông nghiệp cẩn
12
trọng đã tận dụng triệt để lực lượng lao động giản đơn từ những người nghèo ở nông thôn.
Giai đoạn hai chứng kiến một vai trò lớn hơn của các trung tâm thành thị trong việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và sự chuyển dịch về phía các sản phẩm có hàm lượng vốn và lao động
lành nghề cao hơn do FDI hỗ trợ. Dù kênh trực tiếp nối giữa sự tăng trưởng và giảm nghèo bị
suy giảm do sự phát triển này song những kênh gián tiếp thông qua sự chuyển tiền tự nguyện
trong nội bộ vùng và phúc lợi xã hội có tầm quan trọng cao hơn. Đối mặt với sự mất cân đối
về không gian, giai đoạn ba hiện nay cố gắng kết hợp các kết quả của các giai đoạn trước.
Những nỗ lực mới cho việc tạo công ăn việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở các khu
vực nông thôn được kết hợp với sự hội nhập nhiều hơn vào thị trường thế giới và sự tăng
cường các kênh công cộng và tư nhân để tái phân phối thu nhập giữa thành thị và nông thôn.
Khuôn khổ nghiên cứu chung cho các phân tích tăng trưởng vì người nghèo và sự áp dụng
vào trường hợp của Việt Nam sẽ cho phép chúng tôi tập trung nghiên cứu vào quốc gia này.
Chương 2 sẽ phân tích những thành tựu tăng trưởng chung vì người nghèo của Việt Nam và
các khía cạnh của nó. Chương này sẽ phân tích chi tiết sự phân bố về không gian là phù hợp
nhất cho những nghiên cứu tiếp theo của chúng tôi. Chương 3 sau đó sẽ tìm hiểu sự tác động
của những yếu tố và chính sách khác nhau đối với sự tăng trưởng vì người nghèo. Chúng tôi

sẽ bắt đầu với những chính sách cụ thể có ảnh hưởng tới thị trường các yếu tố sản xuất, các
ngành sản xuất và lĩnh vực phát triển.
Dù phân tích tập trung vào thị trường lao động, diễn biến khu vực nông thôn và nông
nghiệp nhưng chúng tôi cũng sẽ tính tới những hiệu ứng của sự phát triển đô thị và dựa vào
công nghiệp từ đầu giai đoạn hai. Sau đó, chúng tôi sẽ nghiên cứu các hiệu ứng trực tiếp và
Các yếu tố
sản xuất
Đất đai
Lao động
giản đơn
Lao động có kỹ
năng
Vốn
Các ngành
sản xuất
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Rural
areas
Urban
areas
Các khu vưc
sản xuất
Trợ cấp liên
khu vực
Trợ cấp
trong khu
vực
Chi tiêu vì người nghèo

Chính sách đối
với thị trường
các yếu tố SX
Chính sách
đối với các
ngành SX
Chính
sách vĩ

Thay
đổi cơ
chế
Tăng trưởng và phân
phối thu nhập/ chi tiêu
của người nghèo
Chính sách
phát triển
thành thị
/nông thôn
Phân bố tình trạng nghèo
Không gian
Dân tộc
Giới
Tăng trưởng vì người
nghèo
Hình 1.3 Khuôn khổ nghiên cứu chung cho việc phân tích tăng trưởng vì người nghèo
13
gián tiếp của các chi tiêu vì người nghèo . Chúng tôi sẽ kết luận với sự đánh giá các chính
sách vĩ mô (bao gồm cả chính sách thương mại) và những thay đổi về cơ chế (tập trung vào
các khía cạnh của sự phân quyền), cả hai đều có vai trò quan trọng cho những thành công

trong tương lai trong vấn đề tăng trưởng vì người nghèo. Điều cuối cùng này sẽ được tiếp tục
xem xét ở Chương 4 khi chúng tôi thảo luận 3 sự đánh đổi chủ yếu giữa các chiến lược vì tăng
trưởng và vì người nghèo của Việt Nam. Sự đánh đổi đầu tiên có liên quan đến tốc độ tự do
hơn nữa đối với khu vực đối ngoại, sự đánh đổi thứ hai có liên quan tới sự gia tăng mất cân
đối về tăng trưởng giữa các khu vực và cuối cùng là những ưu tiên cho chi tiêu phụ vụ người
nghèo tại các vùng nông thôn. Các khuyến nghị về chính sách nhằm ngăn chặn sự gia tăng
mất cân đối về tăng trưởng theo không gian sẽ được đề cập ở chương cuối. Nó cho thấy phúc
lợi trong tương lai của người nghèo ở vùng nông thôn chịu sự tác động tích cực của việc tạo
ra nhiều việc làm phi nông nghiệp ở các vùng này mà điều này lại phụ thuộc chặt chẽ và sự
mở rộng hơn nữa của khu vực kinh tế tư nhân. Ngoài ra, thông qua việc chuyển tiền về các
khu vực nông thôn (với điều kiện là các vấn đề xã hội được kiểm soát tốt), sự di cư nội bộ có
thể đóng góp vào việc chia sẻ lợi ích của việc phát triển nhanh hơn khu vực thành thị. Tuy
nhiên, điều không thể nghi ngờ là việc chi tiêu vì người nghèo của khu vực công có vai trò
quan trọng và thậm chí còn quan trọng hơn trong tương lai nên việc quản lý sự phân quyền về
hành chính tài chính và chính trị sẽ là một yếu tố then chốt cho những thành tựu về tăng
trưởng vì người nghèo trong tương lai của Việt Nam.
Chương 2 Sự phân bố của tình trạng nghèo và các nguyên nhân của sự tăng trưởng
vì người nghèo ở Việt Nam
2.1 Sự phân bố tình trạng nghèo ở Việt Nam
Như đã được mô tả ở Bảng 1.2(b) ở phần trên, sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
trong những thập kỷ qua đi kèm với sự giảm nghèo tương đối mạnh. Tuy nhiên, các số liệu
điều tra về các hộ gia đình cũng chỉ ra những chênh lệch đáng kể trong tỷ lệ giảm nghèo nếu
nhìn ở một số khía cạnh. Đầu tiên, chúng ta hay xem kỹ sự phân bố về không gian của tình
trạng nghèo (xem Bảng 2.1 (a)). Ba cuộc điều tra các hộ gia đình của Việt Nam cung cấp số
liệu về tỷ lệ nghèo tại 7 vùng (không phải theo tỉnh) và tại khu vực thành thị và nông thôn. Ở
những vùng và khu vực này, hệ số Gini đối với chi tiêu cũng được tính.
Bảng 2.1 (a): Sự phân bố về không gian của tình trạng nghèo và bất bình đẳng ở Việt
Nam
Tỷ lệ nghèo (chỉ số
đầu người theo %)

