Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Địa Đồ Duyên Hải Miền Trung - Sông Trà phần 5 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 117 trang )



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
115

Phụ lục 1
SỐ LIỆU PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỦY SẢN CHỦ YẾU (1990 - 2005)
Chỉ tiêu 1990 1995 2000 2005
2.052 4.020 2.935 3.918
Công suất (CV - mã lực) 35.400 97.000 109.741 234.019
Thuyền không gắn máy (chiếc) 1900 409 386
Sản lượng ñánh bắt (tấn) 22.500 38.500 66.384 87.408
Sản lượng thủy sản chế biến (tấn) 413 800 1.612 3.611
Diện tích nuôi tôm (ha) 180 430 551 730
Sản lượng tôm nuôi (tấn) 45 225 804 3.005
Lao ñộng nghề cá (người) - 50.000 59.100 65.000
Giá trị sản xuất thủy sản (triệu ñồng) 231.245 425.620 652.560
Phụ lục 2
PHÂN LOẠI CÔNG SUẤT TÀU THUYỀN ðÁNH BẮT (1990 - 2005)
STT Phân loại công suất
(CV/chiếc)
Số lượng tàu thuyền các năm
1990 1995 2000 2005
1

Loại công suất

20 CV
1.297


1.516

396

545

2

Lo
ại công suất 21
-

45 CV

708

2.132

1.722

1.880

3

Lo
ại công suất 46
-

90 CV


45

348

688

865

4

Lo
ại công suất 91
-

150 CV

2

24

115

321

5

Lo
ại công suất 151
-


400 CV

-

-

14

296

6

Lo
ại công suất > 400 CV

-

-

-

11


T
ổng cộng

2.052

4.020


2.935

3.918





Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
116

Phụ lục 3
PHÂN LOẠI THUYỀN NGHỀ ðÁNH BẮT THỦY SẢN CHỦ YẾU (1990 -
2005)
STT Phân loại thuyền nghề Số lượng thuyền nghề
1990 1995 2000 2005
1


ới kéo

539

1.811

1.141

1.280


2 Lưới vây 315 678 406 640
3 Lưới rê (lưới cản) 276 484 247 220
4 Lưới chuồn 483 275 84 120
5 Mành ñèn 162 187 62 94
6 Mành chà 82 40 0 0
7 Câu khơi 80 142 76 102
8 Câu mực xà 20 62 144 160
9 Pha xúc 0 62 124 160
10 Nghề lưới cá cơm ñảo Lý Sơn

10 21 32 52
11 Nghề lặn 40 86 92 110
12 Nghề khác 45 172 527 848
Phụ lục 4
SỐ LIỆU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN (1990 - 2005)
STT Chỉ tiêu 1990 1995 2000 2005
1

Di
ện tích nuôi tôm

(ha)

180

430

551


730

2 Sản lượng tôm nuôi (tấn) 45 225 804 3.005
3 Diện tích nuôi nước ngọt (ha) 270 410 530 670
4 Sản lượng cá nước ngọt (tấn) 45 165 195 810
5 Trại sản xuất tôm giống (trại) 0 2 12 20
6 Sản lượng tôm giống (triệu con) 0 8 70 105
7 Trại sản xuất cá giống 1 1 1 1
8 Sản lượng cá giống (triệu con) 0,5 0,8 1,2 2




Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
117

CÔNG NGHIỆP – TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP

Quá trình hình thành, phát triển các nghề thủ công ở Quảng Ngãi gắn với việc
hình thành xóm làng, ruộng ñồng, sản sinh những nghệ nhân có ñôi bàn tay khéo
léo tài hoa, tạo ra những sản phẩm có chất lượng và giá trị cao, ñáp ứng nhu cầu
của ñời sống, qua ñó một số nghề ñặc sắc cũng ñem lại niềm tự hào cho làng nghề
xứ Quảng. Cùng với ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, sản xuất công nghiệp ñược
ra ñời trên nền tảng hoạt ñộng của máy móc, cơ giới hóa quy trình sản xuất, tạo ra
năng suất lao ñộng cao, làm tăng nhanh số lượng và chất lượng sản phẩm. Trong
những năm kháng chiến, thực hiện ñường lối kháng chiến, chủ trương xây dựng
nền kinh tế tự cấp tự túc của ðảng, nhân dân Quảng Ngãi ñã phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ñể sản xuất vũ khí và hàng tiêu dùng. Quảng Ngãi tự
dệt ñược vải, lụa, nhất là vải Sita, sản xuất ñược giấy viết, xà phòng, ñường thủ

công, ñồ gốm, dụng cụ bằng mây, tre, cói Từ sau ngày ñất nước hoàn toàn giải
phóng, nhất là sau thời ñiểm tái lập tỉnh, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Quảng
Ngãi có ñiều kiện phát triển mạnh mẽ, có sự ổn ñịnh và tăng trưởng nhanh, ñóng
vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh.
I. TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Nghề tiểu thủ công ở Quảng Ngãi ñã hình thành, tồn tại và phát triển khá sớm.
Dưới thời Vương quốc Chămpa, nghề khảm xà cừ ñã khởi sắc. Lê Quý ðôn viết
trong Phủ biên tạp lục: "Tại các nước Chiêm Thành, Cao Miên, những cái bàn, cái
hộp ñã ñược khảm xà cừ, người ta lại ñem khảm thêm thủy tinh nhỏ hình vuông
vào, làm cho sắc xanh và sắc biếc xà cừ lại càng nổi bật lên"
(1)
.
Có thể các nghề thủ công của người Việt ở Quảng Ngãi ñã hình thành cùng lúc
với sự di cư của người Việt ñến mảnh ñất này, khoảng cuối thế kỷ XV, dưới thời
nhà Lê. ðến thời chúa Nguyễn, nghề thủ công càng phát triển, trong ñó nghề dệt
vải và dệt lụa ở Quảng Ngãi ñã có tiếng vang nhất ñịnh: "Về phủ Quảng Nghĩa thì
có xã Long Phụng thuộc huyện Mộ Hoa theo lệ phải nộp thuế lụa là 2 tấm 7 thước
5 tấc 8 phân, và ñược nộp tiền thay thế là 11 quan 2 tiền 38 ñồng"
(2)
. "Xã Thanh
Hiếu thuộc huyện Mộ Hoa theo tỉ lệ phải nộp 1.170 tấm vải trắng ñể thay thế việc
nộp sưu và bắt lính"
(3)
. ðặc biệt là nghề nấu rượu và nghề làm mật ñỏ ở Quảng
Ngãi thời kỳ này rất phát triển. Phủ biên tạp lục chép: "Xã Thanh Hiếu thuộc
huyện Mộ Hoa hằng năm phải nộp cho Ty lệnh sử 5 chỉnh rượu; thôn Nghĩa Lập
thuộc huyện Chương Nghĩa hằng năm phải nộp 2.753 chỉnh mật ñỏ ñể khấu trừ các
khoản tiền phải nộp và 730 chỉnh mật ấy ñể thế số thuế tô ruộng. Ngoài ra, thôn ấy
còn phải nộp cho quan Cai trường 20 chỉnh mật ñỏ nữa"

(4)
.
CHƯƠNG
XV



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
118

Nghề thủ công ở Quảng Ngãi hầu hết ñều có nguồn gốc từ những người nông
dân miền Bắc di cư vào Nam trong các thế kỷ XV, XVI và một bộ phận nhỏ là từ
người Hoa truyền vào (như nghề làm kẹo gương, làm nhang), người Chăm truyền
lại (như nghề ñóng thuyền, ñan lưới). Từ vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, người nông
dân vào khai phá mở rộng vùng ñất Quảng Ngãi ñã mang theo một số nghề thủ
công như nghề mộc, dệt chiếu, làm nón, ñan lát, ñúc ñồng, làm gốm, chế tác
sừng,… ñã kết hợp và phát triển các nghề ñã có từ trước (thời Văn hóa Sa Huỳnh,
Văn hóa Chămpa) trên vùng ñất này, tạo nên các nghề mang tính ñặc thù của vùng
ñất xứ Quảng, như gốm, ñúc ñồng, nghề mía ñường, mạch nha, kẹo gương, chế tác
ñá, nuôi tằm dệt vải, làm mắm, luyện sắt. Sự kết hợp hài hòa và quyện lẫn các nghề
vào nhau mang tính chất ña tuyến này ñã làm cho nghề thủ công ở Quảng Ngãi trở
nên phong phú, ña dạng, phù hợp với ñiều kiện yêu cầu ở ñịa phương, làm giàu
thêm ñặc trưng bản sắc văn hóa một vùng kinh tế.
Làng nghề thủ công cổ truyền tiêu biểu ñã tồn tại và phát triển trên ñất Quảng
Ngãi hết sức ña dạng, như: làng gốm (Mỹ Thiện, Bồ ðề, Thanh Hiếu, Chí Trung),
xóm ñan (Tịnh Hà, Hành ðức), xóm chiếu (Thu Xà), làng ñúc (Chú Tượng), xóm
rèn (Tịnh Hà, Tịnh Minh), làng mắm (An Chuẩn, Kỳ Tân, Sa Huỳnh)… Cơ cấu
của các làng nghề này ñược tổ chức khá chặt chẽ, các thành viên trong làng ñều
ñược tôn trọng, nâng ñỡ và bảo vệ quyền lợi, người ta truyền ñạt cho nhau những

kinh nghiệm ñể làm ra sản phẩm ñược tốt hơn, ít có hiện tượng giấu nghề. Hầu hết
các làng nghề ñều có một tổ nghề, người có công ñầu tiên khai sinh nghề và truyền
lại cho các thế hệ sau. Các làng nghề ñều có ngày giỗ tổ nghề hằng năm, việc cúng
giỗ ñều thống nhất một ngày và tự bản thân gia ñình hành nghề lo cúng. Thời gian
và chiến tranh ñã làm phai nhạt ñi ký ức về tổ nghề, ñồng thời mất ñi những tài liệu
quý giá như gia phả, sắc phong của làng nghề, chỉ có ít làng nghề giữ lại ñược hình
ảnh tổ nghề.
2. CÁC NGHỀ TIÊU BIỂU
2.1. NGHỀ LÀM GỐM
Trên vùng ñất Quảng Ngãi, nghề gốm ñã có từ lâu ñời, sản phẩm của nó gắn liền
với sinh hoạt hàng ngày của con người thuở xa xưa. Vào thời tiền sử, dân cư Văn
hóa Sa Huỳnh ñã sản xuất ñồ gốm với nhiều kiểu dáng ñẹp, phong phú về loại
hình, ñường nét hoa văn sắc sảo, họa tiết trang trí công phu, ña dạng, ñạt trình ñộ
cao cả về kỹ thuật và tạo dáng. ðồ gốm sản xuất vào thời kỳ này bao gồm các loại:
nồi, bát bồng, bình cổ cao, vò gốm táng người chết, ñồ minh khí, con lăn Vào
giai ñoạn Văn hóa Chămpa, ñồ gốm có ñộ nung cao hơn, có loại nung thành sành,
kỹ thuật tráng men nâu, men xanh ngọc, men vàng khá phổ biến trên các ñồ dùng
sinh hoạt như chén, ñĩa, nồi, vò.
Tuy nhiên, bẵng ñi một thời gian dài, ñến thế kỷ XVI, XVII nghề gốm ở Quảng
Ngãi mới phát triển mạnh, song song với quá trình ñịnh cư của người Việt từ Bắc
vào. Theo Quảng Ngãi tỉnh chí in năm 1933, toàn tỉnh hồi ñó có các lò gốm ở Mỹ
Thiện (huyện Bình Sơn
), ðông Thành, ðại Lộc (huyện Sơn Tịnh), Thanh Hiếu,


