DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM
1. BÙI VĂN DƯƠNG
2. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
3. NGUYỄN THỊ HIỀN DỊU
4. VŨ THỊ THANH NGA
5. PHẠM THỊ THANH THÚY
6. LÊ THỊ THU
7. HOÀNG THỊ HẰNG
I. MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi xã hội càng phát triển đòi hỏi tư duy của con người càng phải nhanh
hơn, chính xác hơn. Nhưng không phải cá nhân nào cũng có thể tư duy nhanh và chính
xác, dự đoán được sự vận động của hiện tượng, hơn nữa tư duy còn bị sai lệch, méo mó
không đúng với bản chất của sự vật, hiện tượng.
Tư duy méo mó không giới hạn độ tuổi, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống. Nó có tác
động và ảnh hưởng tới cuộc sống của chính cá nhân và cả những người thân quanh cá
nhân ấy. Méo mó tư duy hay tư duy méo mó (hay nhận thức méo mó) biểu hiện với nhiều
kiểu cách khác nhau, nhưng tựu chung lại, nó vẫn có điềm chung là ảnh hưởng lên cách lý
giải, nhìn nhận các sự vật hiện tượng trong cuộc sống một cách sai lệch, không phản ánh
đầy đủ bản chất của sự vật hiện tượng với bản chất vốn có của nó, hành động của cá nhân
trước các hoạt động, quá trình vận động của cuộc sống.
Tư duy méo mó thường được mọi người nhắc đến trong những bài báo, trong
những nhận xét có tính chất liên quan đến văn hóa. Nhưng để hiểu rõ hơn vể méo mó tư
duy thì chưa có một kết luận chung nhất. Trong phần bài tập của nhóm, nhóm chúng tôi đi
vào tìm hiểu những vấn đề chung nhất có liên quan đến “tư duy méo mó”, vận dụng công
tác xã hội cá nhân trong hỗ trợ điều trị “tư duy méo mó” từ đó, tổng kết lại một cách đơn
giản dễ hiểu nhất về tư duy méo mó là gì, những điểm cần ghi nhớ trong xây dựng mô
hình can thiệp hỗ trợ điều trị tư duy méo mó. Đề tài thảo luận của nhóm gồm 3 phần :
I. Đặt vấn đề
II. Nội dung
1. Khái niệm tư duy và méo mó tư duy
2. Đặc trưng cơ bản của méo mó tư duy
3. Mô hình can thiệp trong trị liệu méo mó tư duy và vận dụng vào trường hợp cụ thể
3.1 Mô hình can thiệp trị liệu nhận thức
3.2. Đánh giá về mô hình can thiệp trị liệu nhận thức
3.3. Vận dụng mô hình can thiệp với trường hợp cụ thể : phụ nữ bị stress sau khi sinh
con
III. Kết luận
II. NỘI DUNG
1. Khái niệm về tư duy và méo mó tư duy
Tư duy là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh thần, đem
những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua hoạt động vật chất, làm
cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật và ứng xử tích cực với nó.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 4 (NXB Từ điển bách khoa. Hà
Nội. 2005); Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc biệt
-Bộ não người Tư duy phản ánh tích cực hiện thực khách quan dưới dạng các khái niệm,
sự phán đoán, lý luận .v.v
Theo triết học duy vật biện chứng, tư duy là một trong các đặc tính của vật chất
phát triển đến trình độ tổ chức cao. Về lý thuyết, Karl Marx cho rằng: "Vận động kiểu tư
duy chỉ là sự vận động của hiện thực khách quan được di chuyển vào và được cải tạo/tái
tạo trong đầu óc con người duới dạng một sự phản ánh".
Tư duy xuất hiện trong quá trình sản xuất xã hội của con người. Trong quá trình
đó, con người so sánh các thông tin, dữ liệu thu được từ nhận thức cảm tính hoặc các ý
nghĩ với nhau. Trải qua các quá trình khái quát hóa và trừu tượng hóa, phân tích và tổng
hợp để rút ra các khái niệm, phán đoán, giả thuyết, lý luận .v.v Kết quả của quá trình tư
duy bao giờ cũng là sự phản ánh khái quát các thuộc tính, các mối liên hệ cơ bản, phổ
biến, các quy luật không chỉ ở một sự vật riêng lẻ mà còn ở một nhóm sự vật nhất định.
Vì vậy, tư duy bao giờ cũng là sự giải quyết vấn đề thông qua những tri thức đã nắm được
từ trước.