Tỷ lệ % so với dân
số
Hệ số Gini
Năm 1993 1998 2002 1993 1998 2002 1993 1998 2002
Toàn quốc 58.1 37.4 28.9 100 100 100 0.34 0.35 0.42
Phân theo
vùng
Vùng núi
phía Bắc
81.5 64.2 43.9 15.6 18 15 0.25 0.26
-Đông Bắc 86.1 62 38.4 12 0.36
- Tây Bắc 81.0 73.4 68.0 3 0.37
ĐB sông
Hồng
62.7 29.3 22.4 21.6 20 22 0.32 0.32 0.39
Ven biển
Bắc Trung
Bộ
74.5 48.1 43.9 12.8 14 13 0.25 0.29 0.36
Ven biển
Nam Trung
Bộ
47.2 34.5 25.2 12.6 11 8 0.36 0.33 0.35
14
Tây
Nguyên
70.0 52.4 51.8 3.2 4 6 0.31 0.31 0.37
Đông Nam
Bộ
37.0 12.2 10.6 12.6 13 15 0.36 0.36 0.42

ĐB sông
Cửu Long
47.1 36.9 23.4 22.4 21 21 0.33 0.30 0.39
Phân theo
khu vực
Thành thị 25.1 9.2 6.6 19.9 20.9 23.2
3
0.35 0.34 0.41
Nông thôn 66.4 45.5 35.6 80.1 79.1 76.7
7
0.28 0.27 0.36
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2003) và GSO. Các vùng được xác định vào năm 2002. Hệ số
Gini được tính cho mức chi tiêu.
Số liệu trên cho thấy, một số vùng như đông nam bộ, đồng bằng sông Cửu Long và
ven biển nam trung bộ (đều nằm ở phía nam) có tỷ lệ nghèo thấp hơn mức trung bình của
quốc gia trong tất cả các giai đoạn. Vùng đồng bằng sông Hồng cũng đạt được mức này từ
giai đoạn thứ hai. Vùng ven biển bắc trung bộ, vùng đông bắc và tây bắc (là những vùng quan
trọng phía bắc của đất nước) và Tây Nguyên ở miền Nam có tỷ lệ nghèo cao hơn mức trung
bình của cả nước trong tất cả các giai đoạn. Vùng đồng bằng sông Hồng, miền đông nam bộ
và đồng bằng sông Cửu Long chiếm trên 50% dân số Việt Nam đã có sự bất bình đẳng tăng
mạnh trong giai đoạn phát triển gần nhất. Vùng núi phía bắc cũng cho thấy sự gia tăng nhanh
của hệ số Gini. Chỉ vùng ven biển nam trung bộ có hệ số gini tăng tương đối chậm.
Tỷ lệ nghèo của các vùng liên hệ chặt chẽ với tỷ lệ nghèo phân theo khu vực thành thị
và nông thôn do những vùng có tỷ lệ giảm nghèo cao là những vùng mà khu vực thành thị
chiếm tỷ lệ cao hơn trong khi Tây Nguyên và vùng tây bắc thì chủ yếu là vùng nông thôn. Số
liệu cho thấy tình trạng nghèo là cao hơn đáng kể trong các hộ gia đình ở nông thôn vốn
chiếm đa số ở Việt Nam. Sau khi giảm xuống chút ít vào giữa thập kỷ 90, hệ số Gini lại tăng
đáng kể ở cả khu vực nông thôn và thành thị.
Bảng 2.1 (a) cũng cho thấy tốc độ giảm nghèo của cả nước là -35.63% trong giai đoạn
1993-1998 và -22.73% trong giai đoạn 1998-2002. Một lần nữa, chúng ta lại có thể xác định

sự phát triển không đồng đều (yếu) (xem hình 2.1(a)). Đáng chú ý nhất là khu vực đông nam
bộ (bao gồm TP.HCM) và khu vực đồng bằng sông Hồng (bao gồm Hà Nội) đều cao hơn
mức trung bình trong giai đoạn phát triển thứ 2 ở đầu thập kỷ 90. Ít nhất là về bề nổi thì giai
đoạn phát triển thứ 3 vào cuối thập kỷ 90 dường như cũng không tạo ra sự cân bằng hơn
trong những thành công về giảm nghèo ở những vùng này. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu
ý là tỷ lệ nghèo ở những vùng này thấp hơn mức trung bình của cả nước và điều này làm cho
việc giảm nghèo hơn nữa trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra, hai trung tâm lớn của đất nước
ngày càng phải đối mặt với những tình trạng nghèo ở thành thị mới (do sự di dân) và vấn đề
này sẽ được đề cập ở phần sau. Số liệu cũng cho thấy những người hưởng lợi chính trong giai
đoạn phát triển thứ 3 là vùng đông bắc, đồng bằng sông Cửu Long và ven biển nam trung bộ.
Vùng ven biển bắc trung bộ và đặc biệt là Tây Nguyên và vùng tây bắc bị bỏ lại phía sau
trong cả 2 giai đoạn.
Hình 2.1 (a): Sự chênh lệch về tốc độ giảm nghèo giữa các vùng (tính theo tỷ lệ %)
15
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2003)
Sự bất bình đẳng giữa các cùng cũng được khẳng định bằng một quan sát khác
(WB,2003). Cho dù về giá trị tuyệt đối thì số lượng người nghèo là cao nhất tại những khu
vực có mật độ dân số cao nhưng sự góp mặt của những vùng có mật độ dân số thấp vào tình
trạng nghèo của cả nước lại đang tăng lên. Khi tỷ trọng của các vùng ven biển bắc bộ, vùng
núi phía bắc và đồng bằng sông Cửu Long là tương đối ổn định thì sự giảm tỷ trọng của khu
vực đồng bằng sông Hồng và đông nam bộ cho thấy tỷ trọng của vùng Tây nguyên và vùng
ven biển nam trung bộ tăng lên
2
.
Bảng 2.1 (b) Sự phân bố theo dân tộc và giới tính của tình trạng nghèo ở Việt Nam
Tỷ lệ nghèo (chỉ số đầu người
theo %)
% so với tổng dân số
Năm 1993 1998 2002 1993 1998 2002
Theo