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
119

Chỉ Trung (huyện ðức Phổ), Bồ ðề (huyện Mộ ðức). Những làng gốm này sản

xuất các loại ñồ dùng như vò, hũ, nồi, trả, vại, chậu với nhiều kiểu dáng ñẹp
(5)
.
Trong các làng gốm ở Quảng Ngãi thì làng gốm ở Mỹ Thiện có nghề làm ñồ
gốm phát triển nhất. Nơi ñây ñã sản xuất ñược những ñồ gốm có tráng men từ thế
kỷ XIX. Làng gốm Mỹ Thiện nay thuộc ñịa phận thị trấn Châu Ổ, nằm trên ñường
Thiên Lý Bắc - Nam (nay là Quốc lộ 1) cho nên việc thông thương buôn bán diễn
ra thuận lợi. Mặt khác, làng gốm lại nằm ven sông Trà Bồng, sản phẩm xuất ra
khỏi lò ñược vận chuyển ñi nơi khác dễ dàng bằng ñường sông, xuôi dòng ra cửa
Sa Cần, hay ngược lên nguồn ñến các làng miền núi. Xưa kia gốm Mỹ Thiện (dân
gian gọi là gốm Châu Ổ) ñã có mặt ở khắp nơi trong tỉnh, ở các tỉnh lân cận như
Quảng Nam, ðà Nẵng, bắc Bình ðịnh, Tây Nguyên. Qua thăng trầm, nghề gốm
Mỹ Thiện tưởng như ñã mất, nay có sự hồi phục. Các sản phẩm vò, chum, chậu
kiểng tráng men giả cổ Mỹ Thiện ñã có khá nhiều ở thị trường. Hàng năm, vào
mùng 9 tháng Giêng (Âm lịch), khi bắt ñầu khởi công hành nghề, cùng một lúc,
các lò tổ chức cúng tổ nghề theo hình thức cúng riêng rẽ. Mỗi lò (gọi là khẩu lò)
gồm có thợ lò và bạn lò ñứng ra cúng theo trình tự cúng thần, cúng cô hồn rồi ñến
cúng tổ nghề.
ðể có một sản phẩm gốm, ñầu tiên người ta phải chọn ñất và nhào nhuyễn ñất.
Nguyên liệu ñể sản xuất ñồ gốm là hai loại ñất sét xanh và vàng. Tiếp ñến là khâu
tạo hình sản phẩm. Khi sản phẩm ñã tạo dáng xong, người thợ dùng dao gọt ñều ñể
cho da gốm thêm nhẵn. Tất cả các loại sản phẩm khi gia công chuốt gọt xong,
người thợ xếp thành ụ, dùng rơm rạ, bao bố ủ cho da ñất trở nên vàng mơ (tên nghề
nghiệp gọi là phơ). Khi ñất trở nên "phơ" ñều, người thợ tiến hành chuyển sản
phẩm vào lò nung. Gốm ñược ñốt nung trong 3 ngày ñêm theo quy tắc ñốt ngọn
lửa trước nhỏ sau lớn. Kỹ thuật ñó nhằm nâng nhiệt ñộ trong lò tăng dần ñể chống
sự nứt vỡ hoặc cong veo các sản phẩm ñang nung. Kỹ thuật nung rất quan trọng,
ñòi hỏi người thợ phải giàu kinh nghiệm.
Sản phẩm gốm xuất lò có các loại: chum lớn loại 100 lít, ghè loại 60 lít, ché
rượu cần, chậu kiểng, thạp hũ, bùng binh, bình hoa, nồi, trả, ấm chè, cối tiêu.

Ngoài những ñồ gốm thông thường, làng gốm Mỹ Thiện còn sản xuất loại gốm
tráng men. Men sử dụng ñể tráng có các loại: men nâu ñen, men vàng và men nâu
sành. Men ñược chế tạo từ ñồng, chì, ñá trắng, ñá son. Các chất này thường ñược
pha trộn, nếu muốn màu vàng thì loại bỏ ñồng, màu men nâu thì tăng hàm lượng
chì.
Hiện nay, một vài lò gốm ở làng Mỹ Thiện sản xuất chum gốm tráng men giả
cổ, sản phẩm mang màu men xanh ngọc, phân bố thành từng cụm trên da gốm, tựa
như da báo, khá ñẹp.
2.2. NGHỀ ðÚC ðỒNG
Giai thoại về ñỉnh chuông Thần
(6)
ở chùa Thiên Ấn có nói ñến chiếc chuông lớn
ở chùa này xuất hiện vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826) hoặc có thể sớm hơn. Bên


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
120

cạnh tính chất huyền thoại của câu chuyện, một sự thật hàm chứa trong ñó mà ta có
thể rút ra: tác giả của chiếc chuông lớn nổi tiếng này không ai khác hơn là những
người thợ ñúc, những nghệ nhân tài hoa ở làng Chú Tượng, thuộc xã ðức Hiệp,
huyện Mộ ðức. Phần ghi chú về Quảng Ngãi trong tập L’Annam en 1906 ñã chép:
"Ở làng này (tức Chú Tượng) người ta làm ra các ñồ ñồng khá to lớn, vì vậy quả
chuông lớn ở chùa Thiên Ấn cao gần 1m và ñường kính 0,5m ñã ñược ñúc ở Chú
Tượng". Tài liệu Quảng Ngãi tỉnh chí (Nam Phong tạp chí, 1933) còn kể tên các
nghệ nhân tài hoa như ông Võ Hiệt, ông thợ Kinh. ðặc biệt, ông thợ Kinh ñã từng
ñược vua Khải ðịnh triệu về kinh ñúc pho tượng ñồng ñặt ở Huế; Toàn quyền
Paxkiê (Pasquier) cũng yêu cầu ông ñến tòa Khâm sứ Pháp ñể ñúc ñồ ñồng. Tương
truyền, thuở xưa có hai người từ xứ Bắc vào vùng ñất giữa ba xã ðức Hiệp, ðức

Hòa và Hành Thịnh ngày nay ñể lập nghiệp. Hai người này vào vùng ñất mới, và
giao ước với nhau rằng sáng sớm hôm sau sẽ cùng dậy "chạy một hơi", ai chạy ñến
ñâu sẽ cắm ñất sở hữu ñến ñó. Sáng sớm một người dậy, cố chạy và ñược rất nhiều
ñất, riêng người kia vẫn nằm ngủ ngáy trên ñồng. Kết quả là không có ñất và vùng
ñất bàu anh ta nằm sau này ñược gọi là Bàu Ngáy, nay thuộc xã ðức Hòa. Bởi vậy,
về sau người ðức Hiệp, người Hành Thịnh kế bên ñược rất nhiều ñất. Riêng người
làng Chú Tượng chỉ có vườn tược. Nhưng người ấy có một nghề, ñó là nghề ñúc
ñồng. Người ñó tên là Vom, sau này người ta lấy tên ông ñặt cho tên núi là núi
Vom. ðầu tiên chỉ với nghề ñúc ống ngoáy trầu, ông Vom có cuộc sống sung túc
hơn những người làm ruộng. Người dân trong vùng có câu: "ðúc một ống ngoáy
trầu hơn làm một sào ruộng". Từ ngày ñó, ông Vom ñã lập ra một nghề mang lại
cuộc sống rất sung túc, phồn thịnh: nghề ñúc ñồng. Cứ ñến ngày ðông chí hàng
năm, người làng ñúc ñồng Chú Tượng lại giỗ tổ nghề. ðịa danh Chú Tượng có
nghĩa là làng ñúc. ðây là trường hợp hiếm hoi của Quảng Ngãi tên một nghề thủ
công ñược ñặt làm ñịa danh cho một làng.
Sản phẩm của nghề ñúc ñồng ở Chú Tượng xưa rất ña dạng về chủng loại, mẫu
mã, hình dạng. Thời ấy chưa có ñồ gia dụng bằng nhôm hay ñồ nhựa như sau này
nên sản phẩm ñúc ñồng ở ñây ñã cho ra các loi hàng phục vụ ăn uống, sinh hoạt
như các loại nồi - từ nồi 1 ñến nồi 7, nồi bung, các loại muỗng (ăn cơm), bình
rượu, khuôn bánh thuẫn, mâm trệt, mâm quỳ (ñể dọn cơm, nhồi bột bánh), các loại
thau chậu, ống nhổ nước cốt trầu, cơi trầu. Về ñồ thờ phổ biến có ñèn thờ, lư
hương, chuông chùa lớn và chuông nhỏ tụng kinh, tượng Phật Về công cụ sản
xuất thì có ñúc khuôn làm ngói, ñúc hoa văn trang trí và khuy cho bàn, tủ, sập gụ
Về khí cụ nghệ thuật thì ñúc chiêng, cồng (cho vùng cao). Theo bài vè thợ ñúc còn
lưu truyền, có thể ở làng Chú Tượng xưa kia còn ñúc ñạn, ñúc súng, ñúc xà mâu,
là các loại vũ khí chiến ñấu. Tùy theo tính chất của ñồ dùng và khiếu thẩm mỹ của
từng nghệ nhân mà sản phẩm ñúc Chú Tượng có nhiều hình dạng và mẫu mã khác
nhau. Quan sát các ñồ ñồng xưa còn lại, người ta dễ nhận thấy tuy có hình dạng
giống nhau nhưng các sản phẩm này có sự xê xích về tỷ lệ, về hoa văn. Như lư
hương thì có thể tạo dáng và ngăn vạch thẳng quanh thân, cũng có thể ñắp thêm

hình long ly quy phượng. Các sản phẩm ñúc ñồng ở Chú Tượng ñã chứng tỏ người
thợ ở ñây có tay nghề rất cao, tập trung nhất ở các loại chuông ñồng (cho nhà
chùa).


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
121

Chính nhu cầu của xã hội và trình ñộ tay nghề của nghệ nhân thời ñó mà sản
phẩm ñồ ñồng Chú Tượng ñã mang tính chất hàng hóa. Theo các cụ già xưa kể lại,
sản phẩm ñúc các vật dụng dùng trong ăn uống, sinh hoạt hằng ngày như nồi, thau,
ống nhổ, xanh (chảo), muỗng, cơi trầu, các loại ñồ thờ như lư, ñèn, chuông lớn,
chuông nhỏ, bình hoa của làng Chú Tượng ñã ñược bán ñi khắp trong và ngoài
tỉnh. Các sản phẩm ñúc như nồi, ñặc biệt là chiêng, cồng còn ñược ñúc ra ñể bán
lên miền ngược. Chúng ta biết, làng Chú Tượng gần sông Thoa và sông Vệ, rất
thuận lợi ñể giao thương xuôi ngược. Thung lũng sông Vệ là một trong những cửa
ngõ chính trong tỉnh, có thể ñi lại bằng ñường sông lẫn ñường bộ, ñể buôn bán
giữa người Kinh và người Thượng. ðiều này dẫn ñến hệ quả, các sản phẩm ñúc
ñồng ở làng Chú Tượng hầu như có mặt ở mọi vùng trong tỉnh và cũng ñược khách
buôn các tỉnh lân cận mua về. Các nghệ nhân, thợ ñúc làng Chú Tượng còn ñi hành
nghề ñúc ở các tỉnh bạn và kinh thành Huế. Như ñã nói ở trên, ta có thể nói rằng
nghề ñúc ñồng ở Quảng Ngãi có nguồn gốc lâu ñời và hết sức phát triển, ñã hình
thành các làng ñúc ñồng chuyên nghiệp, tiêu biểu là làng Chú Tượng. Nghề ñúc
ñồng ñã ñem lại ñời sống sung túc cho nhân dân làng Chú Tượng. Người dân làng
Chú Tượng rất tự hào với ñiều này, nên ñã có một bài vè dân gian, trong ñó có câu
"thợ ñúc thợ ñúc, trong nhà phú túc ".
2.3. NGHỀ RÈN
Nghề rèn có mặt trên ñất Quảng Ngãi từ rất sớm. Nó ñã gắn bó với cư dân Sa
Huỳnh từ thời ñại ñồ sắt trước Công nguyên, cách nay trên 2.000 năm. Hàng loạt