Tư duy bắt nguồn từ hoạt động tâm lý. Hoạt động này gắn liền với phản xạ sinh lý
là hoạt động đặc trưng của hệ thần kinh cao cấp. Hoạt động đó diễn ra ở các động vật cấp
cao, đặc biệt biểu hiện rõ ở thú linh trưởng và ở người. Nhưng tư duy với tư cách là hoạt
động tâm lý bậc cao nhất thì chỉ có ở con người và là kết quả của quá trình lao động sáng
tạo của con nguời. Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, lao động là một
trong các yếu tố quyết định để chuyển hóa vượn có dạng người thành con người. Từ chỗ
là một loài động vật thích ứng với tự nhiên bằng bản năng tự nhiên, con người đã phát
triển sự thích ứng đó bằng bản năng thứ hai là tư duy với năng lực trừu tượng hóa ngày
càng sâu sắc đến mức nhận thức đuợc bản chất của hiện tượng, quy luật của tự nhiên và
nhận thức đựoc chính bản thân mình.
Người ta dựa vào tư duy để nhận thức những quy luật khách quan của tự nhiên, xã
hội, con người và điều chỉnh hành động của mình phù hợp với các quy luật đó.
Vậy từ sự phân tích khái niệm trên có thể rút ra được: hiện tượng méo mó tư duy là
sự phản ánh sai lệch về hiện thực khách quan, về bản chất hiện tượng, qui luật của tự
nhiên, xã hội, làm cho con người có những nhận thức méo mó về bản thân mình, về sự vật
xung quanh và ứng xử tiêu cực với nó.
Khi các khả năng chú ý và phân tích thông tin của con người bị giới hạn, có thể
xảy ra một số sai lệch trong các trải nghiệm sống của chúng ta. Tri giác, ký ức và suy nghĩ
của một người có thể méo mó theo một số cách thức thích ứng hay không thích ứng.
Nói cách khác méo mó tư duy là cách mà tâm trí của chúng ta thuyết phục chính
chúng ta về một cái gì đó quá mức và không hợp lý so sánh với bản chất của sự vật và
hiện tượng.
2. Đặc trưng cơ bản của méo mó tư duy
* Cơ sở của những biểu hiện về méo mó tư duy
Aaron T.Beck là người đầu tiên đề xuất về lý thuyết có liên quan đến nhận thức méo
mó và David Burns là người phổ biến nó với các ví dụ kèm theo cách gọi thông thường.
Từ những tên gọi này, chúng ta sẽ thấy được đặc trưng của nhận thức méo mó là gì và
biểu hiện của nó là như thế nào.
+ Thông thường biểu hiện của tư duy méo mó được biết đến qua biểu hiện, quan niệm,
cách nhìn nhận về suy nghĩ và hành động, cụ thể nhất là cách lý giải thế giới - sự vật hiện
tượng của những người trầm cảm và mắc những rối loạn tâm trí kéo dài và không phù hợp
với thực tế khách quan.
+ Tư duy méo mó sẽ ảnh hưởng tới cách nhìn nhận, nhận xét, phán đoán một vấn đề của
cá nhân với các sự kiện xảy đến với bản thân cá nhân đó. Do suy nghĩ giới hạn về hành vi
hay sự kiện ví dụ như "Tôi cảm thấy nó, do đó nó phải là sự thật." Tôi đã từng nhìn thấy
bạn đó lấy sách nên lần này lớp mình mất sách chắc chắn là bạn lấy”
+ Những yếu tố bên trong như (cảm xúc, tâm lý, cách chúng ta nghĩ và suy luận về thế
giới và các sự kiện xung quanh) và những yếu tố bên ngoài (môi trường sống, các mối
quan hệ ;.) tất cả các yếu tố này có ảnh hưởng tới nhận thức của cá nhân và là nguyên
nhân dẫn tới tư duy méo mó.
- Tư duy méo mó thường bao gồm rất nhiều dạng nhưng tựu chung lại: tư duy méo mó
đưa đến cho con người những suy nghĩ, cách nhìn, quan điểm sai lệch, trái với sự thực
vốn có của hiện tượng.
* Đặc trưng cơ bản của méo mó tư duy được biểu hiện ở những kiểu mẫu lệch lạc về nhận
thức, cụ thể là:
1. Sự trừu tượng chọn lọc (selective abstractions)
Khi đứng trước một sự vật hiện tượng chúng ta lưu giữ, chọn lọc những suy nghĩ tiêu
cực và phóng đại chúng lên, trong khi những biểu tượng có ý nghĩa tích cực lại bị chúng
ta bỏ qua một bên. Ví dụ như, một người có thể chọn ra duy nhất một tình huống khó chịu
và dành riêng suy nghĩ đó làm cho tầm nhìn của họ về thực tại trở nên tối tăm hoặc bị bóp
méo.
“Phần thông tin còn lại là hiển nhiên, không có gì đáng bàn”; “Tôi đã tập trung vào
những chi tiết tiêu cực, những điều tích cực xảy ra không đáng kể”. Các suy nghĩ này
thường hay xảy ra ở những người trầm cảm.