dân tộc
Kinh và
Hoa
53.9 31.1 23.1 86.9 85.3
Dân tộc
thiểu số
86.4 75.2 69.3 13.1 14.7
Theo
giới
tính
Chủ hộ là
nam giới
61 40 31 77.5 78.4 77.58
Chủ hộ là
nữ giới
48 28 20 22.5 21.6 22.42
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2003), Glewwe và các cộng sự (2002)
Bảng 2.1(b) cho thấy sự phân bố theo dân tộc và giới tính của tình trạng nghèo ở Việt
Nam. Cả hai đều có liên hệ chặt chẽ tới sự phân bố theo không gian. Các dân tộc thiểu số
thường sống ở những vùng nông thôn vắng người và chiếm một tỷ lệ nghèo ngày càng cao ở
những vùng này. Đối với tất cả các vùng, số liệu cho thấy các dân tộc thiểu số không chỉ đạt
được sự giảm nghèo thấp hơn rất nhiều về mặt tuyệt đối mà mức chi tiêu của họ cũng vẫn
thấp hơn rất nhiều so với chuẩn nghèo (xem Hình 2.1(b)
2
Những thông tin chi tiết hơn về sự phân bố về không gian của tình trạng nghèo ở Việt Nam có thể được lấy từ
những bản đồ về tình trạng nghèo được lập dựa trên số liệu khảo sát; với phần tổng quan xin xem nghiên cứu
của Minot và Baulch (2004).
-14.40%
-10.49%
-0.19%

-13.97%
31.40%
15.34%
-21.58%
-14.00%
4.23%
13.86%
0.82%
-9.61%
-26.25%
-7.64%
-8.72%
17.64%
17.46%
-15.37%
-30.00% -20.00% -10.00% 0.00% 10.00% 20.00% 30.00% 40.00%
Miền núi phía bắc
Đông bắc
Tây Bắc
Tây Nguyên
Ven biển bắc trung bộ
Ven biển nam trung bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Hồng
Đông Nam bộ
1998 2002
16
Hình 2.1 (b): Tỷ lệ nghèo giữa các dân tộc năm 2002
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2003); tỷ lệ nghèo được tính cho những dân tộc có ít nhất 100
hộ gia đình trong mẫu VHLSS 2002.

Nếu nhìn qua sự phân bố về giới của tình trạng nghèo ở Việt Nam thì thoạt đầu có thể
ngạc nhiên vì số hộ gia đình nghèo có chủ hộ là nữ ít hơn số hộ nghèo có chủ hộ là nam. Tuy
nhiên, giới tính của chủ hộ chỉ là một tiêu chí rất chung về sự chênh lệch phúc lợi giữa hai
giới. Dưới đây, chúng tôi phân tích một số chỉ số khác. Số hộ có chủ hộ là nữ thường thấp
hơn và thường ở khu vực thành thị và thường nhận được tiền từ người chồng đang làm việc ở
một nơi nào đó trong nước hoặc nước ngoài (UNDP 2003). Trong khi đó, các hộ gia đình có
chủ hộ là nữ ở nông thôn thì thường là rất nghèo hoặc có nguy cơ cao rơi xuống dưới chuẩn
nghèo (Man Loi 1996, Trung tâm phát triển quốc tế 2002).
Bảng 2.1 (c) cho biết về tính chất xã hội của tình trạng nghèo của Việt Nam và tiếp
nối công việc trước đây của Glewwe và các cộng sự (2002) bằng việc đưa vào những thông
tin từ cuộc điều tra các hộ gia đình gần đây nhất vào năm 2002. Đầu tiên, quy mô hộ gia đình
càng lớn, số con càng nhiều, khả năng nghèo càng cao. Một điều thú vị là quy mô gia đình có
xu hướng giảm, tức là số con trong một hộ gia đình giảm trong thời gian từ 1992 đến 2002.
Thứ hai, liên quan tới tình trạng nghề nghiệp của chủ hộ, nhóm dân số lớn nhất làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp cũng là nhóm thành công nhất trong vấn đề giảm nghèo. Thứ ba,
như dự kiến, trình độ học vấn của chủ hộ càng cao thì mức độ giảm nghèo càng lớn. Vì vậy,
các chính sách về dân số, chính sách ngành tập trung vào nông nghiệp và đào tạo nhân lực có
thể được coi là những thành phần quan trọng của chiến lược giảm nghèo. Sự đóng góp của
những yếu tố này vào tính chất vì người nghèo của sự tăng trưởng sẽ được phân tích thêm
dưới đây.
Một điều thú vị là đánh giá tầm quan trọng định lượng của những tính chất xã hội này
và của các yếu tố kinh tế đơn thuần có ảnh hưởng tới tình trạng nghèo như tăng thu nhập.
Balisacan và các cộng sự (2003) đã phân tích bộ số liệu hỗn hợp không gian và thời gian
(panel data) của 4302 hộ gia đình và một mẫu con gồm 3494 hộ gia đình ở nông thôn từ các
cuộc điều tra 1992/93 và 1997/97. Các tác giả của nghiên cứu này xem xét các yếu tố quyết
định tới tình trạng nghèo của Việt Nam ở các tỉnh được đo bằng mức chi tiêu đầu người ở
những nhóm nghèo nhất. Khi chạy hồi quy dạng hiệu ứng cố định (fixed effect regression),
họ thấy rằng trong số các biến kinh tế xã hội có ý nghĩa thống kê (quy mô hộ gia đình, số con
và giới tính của chủ hộ) thì thu nhập trung bình của địa phương có ý nghĩa lớn nhất và cũng
có ảnh hưởng đáng kể nhất (tất nhiên là đồng biến). Ước lượng sự co giãn của mức độ giảm

nghèo đối với sự tăng trưởng của thu nhập địa phương trên 1.3, cao hơn đáng kể so với các
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
Chinese
Kinh
Tay
Khome
Nung
Thau
Dao
Muong
Coho
Ede
Giarai
H'mong
Bana
Khác
Poverty rate Food poverty rate
17
ước lượng tương tự cho Indonesia và Philippin và cũng cao hơn mức trung bình của các quốc
gia như trong nghiên cứu của Dollar và Kraay(2002). Do cuộc khảo sát các hộ gia đình năm
2002 không cung cấp đủ một bộ số liệu hỗ hợp nên các ước lượng không thể được tính lại với
các số liệu mới hơn. Tuy nhiên, chúng tôi sử dụng những ước lượng này để củng cố cho giả
thiết là cần chú ý đặc biệt tới sự phân bố về không gian nếu muốn hiểu đúng diễn biến sự
tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam.
Bảng 2.1 (c): Các tính chất xã hội về tình trạng nghèo của Việt Nam
Chỉ số theo đầu người
(%)
% so với dân số (%)
1993 1998 2002 1993 1998 2002
1. Cả nước 58.1 37.4 28.9 100.0 100.0 100.0