các công cụ như: dao, rựa, kiếm, ñục,… ñược tìm thấy trong các chum táng của Sa
Huỳnh cổ ñiển ở Phú Khương chứng tỏ ñiều ñó.
Người Chăm và người Việt kế tiếp nhau cùng thực hiện một nghề mà thiếu nó
người lao ñộng sẽ không có trong tay các công cụ sản xuất. Dấu vết ñể lại của sự
sôi ñộng trong nghề luyện sắt xưa kia là những bãi phế sắt rộng lớn ở các lò thổi
Bình Khương (huyện Bình Sơn) và lò thổi ở Thiết Trường (huyện Mộ ðức).
Những di tích này phản ánh sự vang bóng một thời của nghề luyện sắt của người
Chăm và người Việt.
Tuy nhiên, trong thời ñiểm hiện nay, dù ñã có những công cụ sắt thép ñược sản
xuất bằng máy móc và dây chuyền hiện ñại cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt của
người dân, nhưng nghề rèn sắt thép cổ truyền vẫn ñược duy trì ở hầu hết các làng
quê, từ ñồng bằng ñến miền núi, và hoạt ñộng khá sôi ñộng trong một làng chuyên
nghề rèn sắt. ðó là xóm lò rèn ở thôn An Khánh, xã Tịnh Minh (huyện Sơn Tịnh).
Trong xóm lò rèn có 48 hộ quần tụ thành một làng nghề chỉ nghe thấy tiếng búa gõ
ñập sắt, tiếng gió từ cánh quạt ñể nung than, phản ánh sự nhộn nhịp ăn nên làm ra
của một làng nghề. Trong làng nghề, sản xuất diễn ra theo từng hộ gia ñình. Mỗi
gia ñình có một lò rèn sắt. Lò luyện sắt tối thiểu phải có ba người: một thợ chính
thường là chủ nhà và hai thợ phụ.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
122

Nguyên liệu ñược lấy từ sắt phế phẩm. Xưa kia chúng ñược khai thác từ những
mỏ quặng sắt lộ thiên ở Trà Lâm, Thanh Trà (huyện Bình Sơn) và ở Thiết Trường
(huyện Mộ ðức).
Dụng cụ của nghề gồm có: ñe, búa cái, búa tay, thước, giũa, ve ñóng cò, ñót,
chích, bộ quay gió và lò nung. Mỗi loại dụng cụ ñều có chức năng riêng.
Quy trình sản xuất trải qua ba giai ñoạn:

Giai ñoạn 1: ðưa sắt nguyên vào lò nung nóng. Lò nung gồm hai phần: phần
thân lò có miệng hình lòng chảo ñược tạo thành từ ñất sét; bộ quay gió gồm trục
bánh quay, tay quay, cánh quạt tạo gió.
Giai ñoạn 2: Sau khi nung ñỏ sắt, lập tức người thợ phải ñem ra ñập ñể tạo dáng
cho công cụ.
Giai ñoạn 3: Cứ tiếp tục tạo dáng công cụ theo các quy trình kỹ thuật ñối với
từng loại khác nhau. Sau ñó ñem mài giũa cho lưỡi cuốc, xẻng, liềm, rựa, dao,
kéo… thật sắc, bén.
Hiện nay nghề rèn, luyện sắt ñang có chiều hướng ñi lên. Sản phẩm làm ra của
làng nghề ñược những người buôn bán ñặt hàng và tiêu thụ trên thị trường nhiều
nơi trong nước.
2.4. NGHỀ CHẾ TÁC ðÁ
Những ngành nghề truyền thống của Quảng Ngãi, trong ñó có nghề chế tác ñá,
tuy không ñóng vai trò nổi bật trong nền kinh tế như những ngành nghề khác,
nhưng cũng tồn tại suốt một quá trình dài.
Sản phẩm của nghề chế tác ñá rất ña dạng, như cối xay, cối giã, các hình tượng
thờ cúng, bia mộ, chậu ñá… Sản phẩm cối xay có thể xay ñậu, xay bột gạo khô
hoặc bột gạo ướt; sản phẩm cối giã có thể giã gạo hoặc giã các loại ngũ cốc, những
sản phẩm này ñã giúp cho con người chế biến lương thực thực phẩm phục vụ cuộc
sống, nhưng ñến nay ñã có thiết bị máy móc thay thế nên không còn tồn tại.
Nghề chế tác ñá ở Quảng Ngãi trải qua bao thăng trầm vì các mặt hàng của nó
dần bị các loại công cụ, hàng hóa hiện ñại thay thế, hiện tại chỉ phổ biến chế tác
các hình tượng thờ cúng và khắc bia mộ, ñược người tiêu dùng ưa chuộng. Với bàn
tay khéo léo và óc thẩm mỹ cao của các nghệ nhân chế tác ñá, ñã tạo dựng ñược
nhiều tấm bia mộ có hình dáng ñẹp cả về hoa văn lẫn chữ viết.
Nghề chế tác ñá ở Quảng Ngãi hiện có ở các xã như Tịnh Khê, Tịnh Thiện
(huyện Sơn Tịnh), thôn An ðại, La Hà (huyện Tư Nghĩa), thôn La Vân (huyện
ðức Phổ), Hành Phước, Chợ Chùa (huyện Nghĩa Hành).



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
123

2.5. NGHỀ CHẾ TÁC SỪNG
Nghề làm lược chải tóc và những sản phẩm khác từ sừng trâu (gọi là chế tác
sừng), là một nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống có từ rất lâu ñời ở làng An
Thiết (xã Tịnh Bình), làng Phước Thọ (xã Tịnh Sơn), làng Lâm Lộc Bắc (xã Tịnh
Hà), ñều thuộc huyện Sơn Tịnh.
Truyền thuyết về ba anh em ông Xá (bàu Ông Xá, cầu Bà Tá, chợ mới Bà Hợp
là lấy tên của ba anh em) kể rằng: sau khi ñưa dân ñến An Thiết, Lâm Lộc, ông Xá
ñã khuyến khích họ chăm lo các nghề làm thủ công khéo tay bên cạnh nghề làm
ruộng như làm nón, chế tác sừng. Ông Xá về sau "rấm binh" rồi "ñộng binh" thất
bại, chịu hình phạt tự thăng thiên. Song hai nghề chế tác sừng và nghề làm nón vẫn
tiếp tục phát triển và tồn tại ñến nay.
Tại thôn Lâm Lộc Bắc, thôn Phước Bình (xã Tịnh Sơn) hiện có xóm Lược là nơi
tập trung nhiều nghệ nhân và thợ thủ công làm nghề chế tác sừng. Có hai loại thợ:
loại thứ nhất, chuyên vào nghề chế tác sừng, hầu như không làm nghề nông, có
những nghệ nhân, sản phẩm của họ giàu tính mỹ thuật; loại thứ hai là những hộ chỉ
kết hợp nghề chế tác sừng với nghề nông, sử dụng thời giờ nông nhàn và làm vào
ban ñêm. Ngoài ra, còn có những người chuyên cung cấp nguyên liệu và mua ñi
bán lại các sản phẩm từ sừng.
Các sản phẩm của nghề chế tác sừng ở Quảng Ngãi ñược bán ra khắp thị trường
phía Nam, qua cả Lào và Cămpuchia.
2.6. NGHỀ MỘC DÂN DỤNG
Mộc là một nghề phổ thông, thiết yếu trong dân sinh. Ở Quảng Ngãi xưa, hầu
như làng quê nào cũng có một vài tốp thợ mộc chuyên dựng nhà, ñóng bàn ghế,
giường phản cho các gia ñình. ðến thời kỳ hiện ñại, nghề mộc cổ truyền vẫn ñược
duy trì. Sách ðịa dư Quảng Ngãi (1939) chép: "Nghề mộc: rải rác trong tỉnh ñâu
ñâu cũng có thợ làm nhà, thợ ñóng bàn ghế. Thợ danh tiếng ở những làng ðồng

Viên, ðông Mỹ (huyện Tư Nghĩa), Long Phụng (huyện Mộ ðức) và Vinh Hiển
(huyện ðức Phổ). Tại tỉnh lỵ có vài ba cửa hàng ñóng bàn ghế theo kiểu tân thời,
ñánh xi bóng nhoáng trông rất ñẹp"
(7)
.
Nghề mộc dân dụng ứng dụng công nghệ mới phát triển khá nhanh ở Quảng
Ngãi, ñáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội. Năm 1997, có 606 cơ
sở sản xuất, ñến năm 2005 có hơn 1.000 cơ sở, sản xuất ra gần 100.000 chiếc
giường, tủ, bàn ghế các loại, giải quyết công ăn việc làm cho khá nhiều lao ñộng.
Nghề này hiện phát triển ở hầu hết các ñịa phương trong tỉnh, trong ñó ở xã Nghĩa
Hiệp tức ðồng Viên (huyện Tư Nghĩa) là nơi có số lượng lao ñộng tham gia nhiều
nhất, người thợ có tay nghề cao và tạo ñược nhiều sản phẩm có giá trị.
Nguồn nguyên liệu sản xuất ñồ mộc dân dụng là gỗ sẵn có tại ñịa phương, thị
trường tiêu thụ thường là ở tại chỗ, bán ñi một số tỉnh phía Nam và tham gia xuất


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
124

khẩu. Công nghệ sản xuất ñồ mộc dân dụng dần dần ñã có sự chuyển biến tích cực.
Trước ñây, người thợ chỉ sử dụng sức lao ñộng và kỹ năng nghề nghiệp ñể tạo ra
sản phẩm, thời gian gần ñây hầu hết các cơ sở sản xuất ñều có máy móc như máy
cưa, máy bào, máy ñánh bóng, nên năng suất và chất lượng sản phẩm ngày càng
tăng cao, kiểu dáng ñẹp, giá thành hạ, sản phẩm ñược nhiều người ưa chuộng.
2.7. NGHỀ SẢN XUẤT GẠCH NGÓI
Các cơ sở sản xuất gạch ngói thủ công hiện có rải rác ở hầu hết các huyện trong
toàn tỉnh, nhưng tập trung nhiều nhất là ở các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Mộ
ðức, Bình Sơn, Sơn Tịnh và ðức Phổ. Thuộc loại nổi tiếng trong truyền thống là
gạch ngói Sông Vệ (huyện Tư Nghĩa). Sản phẩm sản xuất ra ñược tiêu thụ chủ yếu

tại ñịa phương. Công nghệ sản xuất từ khâu làm ñất sử dụng sức người là chính,
khâu ép tạo sản phẩm có sử dụng máy móc thay thế sức người nên năng suất lao
ñộng cao hơn trước khá nhiều. Vật liệu nung gạch ngói phần lớn ñã dùng than ñá
thay thế củi, nhưng các cơ sở sản xuất gạch ngói thủ công nằm gần khu dân cư nên
khí thải, bụi công nghiệp, nhiệt ñộ,… gây ảnh hưởng ñến môi trường sinh thái và
sức khoẻ cộng ñồng. Nguồn nguyên liệu ñất sét sẵn có tại ñịa phương thông qua
cải tạo ñồng ruộng là chính, nguồn nguyên liệu này dần dần sẽ cạn kiệt, ñang
hướng tới khai thác mỏ ñất sét.
Hiện nay, sản xuất gạch ngói ñã ứng dụng công nghệ sản xuất gạch tuynen. Ở
Quảng Ngãi có nhà máy gạch tuynen Tịnh Phong (huyện Sơn Tịnh) tạo ñược nhiều
sản phẩm có chất lượng cao, vươn xa ñến các thị trường Tây Nguyên và các vùng
phía Bắc.
2.8. NGHỀ LÀM MẮM
Làm mắm là nghề nổi tiếng từ lâu ñời ở vùng duyên hải miền Trung. Những
cánh ñồng muối rộng mênh mông ở Sa Huỳnh, Tịnh Hòa, cá cơm, cá nục, cá trích
xuất hiện nhiều vào mùa gió nồm là nguồn nguyên liệu dồi dào của nghề mắm, là
ñiều kiện khách quan dẫn ñến sự hình thành nhiều làng nghề làm mắm ở vùng
duyên hải Quảng Ngãi.
Quảng Ngãi có nhiều làng nghề làm mắm, như Thạch Bi, Long Thành, Long
Trì, An Phổ, Kỳ Tân, An Chuẩn, Phổ An, Cổ Lũy, Mỹ An, An Vĩnh, Kỳ Xuyên và
Tuyết Diêm. Những nơi nghề làm mắm phát triển sôi ñộng nhộn nhịp nhất hiện
nay vẫn là các làng: Thạch Bi (xã Phổ Thạnh, huyện ðức Phổ), An Chuẩn (xã ðức
Lợi, huyện Mộ ðức); với khoảng 200 hộ chuyên làm nghề mắm.
Nghề làm mắm ở Quảng Ngãi ñã gắn bó bao ñời với cư dân vùng biển. ðến nay
những người làm nghề không còn nhớ rõ ông tổ nghề của mình. Có lẽ, ñây chỉ là
một quá trình ñược sàng lọc tự nhiên từ kinh nghiệm thực tế, cộng với sự học hỏi
kỹ thuật chế biến ở các nơi khác, ñể ñi ñến hình thành những làng nghề hoàn
chỉnh.