2. Tư duy phân cực ( dichotomous thinking)
Trong tư duy phân cực, mọi thứ chỉ có thể là "đen hoặc trắng", chúng ta phải là hoàn
hảo hay không là gì cả - không có mức độ trung bình. Trong mọi trường hợp, nếu không
có mức độ trung bình thì bạn hãy đặt con người hay hoàn cảnh vào trường hợp chỉ có lựa
chọn“có hay không”. Nếu suy nghĩ của bạn bị lệch lạc thì cách nhìn nhận bản thân của
bạn chỉ là cách nhìn tiêu cực.
“Các sự vật này trắng hoặc đen”; “Bạn hoặc là theo tôi hoặc là chống lại tôi”. Ở một
mức độ cực đoan, khuynh hướng suy nghĩ tất cả hoặc không có gì hết, thường gặp trong
nhân cách ranh giới (borderline personality) và ám ảnh xung động
3. Khái quát hóa quá mức hay vội vàng kết luận (Overgeneralization)
Trong nhận thức méo mó này, chúng ta đi đến một kết luận chung dựa trên một sự
kiện hay một bằng chứng duy nhất. Nếu có điều gì xấu xảy ra chỉ một lần, nó sẽ xảy ra
hơn và hơn nữa. Một người có thể thấy một sự kiện đơn giản, khó chịu như là một phần
của một kết thúc thất bại.
Người lập luận sử dụng suy luận quy nạp để đi đến kết luận tổng quát sau khi khảo sát rất
ít trường hợp riêng.
Ví dụ:
Người Na Uy rất lười biếng. Tớ có hai người bạn cùng phòng nguời Na Uy, họ không bao
giờ chịu dọn dẹp phòng và làm bài tập về nhà.
Khái quát hóa vội vã có thể dẫn đến tư duy đóng khuôn (stereotyping).
“Mọi việc tôi làm trở nên sai lầm”; “Bất cứ vấn đề gì tôi chọn lựa, chúng luôn thất
bại”. Ở mức độ cực đoan, các suy nghĩ này hay xảy ra ở những cá nhân bị trầm cảm.
Thay vì mô tả hành vi cụ thể, người đó đã đưa ra kết luận hoặc vội vàng gán một nhãn
cho một ai đó và có những phát ngôn mang tính chất cá nhân, chúng ta biết những gì họ
đang cảm nhận và lý do tại sao họ hành động theo cách mà họ làm. Đặc biệt, chúng ta xác
định mọi người hướng đến chúng ta như thế nào.
Ví dụ, một người có thể kết luận rằng ai đó đang phản ứng tiêu cực đối với họ nhưng
không thực sự bận tâm để tìm hiểu chính xác xem họ có đúng như vậy không. Một ví dụ
khác là một người có thể dự đoán rằng điều gì đó sẽ trở thành tồi tệ, và sẽ cảm thấy thuyết
phục rằng dự đoán của họ đã là một thực tế được thành lập.
4. Bi thảm hóa ( Catastrophizing).
Chúng ta hi vọng về sự xâm chiếm của những điều khủng khiếp, hay không có vấn
đề gì. Điều này cũng được gọi là "phóng đại hoặc giảm thiểu." Chúng ta nghe về một vấn
đề và sử dụng những câu hỏi “nếu thì” (ví dụ, "nếu xảy ra thảm kịch?" "Điều gì sẽ xảy ra
nếu nó xảy ra với tôi").
Ví dụ, một người có thể nói hết được tầm quan trọng của các sự kiện không đáng
kể (chẳng hạn như sai lầm của họ hay một số thành công nhất định). Hoặc họ có thể giảm
tính của sự kiện quan trọng cho đến khi chúng xuất hiện với mức độ rất nhỏ.( ví dụ: phẩm
chất không được tốt của một người hay những tính cách không hoàn hảo ở một ai đó).
“Nếu tôi đến dự tiệc, sẽ có nhiều hậu quả khủng khiếp”; “Tốt hơn là tôi không nên thử
bởi vì tôi có thể thất bại và điều đó rất là kinh khủng”; “Tim tôi đập nhanh hơn, sẽ xảy ra
cơn đau tim”. Ở mức độ cực đoan, sự lệch lạc này là đặc điểm của rối loạn lo âu, đặc biệt
là ám ảnh sợ xã hội và hoảng loạn (panic).
5. Cá nhân hóa( personalization)
Cá nhân hóa là một sự biến dạng, tại đó một người tin rằng những người khác dù nói
hay làm tất cả mọi thứ đều là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của cá
nhân. Chúng ta cũng so sánh mình với những người khác cố gắng để xác định ai là người
thông minh hơn, ưa nhìn hơn, vv
Một người tham gia vào cá nhân hóa có thể nhìn thấy chính mình là nguyên nhân của
một số sự kiện bên ngoài không lành mạnh rằng họ không có khả năng chịu trách nhiệm.