2. Quy mô hộ gia đình
Nhỏ (từ 3 người trở xuống) 45.95 16.95 16.69 12.22 12.14 14.83
Trung bình (3-6 người) 56.86 30.8 25.46 36.36 44.10 50.25
Lớn (Từ 6 người trở lên) 64.72 49.66 41.62 51.43 43.76 34.93
3. Số con trong gia đình
Từ 2 con trở xuống 55.92 34.33 24.80 48.69 56.60 57.07
Từ 2 đến 5 con 61.57 39.92 33.73 34.81 32.62 32.36
Từ 5 con trở lên 66.11 45.64 44.75 16.50 10.79 10.58
4. Nghề nghiệp của chủ hộ (*)
Văn phòng 23.6 9.9 29.27 4.6 6.6 6.18
Bán hàng 27.7 13.0 32.84 8.1 9.5 14.80
Nông nghiệp 69.0 48.2 26.85 64.7 61.0 51.73
Sản xuất 45.9 26.0 38.55 10.9 11.5 14.20
Các nghề khác/không nghề nghiệp 44.4 27.4 28.83 11.7 11.3 13.10
5. Trình độ học vấn của chủ hộ
Thất học 62.6 55.0 37.01 36.1 35.5 31.58
Cấp I 56.7 42.2 32.24 24.4 23.1 24.52
Cấp II 64.0 38.0 29.32 23.4 22.4 26.47
Cấp III 44.5 25.1 18.46 4.7 5.2 8.39
Công nhân kỹ thuật, trường dạy
nghề hoặc đại học
39.2 14.2 9.97 7.9 13.8 9.04
Nguồn: Từ mục 4, cột năm 1993 và 1998 được lấy từ nghiên cứu của Justino và Litchfield
(2003), các số liệu khác được tính từ VLSS 1992/1993; VLSS 1997/1998 và VHLSS 2002;
(*) Tốt nhất là việc phân loại nghề nghiệp theo VHLSS2002 cần theo mã số nghề nghiệp để
thống nhất với những cuộc điều tra VLSS. Tuy nhiên, file_v (từ đĩa CD VHLSS), mã nghề 92
là “giặt là” chiếm 54.47% tổng số quan sát. Tuy nhiên, phân loại nghề nghiệp theo mã nghề
năm 2002 rõ ràng là bị hiểu nhầm. Để thay thế, việc sử dụng các mã số ngành là bất đắc dĩ
với văn phòng (mã từ 70-99), trừ 72, 73, 93,95); bán hàng (mã 50-67), cộng 72, 73, 93, 95);
nông nghiệp (mã 01-05), sản xuất (mã 10-45) và các nghề khác/không nghề nghiệp.

18
2.2 Đo lường sự tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam
Trong phần này, tính chất vì người nghèo của sự tăng trưởng ở Việt Nam được đo
lường một cách định lượng. Các chi tiết của các phương pháp đo lường được mô tả ở Phụ lục
2. Việc phân tích bắt đầu với việc xây dựng các đường cong tác động của tăng trưởng (GIC)
từ số liệu trong ba cuộc khảo sát các hộ gia đình. Hình 2.2(a) mô tả hai giai đoạn 1993-1998
và 1998-2002 cho thấy hình dáng tương tự của các đường GIC. Cả hai đường đều có hướng
đi lên là điều có thể được suy luận từ sự tăng lên của hệ số Gini chung. Tuy nhiên, điều quan
trọng là tất cả các nhóm đều có được sự tăng trưởng về thu nhập trong quá trình cải cách. Về
mặt này thì sự tăng trưởng của Việt Nam mang tính vì người nghèo.
Hình 2.2 (a) Đường cong về tác động của tăng trưởng
Một dạng thức tương tự của sự phát triển giữa tất cả các nhóm cùng với sự bất bình
đẳng tăng lên được thể hiện qua việc tính toán tốc độ tăng trưởng vì người nghèo (RPPG) vốn
áp dụng tỷ trọng cao hơn cho sự tăng trưởng về chi tiêu/thu nhập của người nghèo. Trong cả
hai giai đoạn nói trên, RPPG là cao nhưng thấp hơn mức trung bình của tốc độ tăng trưởng
chung (xem Bảng 2.2(a)). Do mức độ tăng trưởng trung bình giảm trong giai đoạn thứ hai
nên RPPG cũng giảm. Tuy nhiên, mức độ giảm tương đối của RPPG là rõ ràng hơn so với tốc
độ tăng trưởng chung. Chúng tôi sẽ giải thích các xu hướng chung đối với sự tăng trưởng và
phân phối bằng việc xem xét các chính sách có ảnh hưởng tới các yếu tố sản xuất và năng
xuất tương đối của các yếu tố sản xuất ở Việt Nam.
Bảng 2.2(a) Tốc độ tăng trưởng chung vì người nghèo
1993-1998
(1)
1998-2002
(2)
(2)/(1) 1993-2002
Tốc độ tăng trưởng trung
bình cả giai đoạn
6.74 3.96 0.59 5.5
Tỷ lệ % tăng trung bình 6.24 3.29 0.53 4.93