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
125

Nguyên liệu làm mắm là loại cá cơm ñược thu hoạch từ tháng Giêng, Hai, Ba
(Âm lịch). ðây là thời ñiểm cá cơm làm mắm có hương vị thơm ngon nhất. Riêng
mắm nục ñược làm từ tháng Ba ñến tháng Tư, là thời vụ cá nục nổi nhiều, lúc này
muối mắm sẽ ñem lại hương vị mặn mà. Ngoài hai loại cá chính ñể làm mắm nói
trên, người dân biển còn làm mắm ngừ, mắm mực, mắm kình, mắm nhum, mắm
tôm.
Quy trình làm mắm ñược tiến hành theo công thức 2 cá với 1 muối, hoặc 3 hoặc
4 cá với 1 muối, tùy theo cá to hay cá nhỏ. Cá, muối thường ñược lường theo mủng
ñể có tỷ lệ thích hợp.
Nghề làm mắm ở Kỳ Tân, An Chuẩn hiện nay ñã trở nên sôi ñộng. Mức tiêu thụ
nguyên liệu hàng tháng lên ñến 20 - 30 tấn chợp (cá tươi). Do nguồn nguyên liệu
"chợp" ở vùng biển này cung cấp không ñủ, nên chủ yếu là do ngư dân vùng ven
biển phía nam như Sa Huỳnh, Bình Thuận cung cấp.
Hiện nay, các làng nghề Kỳ Tân, An Chuẩn ñều có sức sản xuất mắm tăng lên
ñáng kể, cuộc sống làng nghề trở nên khá giả. Sự hồi sinh, phát triển của một làng
nghề cổ truyền là một tín hiệu ñáng mừng cho nghề truyền thống này ở Quảng
Ngãi.
2.9. NGHỀ DỆT CHIẾU
Nghề dệt chiếu ở Quảng Ngãi có từ lâu ñời. Nghề này ñã ñi theo những người
nông dân Thanh Hóa vào vùng ñất xứ Quảng từ thế kỷ XV. Tuy nhiên, sự quần tụ
ñể hình thành làng sản xuất hàng hóa ñáp ứng nhu cầu tiêu dùng lại diễn ra vào
khoảng thời gian tiếp theo. ðịa bàn có làng nghề dệt chiếu là vùng ven biển Quảng
Ngãi, như các làng Thu Xà, Phú Thọ (xã Nghĩa Hòa, Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa),
Cổ Lũy (xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh), các làng phía ñông nằm ven biển ở các
huyện ðức Phổ, Bình Sơn. Nơi ñây con người canh tác và trồng ñược nguyên liệu
cho nghề, ñó là cây cói. Cói là loại cây thảo, mọc ở vùng ñất trũng thấp dọc ven

biển, loại cây này có bộ rễ phát triển rất mạnh, mọc um tùm, thân dài vươn cao.
Khi cây cói có chiều cao từ 1 - 1,4m, người ta bắt ñầu thu hoạch ñem về nhà chẻ
ra, phơi khô thành sợi dệt. Nếu chiếu nhiều màu thì sợi cói phải trải qua công ñoạn
nhuộm với các màu xanh, ñỏ, nâu, vàng
Sau khi chuẩn bị xong nguyên liệu, người thợ tiến hành dựng khung dệt. Khung
dệt chiếu cấu tạo gồm có các bộ phận: trục; con ngựa; trân; khổ. Sản phẩm chiếu
ña dạng, gồm các loại chiếu ñơn, mỏng, dệt ñơn giản; chiếu nhiều màu, dày, dệt
công phu. Tấm chiếu khi nhuộm phải lựa chọn các màu sắc hài hòa. Chiếu nhiều
màu thường dày, phải dệt bằng loại "khổ" khác. Chiếu ñơn thường có kích thước từ
0,8 - 1,2m (chiều ngang), chiếu ñôi nhiều màu có kích thước từ 1,2 - 1,6m (chiều
ngang).


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
126

ðể in hình lên chiếu, người thợ dùng khuôn in trổ, ñúc bằng ñồng chạm thủng
mô tả các hình hoa loa kèn, ñường viền kỷ hà, trái ñào, các chữ "hạnh phúc gia
ñình", "trăm năm hạnh phúc", hình con bướm, trái ñào, năm sản xuất, vv.
Hiện nay, ở làng Thu Xà ñã dệt ñược các loại chiếu dày, nhiều màu ñẹp, bán ở
thị trường các tỉnh miền Nam, rất ñược người tiêu dùng ưa chuộng.
2.10. NGHỀ ðAN
Nghề ñan hầu như có mặt hầu hết ở các làng quê Quảng Ngãi. Làng quê nào
cũng có vài người chuyên ñan rổ, mủng (thúng), nong, nia, sàng, dần, rá, rế, lờ,…
phục vụ cho nhu cầu trong gia ñình và người trong làng.
Quảng Ngãi có những làng nghề ñan mang tính chất lâu ñời ñến nay vẫn còn tồn
tại và phát triển. ðó là các làng Hà Nhai, xóm ñan Lâm Lộc, xóm ñan Phú Hòa
(huyện Sơn Tịnh); xóm ñan Hiệp Phổ (huyện Nghĩa Hành). Các làng nghề này ñều
có ông tổ nghề từ ngoài Bắc vào. Chẳng hạn trong xóm ñan Lâm Lộc người dân

ñều có họ Quách. Trong một xóm chuyên nghề ñan, trai gái ñều biết ñan, còn
người già chỉ dẫn nghề cho lớp trẻ.
Nguyên liệu dùng trong nghề ñan là tre, mây. Nguồn tre, mây ở Quảng Ngãi hết
sức dồi dào và phong phú. ðể ñan những sản phẩm có giá trị cao, người ta dùng tre
già, cật nhỏ ñể ñan, còn ñối với những sản phẩm bình thường, người thợ dùng tre
non hơn. Tre ñốn về, người thợ cưa khúc rồi chẻ ra thành nhiều miếng nhỏ, từ
những miếng nhỏ này người thợ tách thành nan, chuốt mỏng sau ñó mới bắt ñầu
ñan. Sản phẩm ñan thường là các công cụ: rổ, rá, sàng, nong, nia, thúng bơi, mủng,
lờ ñơm cá, rọ heo, giỏ tre, giỏ cá, giỏ cua, ñan công phu và ñẹp mắt như ñan
xiểng dùng trong ñám cưới, rất ña dạng và phong phú.
Các dân tộc thiểu số miền núi Quảng Ngãi cũng rất giỏi nghề ñan. Người ta
thường ñan gùi ñi rẫy, ñan các công cụ như nơm cá, ñụt cua, giỏ gà. Nguyên liệu
ñan thường lấy từ lồ ô, mây, lùng,… sẵn có trong rừng. Ở dân tộc Cor có ñan loại
gùi dẹt 3 ngăn của nam, gùi dẹt 1 ngăn dành cho nữ bằng mây, khá tinh xảo, ñẹp
mắt.
Hiện nay, ở Quảng Ngãi có một số nơi như xã Tịnh Ấn Tây (huyện Sơn Tịnh)
mở cơ sở ñan các ñồ dùng mỹ nghệ bằng mây tre ñể bán ra thị trường nội ñịa và
xuất khẩu, nhiều vật dụng mang tính thẩm mỹ cao. Tuy nhiên, các kiểu dáng
truyền thống chưa ñược khai thác và phát huy ñể thành hàng hóa.
2.11. NGHỀ DỆT
Xưa kia, khi chưa có vải công nghiệp thì nghề trồng bông dệt vải phổ biến hầu
khắp các làng quê Quảng Ngãi, ở tất cả các dân tộc. Người Việt thường dệt vải ta,
nhuộm ñen. Các dân tộc thiểu số miền núi dệt vải thường hoặc thổ cẩm, trên ñó có


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
127

trang trí nhiều hoa văn thể hiện ñậm nét bản sắc dân tộc. Trải qua thời gian, hàng

hóa công nghiệp phát triển, nghề dệt mất dần.
Làng Teng thuộc xã Ba Thành, cách huyện lỵ Ba Tơ khoảng 7km về phía ñông,
gần như là làng duy nhất còn giữ ñược nghề dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc
Hrê ở Quảng Ngãi.
Thổ cẩm của người Hrê có nhiều hoa văn họa tiết rất ñẹp. Sản phẩm ñủ các loại,
từ váy (kà tu), khố (ka pen), tấm ñịu con (ka tăh), khăn ñội ñầu (mul), dây ñeo (si
păh), khăn gói trầu cau hoặc gói lễ vật (ta góh), mền ñắp (vei xan). Những dịp
cúng mừng năm mới, hội làng, lễ cưới của người Hrê không thể thiếu tiếng cồng
chiêng, rượu cần và trang phục truyền thống.
Hiện nay, nghề dệt thổ cẩm làng Teng ñang ñược hỗ trợ ñể duy trì và phát triển.
Tuy nhiên, sản phẩm dệt thổ cẩm bán ra còn chậm, giá nhân công thấp, nên sự duy
trì nghề chỉ ở mức cầm chừng, chưa có dấu hiệu khởi sắc.
2.12. NGHỀ LÀM ðƯỜNG MUỖNG
Quảng Ngãi là xứ sở của mía ñường. Trồng mía và chế biến ñường từ mía là
một bộ phận quan trọng của nghề nông gắn kết với tiểu thủ công nghiệp. ðường
muỗng là loại ñường ñược cô ñặc từ nước ép ra từ cây mía (gọi là nấu ñường) và
cho kết tủa trong các muỗng (hay muống) bằng ñất nung hình chõ. Người ñịa
phương có thói quen nhắc ñến những loại ñường muỗng gắn liền với ñịa ñiểm sản
xuất ra nó, ví dụ: ñường Suối Bùn (Hành Tín Tây, huyện Nghĩa Hành), ñường
Bình Mỹ (huyện Bình Sơn), ñường Trà Bình (huyện Trà Bồng), ñường Thọ Lộc
(Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh), với ý niệm về sự tốt xấu khác nhau.
Ba khâu quan trọng của nghề làm ñường muỗng là ép mía, nấu ñường và ra
muỗng. Tương ứng với ba khâu là ba "bộ" dụng cụ: che, chảo và các thùng lóng,
bộ lọc, vợt, muỗng.
Quy trình làm ñường muỗng truyền thống bao gồm các bước:
Ép mía: Mía cây ñược róc sạch, ñưa vào che ép (qua 3 lần), bã ñem phơi khô ñể
làm chất ñốt; nước mía gọi là chè, dùng lường ñưa nước mía vào chảo.
Thắng ñường: Thắng ñường là cô ñặc nước mía thành ñường sacaroza, chủ yếu
gồm hai giai ñoạn và phần hậu kỳ.
Giai ñoạn 1: ðun nước mía sôi lần thứ nhất trong chảo, bỏ một ít vôi vào lần

thứ nhất, vớt bọt. Khi sôi lên lóng nước "chè một". Chè trong lóng dùng một chổi
bằng rạ ñánh cho chạy vòng theo kim ñồng hồ rồi ñể một thời gian cho ñất, cáu
lắng xuống ñáy. Nước mía lúc này gọi là "chè hai".


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
128

Giai ñoạn 2: Cho "chè hai" xuống lại chảo cô ñặc thành mật. Khi mật dẻo và dỡ
gáo chè lên thấy ở ñáy mật quánh và rơi xuống theo hình cánh dơi. Ăn thử thấy
dính răng là có thể ñưa ra muỗng. Ở giai ñoạn này, người ta thêm vôi, dầu phộng
nhiều ít tùy theo chất ñất trồng mía, thời tiết, mía non hay ñã ñúng kỳ. ðường có
"ra cát" (kết tinh) hay không là tùy theo cách "xử lý kỹ thuật" ở giai ñoạn này. Quá
lửa, ñường khét; non lửa, "yếu cát" Tất cả ñều phụ thuộc vào kinh nghiệm của
người nấu ñường.
Ra muỗng: Mật ñường ñã ñược ñưa ra muỗng, người thợ ñể cho ñường mật
nguội dần và kết tủa; trong lúc ñó thỉnh thoảng có những tác ñộng phụ thúc ñẩy
quá trình kết tủa, làm cho hạt tinh thể lớn, kết tinh ñều. Khi ñổ ñường vào muỗng,
người thợ ñổ ở hiệp thứ nhất không cho ñường ñầy muỗng. Hiệp sau người thợ mới
làm cho muỗng ñường ñầy lên mặt.
Hậu kỳ: ðường nguội ñem về nhà úp mặt xuống nền ñất và lắc ñều ñể khối
ñường rơi ra khỏi muỗng, khối ñường rời khỏi muỗng xong ngửa nguyên muỗng
ñường ñặt lên một cái chum ñể rút mật vào chum. ðể mật ra sạch, ñường trắng,
người ta ñổ một lớp bùn non lên mặt ñường (có khi là chuối giã dập) ñể phần nước
của bùn hoặc của chuối ñẩy dần xuống dưới.
Khi ñã rút hết mật (khoảng 7 - 10 ngày) người ta ra ñường. ðem phơi ñường
nguyên khối ngoài nắng rồi sau ñó chặt thành từng khối nhỏ mà trong ñó nhất thiết
phải có hai phần rời riêng mặt ñường và ñít muỗng. Mặt ñường trắng hơn, người ta
gọi là ñường trắng hay ñường bạch, phần ñít muỗng còn chứa nhiều mật, người ta

gọi là ñường ñen.
Về sau, khi Nhà máy ñường Quảng Ngãi (ñược xây dựng và ñưa vào hoạt ñộng,
có tên gọi ñầu tiên là Nhà máy ñường Thu Phổ) ñi vào sản xuất, thu hút một lượng
lớn mía trồng trong tỉnh, nhưng ở một số vùng, người nông dân Quảng Ngãi vẫn
tiếp tục chế biến ñường muỗng ñể bán ra thị trường. ðường kính trắng (RS) của
nhà máy ñường dù trắng và ñẹp nhưng hương vị riêng của ñường muỗng vẫn hấp
dẫn với người dùng. Nhưng cho ñến nay, nghề nấu ñường muỗng hầu như không
còn tồn tại nữa. Sự sản xuất ra ñường muỗng (hay ñường công nghệ RS) chính là
cơ sở, là việc tạo nguyên liệu ñể phát sinh và phát triển một số nghề khác, cho ra
nhiều sản phẩm khác, trong ñó có các nghề sản xuất ñường kẹo ñặc sản ñược giới
thiệu sau ñây.
2.13. NGHỀ NẤU ðƯỜNG PHÈN
"Ngọt như ñường cát, mát như ñường phèn" là câu nói dân gian thể hiện ñặc tính
của hai loại ñường phổ biến ở Quảng Ngãi là ñường cát và ñường phèn.
ðường phèn là loại ñặc sản nổi tiếng của Quảng Ngãi. ðường ở dạng kết tinh
trong suốt, tựa như những thỏi thạch anh, với nhiều hạt ñường hình lập thể. Khi ăn,
thỏi ñường phèn vỡ ra, giòn tan, vị ngọt thanh, thấm dịu vào ñầu lưỡi. Nghề nấu
ñường phèn xưa tập trung ở các làng Ba La, Vạn Tượng (xã Nghĩa Dõng), Chánh


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
129

Lộ (thành phố Quảng Ngãi). Hiện nay, nghề này theo chân các nghệ nhân tập trung
ở tỉnh lỵ Quảng Ngãi.
Nguyên liệu dùng chế biến ñường phèn là ñường bông (xưa kia) và ñường kết
tinh (ngày nay). Bên cạnh ñó có gia giảm thêm các nguyên liệu phụ gồm: vôi ốc,
trứng gà, dầu phộng và về sau còn có thêm thuốc tẩy trắng ñường. Vôi ốc có tác
dụng như một chất phụ gia quan trọng ñể tạo phản ứng kết tủa nhanh chóng. Trứng

gà là loại dung môi ñể lóng cặn, kết tủa chất dơ bẩn trong ñường ñể làm cho ñường
sạch, ñồng thời tăng thêm hương vị thơm ngon của ñường. Dầu phộng làm cho
ñường khỏi dính kết vào vành thùng nhằm lấy ñường ra dễ dàng. Thuốc tẩy ñường
làm gia tăng ñộ trắng. Tuy nhiên, nếu dùng quá liều thuốc tẩy, sẽ làm cho ñường
kém ñi hương vị thơm ngon, có hại cho người dùng.
ðường phèn ñược chế biến theo các quy trình như sau: người thợ lấy ñường
bông hoặc ñường kết tinh ñổ vào chảo, ñổ thêm nước trong vào, với tỉ lệ thích hợp,
ñun sôi ñể hòa tan ñường. Trọng lượng ñường chế biến theo công thức sau: 2.000g
ñường phải dùng 100g vôi ốc ñể tăng sự kết tủa và cứ 4kg ñường phèn thành phẩm
thì phải dùng 1 quả trứng g ñể kết tủa chất bẩn và làm cho ñường thơm ngon. Khi
ñun sôi hòa tan ñường ñến một thời ñiểm nhất ñịnh, bằng cảm quan kinh nghiệm,
người thợ sẽ nhận biết ñường ñã tới ñộ chín hay chưa. Tiếp sau ñó, nước ñường ñã
ñun sôi sẽ ñược ñưa vào thùng chứa. Hiện nay, thùng chứa ñược làm bằng tôn, ñã
thoa sẵn dầu phộng. ðể cho ñường kết tủa nhanh chóng, người thợ dùng 2 phên tre
ñan ñặt ở trên miệng và ở dưới ñáy thùng, dùng các sợi chỉ nối hai phên tre lại với
nhau. ðường kết tủa sẽ bám vào các sợi chỉ và các tinh thể sẽ ñược kết tụ lớn dần.
Sau khi cho nước ñường vào, thùng chứa không ñược lay chuyển, cho nước ñường
ñược tĩnh lại ñể quá trình kết khối diễn ra nhanh chóng. Khi ñường ñã kết khối
hoàn toàn (8 - 12 ngày ñêm), người thợ ñổ ñường ra nong, ñập rời từng tảng rồi
ñem phơi khô.
Trên thị trường, sản phẩm ñường phèn Quảng Ngãi ñã tạo ñược sự ưa chuộng,
tín nhiệm của khách hàng. Người ta thường dùng làm quà cho các chuyến ñi xa,
biếu người thân.
2.14. NGHỀ LÀM ðƯỜNG PHỔI
Tên gọi ñường phổi xuất phát từ hình dạng thỏi ñường tựa như lá phổi. ðường
phổi màu trắng vàng, mịn xốp, sạch sẽ ưa nhìn. ðường phổi là ñặc sản riêng của
Quảng Ngãi. Từ những năm cuối thế kỷ XIX sang những thập kỷ ñầu thế kỷ XX,
ñường phổi ñược chuyển xuống Thu Xà xuất sang Pháp, Trung Hoa, Hồng Kông
Thương nhân người Hoa mua ñường phổi từ Việt Nam chuyển sang các cơ sở tái
chế ñường ở Hồng Kông ñể tẩy trắng lại bằng chất hóa học, rồi mang ñi bán khắp

nơi và gọi là ñường Hương Cảng. Chính nhu cầu xuất cảng và tiêu thụ về ñường
phổi mạnh ñã ñem lại sự phồn vinh và sầm uất cho các làng nghề làm ñường phổi
Ba La, Vạn Tượng vào thời ñó.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
130

Người làm nghề ñầu tiên ở vùng Vạn Tượng, Ba La là ông Nguyễn ðăng Nhứt.
Ông theo học nghề ở làng An Nhơn, tổng Bình Châu, nay là xã Tịnh An, huyện
Sơn Tịnh. Những năm cuối thế kỷ XIX sang ñầu thế kỷ XX, nghề làm ñường phổi
chuyển qua làng Vạn Tượng, Ba La và phát triển hưng thịnh ở ñây. Nghề làm
ñường phổi mang tính gia truyền và chỉ những nghệ nhân giàu kinh nghiệm mới
làm ñược những thỏi ñường ngon. Sau năm 1975, do khó tiếp cận thị trường,
những người làm ñường phổi chuyển lên làng nghề ở làng Chánh Lộ (thị xã Quảng
Ngãi). Hiện nay, ở làng Ba La, Vạn Tượng không tìm thấy những cơ sở chuyên sản
xuất loại ñường này nữa.
Nguyên liệu dùng cho sản xuất ñường phổi là ñường bạch (ngày xưa) và ñường
kết tinh (ngày nay), ngoài ra còn kèm theo các nguyên liệu phụ gia như: trứng gà
nhằm mục ñích tẩy tạp chất làm cho ñường tăng chất lượng thơm ngon, vôi làm
tăng sự kết tủa của ñường.
Các dụng cụ dùng ñể nấu ñường phổi, bao gồm một chảo nấu và một chảo
ñường ñể ñông ñặc. Một lò nấu ñường phổi thường có từ hai chảo trở lên nhằm
tránh tình trạng ñường sít cháy. Ngoài ra còn có các dụng cụ khác như gáo ñể múc
ñường, hớt ñể vớt bọt ñường, vá ñể ñánh ñường cho ñông ñặc, dao ñể xén ñường
thành lát.
ðường phổi ñược chế biến theo quy trình sản xuất như sau: người thợ ñổ ñường
bạch hoặc ñường kết tinh vào chảo, ñồng thời ñổ nước vào rồi ñun sôi ñể hòa tan
ñường. Khi ñường ñã sôi và hòa tan, người thợ cho vào ñó một lượng vôi tương