RPPG cho nhóm nghèo nhất 5.54 2.17 0.39 4.03
RPPG cho FGT(0) theo
chuẩn nghèo quốc gia
5.73 2.24 0.39 4.27
RPPG cho FGT(0) theo
chuẩn nghèo lương thực
5.59 2.07 0.37 4.06
RPPG cho chỉ số Watts sử
dụng chuẩn nghèo quốc gia
5.44 2.23 0.41 3.94
19
RPPG cho chỉ số Watts sử
dụng chuẩn nghèo lương thực
5.22 1.92 0.37 3.86
Thay đổi hệ số Gini 7.3 18.6 2.55 27.3
Một đặc điểm đáng lưu ý trong sự phát triển của Việt Nam (không chỉ ở cấp tỉnh mà
cả ở mức độ chung của cả nước) là mức co giãn rất cao của tình trạng nghèo (xem bảng
2.2(b)). Dù sử dụng phương pháp nào thì mức co giãn của tình trạng nghèo đều lớn hơn 1 rất
rõ ràng. So sánh hai giai đoạn, mọi mức độ đo được đều tăng lên. Kết quả này nhấn mạnh là
sự tăng trưởng dường như là một yếu tố hiệu quả nhất đối với việc giảm nghèo.
Bảng 2.2(b) Mức độ co giãn của tình trạng nghèo với tăng trưởng
1993-1998 1998-2002 1993-2002
Mức độ co giãn cho các chỉ số Watts
• Chuẩn nghèo quốc gia
-1.16 -1.41 -0.95
• Chuẩn nghèo lương thực
-1.35 -1.77 -1.07
Mức độ co giãn với chuẩn nghèo quốc gia
• FGT(0)
-0.86 -1.19 -0.77

• FGT(1)
-1.11 -1.35 -0.92
• FGT(2)
-1.24 -1.53 -1.00
Mức độ co giãn với chuẩn nghèo lương thực
• FGT(0)
-1.21 -1.35 -0.97
• FGT(1)
-1.32 -1.70 -1.05
• FGT(2)
-1.39 -1.98 -1.10
Việc chia sự giảm tình trạng nghèo của Việt Nam thành giảm nghèo do phát triển và
giảm nghèo do phân phối cung cấp những thông tin định lượng hơn về hiệu ứng của việc gia
tăng sự bất bình đẳng với tình trạng nghèo (xem bảng 2.2(c)). Cả hai cách tính đối với chuẩn
nghèo quốc gia và chuẩn nghèo lương thực cho thấy hiệu ứng của sự phát triển và hiệu ứng
về phân phối đang đi ngược chiều nhau, với tỷ trọng tương đối đang tăng lên của hiệu ứng
phân phối trong giai đoạn hai. Mức độ co giãn nghèo tương đối cao trong giai đoạn này phản
ánh một thực tế là sự tăng trưởng trong giai đoạn này có hiệu quả hơn đối với việc giảm
nghèo cho chuẩn nghèo đã tiến thêm về phía trung tâm của phân phối. Các hộ gia đình nằm
rất gần với chuẩn nghèo chỉ cần một tác động tăng trưởng nhỏ là có thể vượt qua chuẩn này.
Tuy nhiên, điều này cũng có nghĩa là khả năng tái nghèo cũng tăng lên.
Bảng 2.2 (c) Phân tích sự thay đổi tình trạng nghèo (hiệu ứng trung bình) của Datt-
Ravallion
1993-1998 1998-2002 1993-2002
Thay đổi tỷ lệ nghèo quốc gia -0.222 -0.076 -0.298
• Do tăng trưởng
-0.244 -0.117 -0.347
• Do tái phân phối
0.022 0.042 0.049
Thay đổi tỷ lệ nghèo về lương thực -0.187 -0.035 -0.222

• Do tăng trưởng
-0.217 -0.069 -0.281
• Do tái phân phối
0.030 0.034 0.059
20
Bảng 2.2(d) đưa ra kết quả tính toán của sự phân tích kết quả giảm nghèo theo phân
bố không gian. Kết quả thứ nhất phân tích diễn biến giảm nghèo ở khu vực thành thị và nông
thôn, sự di chuyển dân số giữa hai khu vực (thể hiện qua sự khác biệt về tăng dân số và di
dân nội địa) và sự tương tác giữa hai yếu tố. Kết quả thứ hai xem xét sự giảm nghèo tổng
cộng trong từng vùng, sự di dân giữa các vùng và sự tương tác giữa chúng. Như đối với
Indonesia (Huppi và Ravallion, 1991), hiệu ứng trong nội bộ ngành là cao hơn nhiều so với
hiệu ứng dịch chuyển giữa các ngành với nhau và hiệu ứng tương tác là âm. Tuy nhiên, biểu
hiện cho 2 giai đoạn là khác nhau. Trong giai đoạn hai, khu vực thành thị chiếm trên một nửa
tổng mức độ giảm nghèo trong khi sự tham gia của khu vực nông thôn cũng tăng thêm. Ngoài
ra, sự đóng góp của việc di dân cũng tăng hơn 3 lần. Ở cấp vùng, sự tác động của việc di dân
đang tăng lên do sự di dân đang tăng lên thậm chí còn rõ nét hơn. Nếu trong giai đoạn 1 là âm
thì giai đoạn 2 nó đã thành dương. Tuy nhiên, hiệu ứng tương tác cũng đã tăng lên.
Bảng 2.2(d) Phân tích kết quả giảm nghèo theo phân bố không gian (theo vùng và khu
vực) của Huppi và Ravallion
1993-1998 1998-2002 1993-2002
Hiệu ứng trong
khu vực (%)
Nông thôn 82.2 90.07 82.72
Thành thị 16.3 6.78 14.16
Tổng cộng 99.1 96.85 96.78
Di chuyển dân số giữa các khu vực (%) 1.07 3.84 4.31
Hiệu ứng tương tác (%) -0.17 -0.69 -1.09
Tổng hiệu ứng nội vùng (%) 103.7 93.79 101.09
Di chuyển dân số giữa các vùng (%) -3.42 14.91 -0.14
Hiệu ứng tương tác (%) -0.29 -8.7 -0.95

Cuối cùng, chúng tôi xem xét diễn biến của RPPG trong sự phân bố theo không gian
xét cả về phân chia thành thị nông thôn và cả về phân chia giữa các vùng. Bảng 2.2(e) cho
chúng ta thấy với sự phân phối thu nhập tương đối ổn định trong giai đoạn thứ nhất, các
RPPG không lệch quá xa so với mức tăng trưởng trung bình. Trong giai đoạn thứ hai chúng
tôi thấy một kết quả đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng bình quân ở khu vực thành thị vẫn cao
hơn so với khu vực nông thôn trong khi thứ tự các RPPG đã thay đổi cho dù sự bất bình đẳng
ở khu vực nông thôn đã tăng mạnh. Chúng tôi sẽ giải thích biểu hiện này trong hoàn cảnh các
chiến lược phát triển thành thị và nông thôn ở Việt Nam.
Bảng 2.2 (e) Tốc độ tăng trưởng vì người nghèo ở thành thị và nông thôn
Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của các khu
vực (%)
1993-1998 1998-2002
Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn
Tốc độ tăng trưởng trung bình cả giai
đoạn
10.1 5.74 4.74 3.09
Tỷ lệ % tăng trung bình 9.68 5.55 4.25 2.8
RPPG cho nhóm nghèo nhất 8.79 4.92 2.06 2.20
RPPG cho FGT(0) theo chuẩn nghèo
quốc gia
8.86 5.25 1.61 2.21
Thay đổi hệ số Gini -2.8 -3.5 20.6 33.3
Ghi chú: Việc tính toán cho hai giai đoạn không hoàn toàn tương thích do sự thay đổi trong việc phân
loại thành thị và nông thôn.
Sự khác biệt giữa các vùng trong PRRG rất rõ ràng trong bảng 2.2(f). Trong giai đoạn
thứ nhất, các khu vực có tốc độ tăng trưởng bình quân cao nhất (đông nam bộ và vùng đồng
bằng sông Hồng) cũng là các khu vực có PRRG cao nhất do sự phân phối thu nhập không
thay đổi. Tại vùng đồng bằng sông Cửu Long nơi có hệ số Gini giảm, RPPG thập chí còn
21
vượt trội hơn cả tốc độ tăng trưởng bình quân. Như được đề cập ở dưới đây, kết quả này có

thể là do những chính sách nông nghiệp đồng bộ. Diễn biến này hoàn toàn khác với giai đoạn
thứ hai. Sự bất bình đẳng tăng mạnh kết hợp với tốc độ tăng trưởng thấp hơn làm cho RPPG
giảm xuống dưới tốc độ tăng trưởng trung bình cho hầu hết các vùng. Ngoại lệ đáng chú ý là
vùng ven biển nam trung bộ nơi có sự bất bình đẳng gia tăng chút ít và RPPG cao hơn tốc độ
tăng trưởng bình quân và vùng tây nguyên nơi có tăng trưởng cao nhất, sự bất bình đẳng tăng
ở mức khiêm tốn và ít nhất thì RPPG đối với những nhóm thấp nhất là đáng chú ý. Chúng tôi
sẽ giải thích biểu hiện này bằng việc chỉ ra các chính sách vùng và ngành cụ thể. Tuy nhiên,
kết quả đáng buồn nhất lại ở vùng tây bắc nơi sự bất bình đẳng tăng mạnh và RPPG giảm
xuống dưới 0. Ở vùng tây bắc nơi nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, các nghiên cứu cần làm rõ
tại sao các chương trình chi tiêu vì người nghèo lại không thể mang lại kết quả tốt hơn.
Bảng 2.2(f) Tỷ lệ tăng trưởng vì người nghèo theo các vùng
1993-1998 1998-2002
Vùn
g núi
phía
bắc
ĐB
sông
Hồn
g
Ven
biển
bắc
trung
bộ
Ven
biên
nam
trung
bộ

Tây
Ngu
yên
Đôn
g
Nam
Bộ
ĐB
sông
Cử u
Long
Tây
Bắc
Bộ
Đôn
g
Bắc
Bộ
ĐB
sông
Hồn
g
Ven
biển
bắc
trung
bộ
Ven
biên
nam

trung
bộ
Tây
Ngu
yên
Đôn
g
Nam
Bộ
ĐB
sông
Cử u
Long
Tốc độ tăng
trưởng trung
bình cả giai
đoạn
5.89 9.5 8.12 5.45 4.79 12.3
7
3.56 4.0 6.95 3.86 1.64 3.51 5.12 4.12 4.53
Tỷ lệ % tăng
trung bình
5.22 8.87 7.06 5.16 4.59 12.4
2
3.77 1.53 5.69 2.63 1.45 3.73 4.74 3.41 3.41
RPPG cho
nhóm nghèo
nhất
4.17 7.31 6.05 4.74 4.71 12.5
8

5.20 -0.30 3.73 1.35 0.26 5.92 8.30 2.22 2.22
RPPG cho
FGT(0) theo
chuẩn nghèo
quốc gia
4.49 8.06 6.23 4.86 4.57 12.3
2
4.38 -1.64 4.42 1.39 0.47 4.62 5.02 2.55 2.55
Thay đổi hệ
số Gini
4 0 16 -8.3 0 0 -9.1 38.5 42.3 21.2 24.1 6.1 19.4 16.7 30
2.3 Động lực của sự tăng trưởng ở Việt Nam
Để hiểu sâu hơn về diễn biến tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam, cuối cùng,
chúng tôi phải phân tích chi tiết hơn các động lực sản xuất và tạo thu nhập ở Việt Nam Quá
trình tăng trưởng của Việt Nam đã chứng kiến những thay đổi cơ cấu quan trọng cho chúng ta
thấy rõ sự khác biệt giữa ba giai đoạn của công cuộc đổi mới. Trong phân này, chúng tôi sẽ
giải thích các cơ cấu giữa các ngành và các yếu tố sản xuất thay đổi khi nào, tại sao và ở mức
độ nào. Sự phân chia quá trình đổi mới thành 3 giai đoạn của chúng tôi có thể được nhận rõ
bằng việc xem xét các động lực của sự tăng trưởng từ những khía cạnh khác nhau:
- Phân tích sự tác động của lao động, vốn và mức năng suất chung (total factor
productivity) vào mức tăng trưởng.
- Phân tích tỷ lệ tương đối giữa các ngành (nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) trong
GDP và trong xuất khấu.
- Phân tích tác động của các nhóm sở hữu quan trọng (nhà nước, tư nhân, đầu tư nước
ngoài).
Bảng 2.3 (a) tóm tắt kết quả hạch toán tăng trưởng (growth accounting) bằng cách
tính toán sự tham gia của các yếu tố đầu vào và mức năng suất chung tới tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm. Các công thức chính xác được giải thích ở Phụ lục 4. Kết quả của việc
22
tính toán cho thấy hiệu ứng tức thời chủ yếu nhất của quá trình đổi mới làm tăng mức đóng