ứng, sau ñó tiếp tục cho vào chảo một lượng trứng gà thích hợp. ðường tiếp tục
sôi, người thợ vớt các bọt tạp chất nổi lên cho ñến khi nước ñường trong thì mới
ngừng ñun lửa. Tiếp theo dùng gáo múc nước ñường cho vào thùng chứa ñể nấu
dần, ñồng thời trong thùng chứa ñường tiếp tục lắng cặn. Từ thùng chứa, người thợ
chuyển nước ñường vào chảo khác và nấu ñến ñộ chín ñông ñặc. Sau ñó ñưa chảo
ñường ra ngoài và dùng vá ñánh quay ñều trong chảo. Một lát sau, bọt ñường hạ,
ñường kết tụ ñông ñặc, người thợ dùng dao xắn từng lát, ñưa vào túi PE ñóng gói.
Các cơ sở chế biến ñường phổi ñều ở dạng thủ công riêng lẻ, bao bì giản ñơn,
giữ bí quyết sản xuất, ñang dần có sự liên kết sản xuất, trao ñổi kinh nghiệm ñể mở
rộng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, bao bì.
2.15. NGHỀ LÀM KẸO GƯƠNG
Trong dân gian Quảng Ngãi có câu "Kẹo gương Thu Xà, mạch nha Thi Phổ".
Trước ñây, Thu Xà là làng quê duy nhất ở Quảng Ngãi sản xuất ñược kẹo gương.
Nhưng hiện nay ở ñây chỉ còn lại nguồn cội của nghề, trong chiến tranh người làm
nghề dời lên thị xã Quảng Ngãi, biến nơi này thành ñiểm sản xuất kẹo gương phồn
thịnh với nhiều cơ sở chế biến khá nổi tiếng.
Thu Xà là nơi cư trú của những người Minh hương gốc từ Quảng ðông, Phúc
Kiến, Hải Nam, Triều Châu vào ñịnh cư nơi ñây vào khoảng cuối thế kỷ XVII,


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
131

bước sang ñầu thế kỷ XVIII. Những người Quảng ðông ñịnh cư mang theo nghề
làm kẹo gương. Theo tiếng Quảng ðông, kẹo gương gọi là "pôlythừng", có nghĩa
là loại kẹo ñẹp và trong suốt như gương.
Nguyên liệu sản xuất kẹo gương là ñường bạch hoặc ñường kết tinh, bên cạnh
ñó còn có các nguyên liệu phụ như mè, ñậu phộng, mỡ heo, chanh, trứng gà. Dụng
cụ chế biến kẹo gương gồm xoong, chảo nấu, dao cắt và vá ñánh cho ñường thành

kẹo. Quy trình sản xuất của kẹo gương phải qua nhiều công ñoạn. Người thợ cho
ñường vào chảo, ñổ nước ñun sôi ñể ñường hòa tan, rồi cho vào chảo nước trứng
gà ñể vớt bỏ những tạp chất trong ñường và nấu cho ñến khi nước ñường chuyển
thành màu trong suốt thì ngưng lại. Người thợ múc cho vào thùng chứa lớn ñể nấu
dần. Giai ñoạn tiếp theo là chế biến kẹo gương. Người thợ lấy một xoong ñồng ñổ
nước ñường vào, ñun vừa lửa, lấy vá sên ñường trở thành chất ñặc, trong giai ñoạn
này cho nước chanh vào. Sau ñó người thợ ñổ ñường sang chảo khác, ở chảo này
mạch nha và mỡ heo ñược cho vào, khuấy ñều ñể khỏi bị sít cháy, khoảng chừng 2
giờ sau, bằng trực cảm nhận thấy nước ñường "tới", người ta bê chảo ra khỏi lò.
Bấy giờ người thợ ñổ vào chảo ñậu phộng rang bóc vỏ sẵn. Mè ñược rải ñều lên
trên bàn gỗ hoặc tấm nhôm dày. ðường từ xoong ñổ ra, rồi trải ñều lên bàn gỗ ñã
ñược rắc sẵn mè, người thợ dùng dao xén thành miếng vuông vức.
Nếu không có nghề gia truyền thì về kỹ thuật chế biến, kẹo gương khó ñạt ñược
chất lượng cao. Chẳng hạn, kỹ thuật rang mè, ñậu phộng sao cho vừa chín tới.
Nhiệt ñộ ñể ñường chín tới thành kẹo phải xác ñịnh chính xác thì mới cho ra sản
phẩm kẹo gương hoàn hảo, ñạt tiêu chuẩn: trắng, trong, giòn và thơm. Kẹo gương
trên thị trường rất ñược khách hàng mến mộ và ưu ái bởi giá cả phải chăng, kẹo
hợp vệ sinh, tính thẩm mỹ cao và thơm ngon.
2.16. NGHỀ LÀM MẠCH NHA
Nghề làm mạch nha ở Quảng Ngãi là một trong những nghề thủ công truyền
thống ra ñời sớm và phát triển rộng rãi. Sản phẩm mạch nha từ những năm 1930 -
1935 ñã ñược trưng bày tại hội chợ Hà Nội, Huế và ñược công nhận là sản phẩm
tiểu thủ công nghiệp xuất sắc, ñược cấp bằng khen và triều ñình Huế phong hàm
Cửu phẩm văn giai cho nghệ nhân.
Nghề làm mạch nha xuất phát từ gia ñình ông Phó Sáu, người làng Thiết
Trường, tổng Lại ðức, phủ Mộ ðức, nay là thị trấn huyện lỵ Mộ ðức. Sau ñó, ông
Trần Diêu, là con rể ông Phó Sáu, cùng với vợ là bà Lê Thị Ngọ, kế nghiệp cha
khởi ñầu sản xuất mạch nha tại ðồng Cát và Thi Phổ năm 1928. Vì vậy, có thể gọi
ông Phó Sáu là ông tổ của nghề nấu mạch nha ở Quảng Ngãi.
Mạch nha là một chất ñường lấy từ gạo nếp. Người ta thường dùng mộng lúa ñể

làm mạch nha (tên mạch nha có nghĩa là mộng lúa). Mạch nha có ñặc tính ngọt
thanh và dịu, ăn nhiều không thấy gắt, cái dẻo của mạch nha cũng khác ñường non,
cầm thố hay lon ñựng mạch nha nghiêng qua một bên thấy mạch nha không ñổ
dồn, sờ không dính tay, ăn có chứa nhiều sinh tố vì dùng toàn mộng lúa pha với


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
132

mộng nếp hay toàn mộng nếp thay vì mộng lúa, nên mạch nha có thể ñể lâu mà vẫn
giữ nguyên mùi vị thơm ngon, dễ bảo quản.
Quy trình sản xuất mạch nha gồm 3 giai ñoạn chính: 1) Ngâm lúa thành mộng;
2) Nấu, ép và lọc; 3) Giai ñoạn "cô", giai ñoạn cuối cùng, quyết ñịnh chất lượng
của mạch nha. Mạch nha ñặc hay lỏng, ngon hay dở, ñể lâu ñược hay không phần
lớn phụ thuộc kỹ thuật "cô".
Sau khi ép lấy nước xong, người ta dùng nồi (ñã lau thật sạch) ñổ nước ñã ép và
lọc vào nồi bắc lên lò ñun lửa cho thật to, vừa ñun vừa canh chừng tới khi mạch
nha vích lên thấy bọt như tổ ong liền bớt lửa, chỉ ñể than và khuấy ñũa xem chừng.
Công việc này tùy theo kinh nghiệm của từng người thợ, nhưng trên nguyên tắc
chung thì khi thấy mạch nha vích lên có tơ bay hoặc nhỏ trong nước, lấy tay bóp
không chảy rơi xuống là mạch nha ñã ñúng ñộ kết thành. Sau ñó cho vào bao bì
(lon), dán nhãn hiệu.

(1) Lê Quý ðôn: Phủ biên tạp lục, tập 2, sñd, tr. 403.
(2) Lê Quý ðôn: Phủ biên tạp lục, sñd, tr. 405.
(3) Lê Quý ðôn: Phủ biên tạp lục, sñd, tr. 407.
(4) Lê Quý ðôn: Phủ biên tạp lục, sñd, tr. 425 - 426.
(5) Nguyễn Bá Trác và các tác giả: Quảng Ngãi tỉnh chí, Nam Phong tạp chí, 1933.
(6) Phạm Trung Việt: Non nước xứ Quảng tân biên, Nxb Khai trí, Sài Gòn, 1971, tr. 93.

(7) Nguyễn ðóa - Nguyễn ðạt Nhơn: ðịa dư tỉnh Quảng Ngãi, sñd, tr. 20.
II. CÔNG NGHIỆP
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
So với nhiều nơi trong nước, nhất là với các trung tâm lớn, thì công nghiệp ở
Quảng Ngãi là ngành sinh sau ñẻ muộn. Nhưng công nghiệp nơi ñây ngày càng có
vị trí quan trọng, ñầy tiềm năng ñể phát triển trong tương lai không xa.
Trước tháng 3.1975, với sự phát triển của nông nghiệp, ngành nghề nông thôn,
trên ñất Quảng Ngãi ñã hình thành những ñiều kiện về nguyên liệu, vị trí, nhân lực
cho sản xuất công nghiệp. Dưới thời chính quyền Sài Gòn, năm 1962, tại Quảng
Ngãi ñã tiến hành xây dựng nhà máy ñường, có thể coi ñây là một trong những cơ
sở ñầu tiên của ngành công nghiệp Quảng Ngãi. Trong giai ñoạn này, cũng ñã có
một vài cơ sở công nghiệp như nhà máy ñiện, nhà máy nước, nhưng các ñơn vị này
chỉ thuần túy tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu quản lý của chính quyền Sài Gòn


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
133

lúc bấy giờ, chưa tạo ra các sản phẩm phục vụ tiêu dùng dân cư, chưa mang tính
sản phẩm hàng hóa rộng khắp. Ở vùng giải phóng miền Tây Quảng Ngãi, Ban
Kinh tài của Tỉnh ủy Quảng Ngãi ñã xây dựng nhiều cơ sở sản xuất ñể dệt vải,
màn, may mặc, làm giấy… phục vụ chiến ñấu. ðồng thời, vào những năm 1974,
1975 có vài cơ sở sản xuất thuộc Trung ương ñược hình thành và hoạt ñộng phục
vụ kháng chiến, ñóng trên ñịa bàn tỉnh, như sản xuất và chế biến gỗ ñể phục vụ xây
dựng cầu ñường Trường Sơn.
Tuy nhiên, phải ñến sau năm 1975, ngành công nghiệp mới thực sự ñược hình
thành ở quê hương Quảng Ngãi.
Từ sau ngày Quảng Ngãi ñược hoàn toàn giải phóng (24.3.1975), công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp Quảng Ngãi có ñiều kiện ñể phát triển. Tháng 9.1975, Uỷ ban

nhân dân cách mạng Quảng Ngãi có quyết ñịnh thành lập Xí nghiệp Mộc Quảng
Ngãi; Phân xưởng cơ khí An Ngãi với nhiệm vụ ban ñầu là sản xuất, sửa chữa các
thiết bị, ñồ dùng quân giới. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, xưởng cơ
khí ñược chuyển về hoạt ñộng tại ñịa ñiểm số 6 ñường Nguyễn Thụy, thị xã Quảng
Ngãi. Năm 1976, Nhà máy cơ khí An Ngãi chính thức ñược thành lập.
ðó là những cơ sở ban ñầu của công nghiệp Quảng Ngãi. Các cơ sở này có vai
trò nhất ñịnh trong nền kinh tế của tỉnh, tuy nhiên trong cơ chế kinh tế bao cấp xơ
cứng, ñã không có sự tiến bộ nào ñáng kể về mặt kỹ thuật.
Từ sau khi thực hiện chủ trương ñổi mới, mở cửa hội nhập (1986), nhất là từ sau
ngày tỉnh Quảng Ngãi ñược tái lập (1989), các ngành nghề công nghiệp trong tỉnh
mới thực sự có ñiều kiện phát triển. Ngành công nghiệp Quảng Ngãi dần dần có
bước ổn ñịnh và tăng trưởng, ñóng góp giá trị kinh tế cao, thực sự ñóng vai trò then
chốt trong nền kinh tế. Những chỉ số cơ bản về công nghiệp từ năm 1990 ñến năm
2005 sau ñây cho thấy ñiều ñó:
Tỉ trọng giá trị công nghiệp trong cơ cấu GDP của tỉnh năm 1990 là 12,5%,
năm 1996 là 16,35%, năm 2000 là 21,58% và ñến năm 2005 là 30%;
Số cơ sở sản xuất lên ñến 13.830 ñơn vị ở thời ñiểm năm 2005, trong ñó có 116
xí nghiệp công nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, bao gồm 23 xí nghiệp thuộc
kinh tế nhà nước và 2 xí nghiệp liên doanh với nước ngoài;
Hình thành và phát triển 3 khu công nghiệp: Dung Quất, Tịnh Phong, Quảng
Phú. ðặc biệt, Khu Công nghiệp Dung Quất (năm 2005 hình thành Khu Kinh tế
Dung Quất) là trung tâm lọc hóa dầu, cảng biển nước sâu, là nơi thu hút nhiều nhà
ñầu tư, triển khai nhiều dự án có quy mô lớn;
Ngoài các khu công nghiệp, Quảng Ngãi ñã quy hoạch ñịnh hướng và triển khai
ñầu tư các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, do các huyện, thành phố quản
lý, dự kiến ñến năm 2010 mỗi huyện, thành phố ñều có ít nhất 1 cụm công nghiệp.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang

134

Sự phát triển công nghiệp ở Quảng Ngãi bao gồm nhiều ngành khác nhau, tuy
mỗi ngành có sự khác biệt về quy mô, trình ñộ kỹ thuật - công nghệ, lao ñộng,
nhưng có thể phân loại ñược một số ngành công nghiệp chủ yếu, như sau: 1) Công
nghiệp sản xuất thực phẩm và ñồ uống; 2) Công nghiệp dệt may; 3) Công nghiệp
chế biến lâm sản, gỗ, tre nứa; 4) Công nghiệp khai thác mỏ, vật liệu xây dựng; 5)
Công nghiệp lọc hóa dầu và hóa chất; 6) Công nghiệp cơ khí, ñiện tử; 7) Công
nghiệp sản xuất và phân phối ñiện, nước; 8) Các ngành công nghiệp khác.
Quảng Ngãi xác ñịnh hướng phát triển là ñẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện ñại
hóa nền công nghiệp của tỉnh; công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, gắn với
sự phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, ñặc biệt là Khu Kinh tế Dung
Quất, xây dựng thành một tỉnh có công nghiệp phát triển vào năm 2010; chú trọng
phát triển các ngành công nghiệp ñáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước và hướng
mạnh vào xuất khẩu như là lọc hóa dầu, luyện kim, cơ khí và ñóng tàu biển, vật
liệu xây dựng và khai thác mỏ, chế biến ñường và sau ñường, thủy sản, nông lâm
sản; sản xuất hàng tiêu dùng và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ các
dự án kinh tế lớn, trọng tâm là phục vụ Khu Kinh tế Dung Quất.
Giai ñoạn 5 năm 2006 - 2010, phát triển công nghiệp Quảng Ngãi ñang hướng
ñến mục tiêu ñạt tốc ñộ tăng trưởng bình quân hàng năm 32 - 33%, tỉ trọng công
nghiệp trong GDP toàn tỉnh ñến năm 2010 là 62 - 63%, quyết tâm xây dựng ngành
công nghiệp trở thành nhân tố quyết ñịnh tăng trưởng kinh tế và trở thành tỉnh có
công nghiệp phát triển ở khu vực miền Trung.
2. NHỮNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHỦ YẾU
2.1. CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM VÀ ðỒ UỐNG
Là ngành hiện có quy mô lớn, chiếm tỉ trọng 70% trong tổng giá trị toàn ngành
công nghiệp Quảng Ngãi. Trong ñó, công nghiệp chế biến ñường và sau ñường,
công nghiệp chế biến thủy hải sản, công nghiệp chế biến nông sản là các ngành có
nhiều lợi thế ñể ñầu tư phát triển.
Các doanh nghiệp lớn thuộc ngành này là Công ty ðường Quảng Ngãi, Công ty

Cà phê Ca cao (nay là Công ty sản xuất thương mại Quảng Ngãi), Công ty Chế
biến thực phẩm xuất khẩu, Công ty Chế biến thủy sản xuất khẩu. Thời gian gần
ñây, ñã hình thành và phát triển một số doanh nghiệp tại các khu công nghiệp của
tỉnh, như Công ty Thủy sản Phùng Hưng, Công ty Thủy sản Hải Phú, Công ty Chế
biến Thủy sản Phú Thành, Nhà máy Tinh bột mì Tịnh Phong và Nhà máy Tinh bột
mì Sơn Hải, vv.
Công nghiệp mía ñường
Chế biến ñường ñược xem là ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp truyền
thống của Quảng Ngãi, ñã tiếp nối và phát triển những bước ñi công nghiệp theo


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
135

hướng công nghiệp hóa - hiện ñại hóa, của một vùng ñất giàu tiềm năng về mía
ñường.
Cây mía có thể ñã du nhập từ Ấn ðộ sang ðông Dương vào một thời rất xa xưa.
Cây mía trồng ở Quảng Ngãi, là một loại cây mảnh, nhẵn, rất ngọt, ñặc biệt khỏe
và sống dai. Sản xuất ñường là một phương thức chủ yếu của nguời dân Quảng
Ngãi trong việc sử dụng cây mía. Ở Việt Nam, hầu hết các loại kẹo ñược chế biến
từ ñường và hầu hết các loại ñường ñược tinh chế từ mía, khác với một số quốc
gia, ñường có khi làm từ củ cải, quả thốt nốt. Nhiều vùng lãnh thổ trên nước ta ñều
có trồng mía nhưng mía ñường Quảng Ngãi có sự ưu trội riêng. Ngoài hàm lượng
ñường khá cao, còn có vị ngọt thanh của mía xứ Quảng.
Nhà máy ðường Quảng Ngãi là doanh nghiệp tiêu biểu cho ngành mía ñường
của tỉnh, ñã phát triển thành công ty gồm nhiều nhà máy khác. Sự phát triển của
công ty ñã góp phần thay ñổi diện mạo của một vùng ñất nghèo, làm sáng dần lên
bức tranh về công nghiệp Quảng Ngãi.
Vào năm 1990, Công ty chỉ sản xuất ra 2 loại sản phẩm (ñường RS và cồn) với

650 lao ñộng. ðến 2005, sản phẩm của công ty ñã có hơn 40 loại. Sản phẩm không
chỉ ñể tiêu thụ trong nuớc mà còn vươn ra một số thị trường nước ngoài. Công ty
hiện có 9 nhà máy và một số ñơn vị trực thuộc, trong ñó có các nhà máy ñường
Quảng Phú, Phổ Phong, Kon Tum, An Khê, Nhà máy bánh kẹo, Nhà máy nước
khoáng, Nhà máy bia Dung Quất, Nhà máy sữa, Nhà máy Cồn - Rượu, Nhà máy
Bao bì, Nhà máy Nha.
Riêng về ñường mía, ngoài Nhà máy ðường Quảng Phú (công suất 2.500
tấn/ngày) và Nhà máy ðường Phổ Phong (công suất 1.500 tấn/ngày), Công ty
ðường còn có 2 doanh nghiệp sản xuất ñường trực thuộc là Nhà máy ðường An
Khê (tỉnh Gia Lai) và Nhà máy ðường Kon Tum (tỉnh Kon Tum).
Nhà máy hiện ñã trở thành một công ty lớn, hạch toán ñộc lập, trực thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, với quy mô là khu liên hợp mía ñường và
các sản phẩm sau ñường, bên ñường. Công ty là một ñơn vị ñứng ñầu ngành mía
ñường cả nước, ñược Nhà nước phong tặng danh hiệu ñơn vị Anh hùng Lao ñộng
trong thời kỳ ñổi mới.
Công nghiệp chế biến nông sản và muối
Các doanh nghiệp chế biến nông sản và muối trong tỉnh hình thành, sản phẩm
ñược bán rộng khắp trên các thị trường trong và ngoài nước. ðó là các nhà máy
tinh bột mì Tịnh Phong (huyện Sơn Tịnh), Sơn Hải (huyện Sơn Hà), Nhà máy
Muối tinh chất lượng cao Sa Huỳnh (huyện ðức Phổ), các nhà máy chế biến hạt
ñiều (huyện Tư Nghĩa, huyện Nghĩa Hành), vv.
Hướng phát triển ñến năm 2010 của ngành này là tiếp tục phát huy năng lực ñã
ñầu tư và nâng công suất các nhà máy tinh bột mì Tịnh Phong, Sơn Hải ñạt tổng


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
136

công suất lên hơn 200 tấn/ngày; ñầu tư phát triển nhà máy sản xuất hạt ñiều tại các

ñịa phương trong tỉnh; phát triển nhà máy sản xuất muối tinh chất lượng cao, với
thiết bị và công nghệ hiện ñại, nguyên liệu chủ yếu từ ñồng muối Sa Huỳnh; xúc
tiến công tác nghiên cứu, chuẩn bị ñầu tư nhà máy sản xuất tinh dầu quế và chế
biến các sản phẩm từ quế, nhà máy cồn từ mì xuất khẩu.
Công nghiệp chế biến thủy hải sản
ðây là ngành công nghiệp ñã ñạt ñược những bước tiến ñáng kể. Hướng phát
triển là ñầu tư hiện ñại hóa thiết bị, tiếp tục thu hút ñầu tư các nhà máy chế biến hải
sản vào các cụm công nghiệp ven biển (Sa Kỳ, Sa Huỳnh, ), nâng cao năng lực
chế biến hải sản, phát triển chế biến thủy sản xuất khẩu với những sản phẩm có
chất lượng cao ñủ tiêu chuẩn xuất sang các thị trường châu Á, châu Âu, châu Mỹ.
Bên cạnh các sản phẩm cấp ñông xuất khẩu, còn có các sản phẩm truyền thống
như: nước mắm, cá khô, cá tẩm và những mặt hàng tươi sống cung cấp cho các khu
công nghiệp trong nước
(1)
.
Công nghiệp ñồ uống và chế biến khác
Ngành công nghiệp này ñang phát triển mạnh trên nhiều phương diện, nhiều loại
hình doanh nghiệp cùng tham gia sản xuất.
Nhà máy Bia Quảng Ngãi
Thành lập và bắt ñầu sản xuất từ năm 1993 với sản lượng 3 triệu lít/năm, sản
phẩm ñầu tiên là bia Special, ñược người tiêu dùng chấp nhận. Sản phẩm ñã có mặt
tại các thị trường Hà Nội, Hải Phòng, Nha Trang, Thành phố Hồ Chí Minh, các
tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.
Sản phẩm bia Quảng Ngãi ñược sản xuất trên dây chuyền hiện ñại của ðức,
Italia, Nhật Bản với công nghệ tiên tiến của Cộng hòa Séc (Czech). Trong 10 năm,
nhà máy ñã nhiều lần mở rộng, nâng cấp từ 3 triệu lít ñến 4,5 triệu lít, 6 triệu lít, 9
triệu lít rồi ñến 25 triệu,
35 triệu lít/năm. Sản phẩm của nhà máy có chất lượng ổn ñịnh và ngày càng ñược
nâng cao. Từ chỗ có một loại bia, phát triển phân loại bia chai Dung Quất, bia lon
và bia hơi, mẫu mã ña dạng, phù hợp với nhiều thị trường trong cả nước.