góp của vốn đối với tăng trưởng. Mức đóng góp của lao động vào tăng trưởng cũng tăng lên.
Phần dư không thể giải thích được bị bỏ ra nhưng lại rất lớn trong giai đoạn đầu từ sau năm
1986 cho thấy hiệu ứng việc sự bắt kịp về mặt công nghệ sau giai đoạn đầu tự do hoá. Giai
đoạn thứ hai trong thập kỷ 90 với tốc độ tăng trưởng rất cao cho tới khi cuộc khủng hoảng
Châu Á nổ ra cho thấy mức tăng đáng kể từ sự đóng góp của vốn trong khi sự đóng góp của
lao động giảm xuống và mức năng suất chung cũng giảm mạnh. Giai đoạn thứ ba sau cuộc
khủng hoảng cũng tương tự. Mức đóng góp của vốn và lao động chiếm trên 80% trong tăng
trưởng và khoảng 20% còn lại dành cho mức năng suất chung.
Bảng 2.3(a) Hạch toán tăng trưởng cho Việt Nam giai đoạn 1980-2002
1980-1986 1987-1991 1992-1997 1998-2002
Tốc độ tăng GDP hàng
năm trung bình (%)
4.88 5.05 8.77 6.04
Sự đóng góp của lao
động
21.5 34.6 15.9 20
Sự đóng góp của vốn -8.3 5.1 69.3 57.5
Sự đóng góp của mức
năng suất chung
86.9 60.3 14.8 22.5
Nguồn: Lê Đăng Doanh và các cộng sự (2002), Fan và các cộng sự (2003)
Việc phân tích này không coi vốn nhân lực là một yếu tố sản xuất do số liệu của Việt
Nam không cho phép tính toán lượng vốn nhân lực. Tuy nhiên, mức độ co giãn của sản xuất
đối với lượng vốn nhân lực dựa trên các tỷ lệ nhập học tổng cộng và ròng gần đây đã được
ước lượng cho Việt Nam trong hàm sản xuất cho giai đoạn 1990-2000 và 1990-2002 do
Nguyễn Thị Tuệ Anh (2003) thực hiện. Những ước lượng này cho thấy vốn nhân lực đóng
góp đáng kể và ngày càng tăng vào sự tăng trưởng của Việt Nam trong khi mức co giãn của
sản xuất với mức vốn hữu hình lại giảm xuống
Bảng 2.3(b) Những thay đổi cơ cấu trong nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2001
Các chỉ số về thay đổi cơ cấu 1986 1991 1996 2001 2003

Cơ cấu các ngành theo giá so
sánh 1994 (%)
• Nông nghiệp
34.74 30.74 25.06 22.4 21.0
• Công nghiệp
26.82 25.63 31.34 36.57 38.5
• Dịch vụ
38.44 43.64 43.60 41.03 40.5
Cơ cấu các ngành theo số lao
động (%)
• Nông nghiệp
72.9 72.7 70.72 62.77 50.04
• Công nghiệp
13.87 11.25 11.52 14.42 16.41
• Dịch vụ
13.22 16.05 17.77 22.82 24.55
Cơ cấu các ngành theo giá trị
xuất khẩu (%)
• Nông nghiệp
52.2 42.3 39.4 29.4
• Công nghiệp
37.4 28.7 23.5 27.6
• Dịch vụ
14.4 29.0 37.1 43.0
Nguồn: Phạm Lan Hương và các cộng sự (2003) trên cơ sở số liệu từ Tổng cục Thống kê và
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; Lê Đăng Doanh và các cộng sự trên cơ sở số liệu của
Bộ Thương mại.
23
Các số liệu về cơ cấu sở hữu ở Bảng 2.3(c) cho thấy khu vực quốc doanh vẫn chiếm
một tỷ trọng lớn trong GDP và thậm chí còn tiếp tục mở rộng trong những năm gần đây trong

khi tỷ trọng của khu vực tư nhân đã giảm đi. Các số liệu trong bảng cũng cho thấy vai trò
quan trọng của các nhà đầu tư nước ngoài trong giai đoạn thứ hai của công cuộc cải cách. Sự
tăng tỷ trọng của đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư ở việt Nam đã bị dừng lại trong
suốt cuộc khủng hoảng Châu Á nhưng rồi lại hồi phục ngay sau đó. Tuy nhiên, tỷ trọng cao
của khu vực đầu tư nước ngoài như năm 1996 là không thể khôi phục lại được. Một tỷ trọng
rất cao của đầu tư nhà nước đã thay thế nó trong khi đầu tư của khu vực tư nhân lại giảm
thêm và đang ở mức khá thấp. Cuối cùng, điều cần lưu ý là các nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) vào Việt Nam đã tăng liên tục từ 200 triệu USD lên tới trên 1.6 tỷ USD vào năm
2000. Trong kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm từ 2001-2005, Việt Nam lên kế hoạch giải ngân
khoảng 10-11 tỷ USD vốn ODA trong khi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tổng cộng không
vượt quá 9-10 tỷ USD. Biểu hiện này rõ ràng cho thấy vốn ODA đang đóng vai trò rất quan
trọng trong giai đoạn phát triển tiếp theo của Việt Nam (Norlund và các cống ự 2003).
Bảng 2.3 (c) GDP và vốn đầu tư theo hình thức sở hữu giai đoạn 1991-2000
Các chỉ tiêu sở hữu (%) 1991 1996 2000
Tỷ trọng trong tổng GDP giá
hiện hành
• Nhà nước
31.1 39.9 39.0
- Doanh nghiệp nhà nước 22.2 30.5
• Tư nhân nội địa
68.9 50.5 47.8
• Đầu tư nước ngoài
0 7.4 13.3
• Tỷ trọng trong tổng đầu

• Nhà nước
35.0 45.2 61.9
• Tư nhân nội địa
50.0 26.2 19.5
• Đầu tư nước ngoài

15.0 28.6 18.6
Nguồn: Lê Đăng Doanh và các cộng sự (2002)
Chương 3 Các yếu tố và chính sách tác động tới người nghèo trong quá trình phát triển
3.1 Các chính sách về yếu tố thị trường và các yếu tố sản xuất
Cũng như phần lớn các quốc gia đang phát triển khác, lao động giản đơn là nguồn lực
dư thừa nhất của những người nghèo ở Việt Nam. Loại nguồn lực này chủ yếu được sử dụng
trong lĩnh vực nông nghiệp, vì vậy đất đai là yếu tố sản xuất bổ sung chủ yếu. Do đó, một con
đường đương nhiên để làm cho sự phát triển mang tính chất vì người nghèo là tăng sản lượng
và mức độ hiệu quả của nông nghiệp dựa trên các yếu tố sản xuất là lao động giản đơn và đất
đai. Thật vậy, phần lớn thành công trong giai đoạn đầu của sự tăng trưởng vì người nghèo là
nhờ vào sự tăng việc làm cho lao động giản đơn trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, do
thiếu đất canh tác đã tạo ra một giới hạn tự nhiên cho chiến lược phát triển này, và những
thành tựu tiếp theo phải trông cậy nhiều hơn vào việc bổ sung vốn và/hoặc lao động có tay
nghề.
Lực lượng lao động giản đơn được quyết định bởi sự tăng dân số. Trên một cách nhìn
rất chung, những thành tựu của Việt Nam trong sự tăng trưởng đầu người và giảm nghèo phụ
thuộc nhiều vào sự giảm mức tăng dân số từ mức trung bình 2.2% năm vào đầu thập niên 80
24
xuống còn 1.5% trong cuối thập niên 90 (xem bảng 1.2(a)). Tốc độ tăng dân số giảm xuống
có thể là do các hiệu ứng kết hợp của cải cách kinh tế làm chi phí cơ hội cho việc sinh con
tăng lên, mức độ linh hoạt trong sự di dân cao hơn và việc áp dụng các biện pháp đặc biệt về
kế hoạch hoá gia đình (White và các cộng sự 2001). Năm 1998, chính phủ Việt Nam chính
thức thực hiện chính sách “mỗi gia đình chỉ có từ 1-2 con” và áp dụng các chính sách dân số
toàn diện trong chương trình kế hoạch hoá gia đình. Chương trình này là một chương trình
trọng điểm quốc gia trong đó các trung tâm y tế chuyên ngành ở cấp xã và cấp huyện được
cấp kinh phí. Tổng mức chi tiêu cho chương trình này so với toàn bộ chi phí chăm sóc sức
khoẻ của nhà nước tăng từ 3.5% năm 1992 lên 10.2% năm 1999. Chi tiêu của nhà nước cho
kế hoạch hoá gia đình tính theo đầu người năm 1995 là 0.3USD và vẫn thấp hơn rất nhiều so
với các nước láng giềng ở Châu Á (Nguyễn Thị Tuệ Anh 2003, tr. 236). Sức khoẻ là một yếu
tố quyết định khác đối với lực lượng lao động. Nếu tính theo tình trạng sức khoẻ chung, Việt

Nam vẫn làm tốt hơn các nước khác với cùng trình độ phát triển nhưng có sự khác biệt khá rõ
giữa người giàu và người nghèo và sự khác biệt này có thể sẽ tăng lên. Sự khác biệt nổi bật
nhất liên quan tới sức khoẻ của trẻ em (Wagstaff và Nguyễn Nguyệt Nga 2004).
Trong suốt thập niên 90, trên 50% người nghèo sống ở vùng nông thôn và phụ thuộc
chủ yếu hoặc toàn bộ vào nghề nông. Những ước lượng về tỷ lệ chính xác của tỷ trọng lao
động trong nông nghiệp có khác nhau nhưng đều gần mức 50%,60% (Glewwe 2004). Điều
này khiến đất đai trở thành một nguồn lực bổ sung quan trọng cho chiến lược tăng trưởng vì
người nghèo thành công. Một trong những bước đi then chốt của quá trình cải cách chuyển
đổi sang cơ chế thị trường là việc phi tập thể hoá đất nông nghiệp. Theo Nghị quyết 10 năm
1998, quyền sử dụng đất được giao cho những hộ cá thể. Trên cơ sở số liệu từ VLSS
1992/1993, Ravallion và Van de Walle (2001) đã cho thấy đất được chia theo phương thức
bình quân. Sau này, Luật Đất đai mới năm 1993 đưa ra nền móng cho việc phát triển của thị
trường đất đai ở nông thôn Việt Nam. Luật này quy định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho tất cả các hộ gia đình ở nông thôn cho phép họ được thừa kế, chuyển nhượng,
trao đổi cho thuê và thế chấp quyền sử dụng đất của mình. Vào cuối năm 2000, gần 11 triệu
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp và đây trở thành một trong những chương trình
cấp quyền sở hữu đất lớn nhất trong các nước đang phát triển không chỉ về quy mô và còn về
tốc độ thực hiện (Quy Toan Do và Iyer 2004). Tuy nhiên, việc thực hiện Luật đất đai mới cho
thấy sự khác biệt giữa các tỉnh không chỉ về khả năng điều hành mà còn về khả năng giải
quyết các xung đột phát sinh. Việc cải thiện quyền sở hữu liên quan tới đất đai đã có ảnh
hưởng mạnh tới tính chất vì người nghèo do nó góp phần làm tăng sự khác biệt trong thu
nhập ở khu vực nông thôn. Các ước lượng của Quy Toan Do và Iyer (2004) dựa trên số liệu
VLSS năm 1993 và 1998 cho thấy tại các tỉnh thực hiện tốt việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, nông dân đã đầu tư một cách dài hạn hơn (vào cây ăn quả và cây công nghiệp
lâu năm) và cũng có thể sử dụng nhiều lao động hơn cho các hoạt động không liên quan đến
đồng ruộng (do năng suất của việc trồng trọt tăng lên).
Tuy nhiên, những giới hạn tự nhiên cho chiến lược phát triển này có thể được thấy rõ
từ Bảng 3.1(a). Số liệu ở bảng này cho thấy tỷ lệ lao động trên diện tích đất của Việt Nam đã
cao hơn của Trung Quốc, Ấn độ hoặc Indonesia một cách đáng kể ngay từ khi bắt đầu quá
trình cải cách vào những năm 80 (Macours và Swinnen 2002). Cho dù diện tích đất canh tác

có thể được mở rộng trong giai đoạn 1980-2000 nhưng sự tăng dân số ở nông thôn và tăng
của lực lượng lao động nông nghiệp đã làm tỷ lệ này giảm đi.
25

×