Nhà máy Nước khoáng Thạch Bích
Do có ñiều kiện tự nhiên ưu ñãi, lại dựa vào nguồn lực tài chính và kinh nghiệm
của công ty "mẹ" là Công ty ðường, ngay từ năm 1994 xưởng nước khoáng ñóng
chai PET ñầu tiên ra ñời. Năm 1995, tại ñây trang bị thêm dây chuyền sản xuất
nước khoáng chai thủy tinh, và ñến tháng 6.1997 chính thức ra ñời Nhà máy Nước
khoáng Thạch Bích. Nguồn nước khoáng lấy từ suối khoáng Thạch Bích nổi tiếng
ở xã Trà Bình, huyện Trà Bồng
, khá tốt. Sản phẩm bán ra thị trường ñược ưa
chuộng.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
137

Nhà máy Sữa Trường Xuân
ðược hình thành từ Công ty ðường Quảng Ngãi, sản phẩm ñầu tiên là sữa tiệt
trùng Fami. Năm 1999, Công ty ðường quyết ñịnh sáp nhập Nhà máy Nước
khoáng Thạch Bích và Nhà máy Sữa Trường Xuân thành Nhà máy Nước khoáng
Thạch Bích. ða dạng hóa sản phẩm, ñáp ứng nhanh nhạy nhu cầu của người tiêu
dùng, nhà máy ñã cho ra ñời nhiều sản phẩm như sữa ñậu nành, yaourt, sữa chua
uống, nước tăng lực, kem, cùng với mặt hàng nước khoáng không gaz và có gaz.
Những thương hiệu của nhà máy ñã trở nên quen thuộc trên thị trường cả nước như
nước khoáng Thạch Bích, sữa Fami, Yomi, nước tăng lực Lion, nước tinh khiết
Quater ngày càng chiếm ñược lòng tin của người tiêu dùng.
Nhà máy Bánh kẹo Quảng Ngãi
Là nhà máy thành viên của Công ty ðường Quảng Ngãi. Tháng 12.1993, sản
phẩm bánh Cookies và kẹo trái cây cao cấp ñầu tiên của nhà máy ñược bán ra thị
trường sau 5 tháng sản xuất thử, ñánh dấu sự ra ñời một thương hiệu mới mang
tính ñột phá trong chiến lược ña dạng hóa sản phẩm sau ñường. Nhờ sản xuất trên

dây chuyền thiết bị công nghệ tiên tiến, nên sau khi ra lò, sản phẩm bánh Cookies
và kẹo cứng trái cây, kẹo mềm các loại của nhà máy ñã nhanh chóng khẳng ñịnh vị
thế của mình trên thương trường.
Nhà máy Cồn - Rượu Quảng Ngãi
Nhà máy cho ra ñời mẻ sản phẩm ñầu tiên vào ngày 2.9.1978. Bằng các thiết bị
và công nghệ trong nước, nhưng sản phẩm của nhà máy ñã ñáp ứng tiêu chuẩn
quốc tế. Sản phẩm cồn của nhà máy ñã xuất sang các nước châu Âu, châu Phi, ðài
Loan, Nhật Bản và Trung Quốc. Sản xuất năm ñầu tiên ñạt công suất 1,2 triệu
lít/năm. ðến nay nhà máy ñã ñầu tư nâng công suất lên 4,6 triệu lít/năm, với ñộ
cồn 96GL. Nhiều chỉ tiêu chất lượng ñạt trên mức cồn loại 1 theo tiêu chuẩn Việt
Nam.
Nhà máy Nha Quảng Ngãi
Hoạt ñộng từ tháng 9.1995. Dây chuyền thiết bị có công suất thiết kế là 3.000
tấn/năm. Vốn ñầu tư ban ñầu xây dựng nhà máy trên 10 tỷ ñồng. Sản phẩm mạch
nha ñược chế biến từ tinh bột sắn chuyển hóa thành ñường glucose, dùng ñể cung
cấp nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất bánh kẹo. Ngoài ra, mạch nha còn dùng làm
mè xửng, kẹo gương, kem, rượu, ñặc biệt mạch nha dùng một phần ñể sản xuất vật
liệu xây dựng.
Ngoài ra, Quảng Ngãi còn có Nhà máy Bia Sài Gòn, với công suất 100 triệu
lít/năm ñang xây dựng ở Khu Công nghiệp Quảng Phú.
2.2. CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN LÂM SẢN


ẹũa chớ Quaỷng Ngaừi
Trang
138

Trc nm 1990, cụng nghip ch bin lõm sn Qung Ngói ch cú 2 doanh
nghip quc doanh l Xớ nghip Mc Qung Ngói, Xớ nghip Ch bin g La H
v mt s doanh nghip nh khỏc. Hin nay, ủó hỡnh thnh nhiu doanh nghip ch

bin lõm sn v cỏc c s sn xut khỏc, vi 1.298 c s, giỏ tr sn xut chim t
trng 6% trong ton ngnh cụng nghip ca tnh. Cỏc doanh nghip ủỏng chỳ ý cú
Xớ nghip Ch bin lõm sn Qung Ngói, Cụng ty trỏch nhim hu hn Hp
Thnh, Cụng ty trỏch nhim hu hn Hon V, Cụng ty trỏch nhim hu hn Vit
Tin, Cụng ty ng Li, Xớ nghip Ch bin lõm sn Qung Ngói. T nm 2003,
ủó cú mt s doanh nghip mi ủc hỡnh thnh, tham gia tớch cc vo hot ủng
kinh t chung ca ton ngnh nh Cụng ty Nguyờn liu giy Dung Qut, Nh mỏy
Ch bin Lõm sn xut khu (thuc Cụng ty Xõy lp v Vt liu Xõy dng 5).
2.3. CễNG NGHIP KHAI THC, CH BIN KHONG SN V VT
LIU XY DNG
Chim t trng 3% trong tng giỏ tr ngnh cụng nghip ca tnh. Mt s doanh
nghip ủỏng chỳ ý nh Nh mỏy ximng Vn Tung, Nh mỏy gch tuynen Dung
Qut, Nh mỏy gch tuynen Bỡnh Nguyờn, Nh mỏy gch tuynen Phong Niờn,
Cụng ty Khai thỏc ch bin khoỏng sn (nay l Xớ nghip 725, Xớ nghip 726 thuc
Cụng ty Xõy dng 72), Xớ nghip ủỏ Bỡnh ụng, Cụng ty bờtụng v xõy dng,
Cụng ty Liờn doanh ủỏ Qung Ngói.
Sn phm ca ngnh cụng nghip ny gm: 1) Khai thỏc ủỏ lm vt liu xõy
dng, thụng thng ủt trờn 1.000.000m3/nm; 2) Phỏt trin sn phm p lỏt giỏ tr
cao t ủỏ gabro v granit ủ xut khu; 3) Phỏt trin cỏc c s sn xut gch
tuynen, gch khụng nung; 4) Grafit - tin ti trin khai ủu t d ỏn tuyn khoỏng
vi cụng ngh hin ủi, ủt cht lng 90 - 93%C; 5) Tp trung ủu t khai thỏc s
dng tng hp ngun nc khoỏng Ngha Thun cho cha bnh, tm nc núng,
du lch sinh thỏi phc v cho du khỏch trong v ngoi tnh.
2.4. CễNG NGHIP HểA CHT
Trong ngnh cụng nghip ny cú Cụng ty c phn Cụng nghip Húa cht Qung
Ngói, Cụng ty C phn Hu c Humic, Xớ nghip Húa phm Du khớ Qung Ngói
ủang hot ủng cú hiu qu ti tnh.
2.5. CễNG NGHIP C KH V IN T - TIN HC
Ngnh c khớ l ngnh cụng nghip c bn ca tnh, ủang ủc tp trung phỏt
trin nhm ủỏp ng yờu cu ủa dng húa sn phm, phc v nụng nghip v xõy

dng, nht l cỏc khu cụng nghip v cỏc d ỏn trin khai trờn ủa bn. Giỏ tr sn
xut hng nm chim t trng 4% trong ton ngnh cụng nghip vi hn 900 c s
sn xut, trong ủú cú 2 doanh nghip ủỏng chỳ ý l Cụng ty C khớ v Xõy lp An
Ngói v Xớ nghip Xõy lp.
Cụng ty C khớ v Xõy lp An Ngói


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
139

An Ngãi là tên gọi xuất phát từ tên viết tắt của hai tỉnh kết nghĩa Nghệ An và
Quảng Ngãi. Tiền thân của nhà máy là phân xưởng cơ khí An Ngãi ở chiến khu,
với nhiệm vụ ban ñầu là sản xuất, sửa chữa các thiết bị, ñồ dùng quân giới. Sau
ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, xưởng cơ khí ñược chuyển về hoạt ñộng tại
thị xã Quảng Ngãi, ñến năm 1976 thành lập Nhà máy Cơ khí An Ngãi. Qua quá
trình phát triển, doanh nghiệp ñã ñầu tư và hình thành nhiều ñơn vị trực thuộc,
như: Nhà máy gạch tuynen Bình Nguyên, Trung tâm Tư vấn Phát triển Công
nghiệp, Phân xưởng tàu thuyền, các ñội xây lắp công nghiệp, ñiện, giao thông. ðến
năm 1993, Nhà máy ñược ñổi tên thành Công ty Cơ khí và Xây lắp ðiện An Ngãi,
sau ñó là Công ty Cơ khí và Xây lắp An Ngãi. Cuối năm 2004, ñơn vị ñược cổ
phần hóa, có tên là Công ty Cổ phần Cơ khí và Xây lắp An Ngãi.
Xí nghiệp xây lắp
Là ñơn vị trực thuộc Công ty ðường Quảng Ngãi, thành lập năm 1998, tiền thân
là phân xưởng Cơ ñiện, ñơn vị hạch toán phụ thuộc, có nhiệm vụ chủ yếu là gia
công và chế tạo thiết bị, sửa chữa và lắp ñặt các thiết bị ngành mía ñường; san ủi,
gia cố ñường giao thông vùng mía. Xí nghiệp có ñội ngũ cán bộ, kỹ sư, thợ lành
nghề có thể ñảm nhận nhiều công trình có quy mô lớn.
2.6. CÔNG NGHIỆP ðIỆN, NƯỚC
Quảng Ngãi hiện có 7 ñơn vị tham gia vào ngành công nghiệp nước, trong ñó có

2 doanh nghiệp ñáng chú ý là Công ty Cấp nước Quảng Ngãi và Nhà máy nước
Dung Quất (công suất 100.000m
3
/ngày). Ngành công nghiệp nước ñã có các dự án
chuẩn bị ñầu tư: Nhà máy nước Mộ ðức, Nhà máy nước ðức Phổ, Nhà máy nước
Bình Sơn, nâng công suất Nhà máy nước thành phố Quảng Ngãi, Nhà máy nước
Dung Quất.
Ngành công nghiệp ñiện Quảng Ngãi ñược manh nha hình thành vào những năm
1930 của thế kỷ XX. Hiện nay, cùng với xu thế chung của các ngành kinh tế khác,
ngành ñiện ñang từng bước phát triển và ngày càng khẳng ñịnh ñược vai trò to lớn
trong ñời sống xã hội
(2)
.
2.7. CÔNG NGHIỆP DỆT MAY
Dệt may là một trong những ngành nghề truyền thống hình thành từ lâu ñời ở
Quảng Ngãi. Tuy nhiên, từ những khung cửi ñạp chân, ñến các thiết bị dệt cơ khí
hiện ñại là một khoảng thời gian dài và sự ra ñời của các ñơn vị may công nghiệp ở
Quảng Ngãi là khá muộn.
Giá trị sản xuất của ngành dệt may chiếm tỉ trọng 3% trong toàn ngành công
nghiệp Quảng Ngãi. Hiện có các doanh nghiệp hoạt ñộng như Công ty Sản xuất -
Xuất nhập khẩu ðông Thành, Nhà máy may xuất khẩu ðại Cát Tường, Chi nhánh
Công ty may 28, Nhà máy May xuất khẩu Dung Quất. Ngoài ra, còn có một số dự
án ñang triển khai ñầu tư tại các Khu Công nghiệp và Khu Kinh tế Dung Quất.

×