“Lời bình luận đó không phải là tình cờ, tôi biết nó đang hướng về tôi”; “Các vấn đề
luôn luôn xuất hiện khi tôi vội vã”. Ở mức độ cực đoan, các suy nghĩ này hay xảy ra ở các
thân chủ rối loạn nhân cách tránh né và hoang tưởng.
6. Nguỵ biện
Ngụy biện là sự cố ý vi phạm các quy tắc logic trong lập luận nhằm mục đích đánh lạc
hướng người nghe, người đọc, làm cho người khác nhầm tưởng cái sai là cái đúng và cái
đúng là sai.
• Ngụy biện có thể được chia làm 2 dạng chính:
• Ngụy biện không tương hợp: là những lập luận mà tiền đề (hay luận cứ) không có mối
quan hệ một cách logic với kết luận được rút ra.
Ví dụ:
Giáo sư Trần đang thuyết phục sinh viên lớp tôi chấp nhận học môn nhạc cổ điển vào học
kỳ này. Nhưng ông ta là một người vô cùng ích kỷ và tự cao. Tôi không muốn nghe bất
cứ gì ông ta nói.
X là một người xấu tính. Do đó, lập luận của X hoàn toàn sai.
Ngụy biện tương hợp: là những lập luận mà tiền đề (hay luận cứ) có mối quan hệ logic
với kết luận nhưng luận cứ chứng minh cho kết luận không đầy đủ hoặc sai lầm.
7. Các mệnh đề “nên” (“should”statements)
“Tôi nên thăm gia đình tôi mỗi khi họ muốn như thế”; “Họ nên làm điều tôi nói bởi vì
điều đó đúng”. Ở mức độ cực đoan các suy nghĩ này hay xảy ra ở các cá nhân bị ám ảnh
cưỡng chế và ở những người cảm thấy nhiều tội lỗi.
8. Lý luận có tính cảm xúc (emotional reasoning)
“Bởi vì tôi thấy mình yếu kém cho nên tôi yếu kém”; “Bởi vì tôi cảm thấy không thoải
mái, nên thế giới này là nguy hiểm”; “Vì tôi cảm thấy bực bội, nên chắc hẳn là có điều gì
đó không đúng”. Các suy nghĩ lệch lạc này thường xảy ra nơi các thân chủ bị lo âu và
hoảng sợ.
Ngoài ra, các lệch lạc nhận thức thông thường khác được nhận biết bao gồm: “không
thấy mặt tích cực”, “tuyệt đối hóa” và “phô diễn giá trị bản thân”. Sự giả tạo và sự lệch
lạc niềm tin thường tập trung vào mong ước kiểm soát các sự kiện, giá trị của sự tự phê,
buồn rầu , bỏ qua những vấn đề và niềm tin về sự công bằng và tính ổn định trong các
mối quan hệ.
3. Mô hình can thiệp trong trị liệu méo mó tư duy và vận dụng vào trường hợp cụ
thể
3.1. Mô hình can thiệp trị liệu nhận thức
Tư duy là kết quả của nhận thức đồng thời là sự phát triển cấp cao của nhận thức.
Xuất phát điểm của nhận thức là những cảm giác, tri giác và biểu tượng được phản ánh
từ thực tiễn khách quan với những thông tin về hình dạng, hiện tượng bên ngoài được
phản ánh một cách riêng lẻ
Sự méo mó tư duy xuất phát từ sự nhận thức sai lệch. Vì vậy can thiệp hiện tượng
méo mó tư duy chúng tôi xin đưa ra mô hình can thiệp trị liệu nhận thức.
Trị liệu nhận thức đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà chuyên môn sức khỏe tâm
thần ở khắp thế giới trong những năm gần đây. Cuộc “cách mạng nhận thức” (Mahoney,
1977, 1991) được báo hiệu bởi cuộc hội thảo về chủ đề xử lý thông tin được tổ chức ở
viện kỹ thuật Massachusetts (MIT) và việc xuất bản các công trình của hội thảo bởi các
tác giả Bruner, Goodnow, Austin (1956), Chomsky (1956, 1957), Kelly (1955), Newell và
Simon (1956) đã chín muồi, nhờ vậy các phương pháp trị liệu đặt nền tảng trên bình diện
nhận thức đã trở thành mối quan tâm ưu tiên của các nhà chuyên môn (Smith 1982).
Phương pháp trị liệu nhận thức đã trở thành chỗ đứng chung của các nhà trị liệu, của các
phương pháp lý thuyết và triết lý khác nhau, từ trường phái phân tâm đến trường phái
hành vi. Nhà trị liệu phân tâm tìm thấy trong trị liệu nhận thức một cốt lõi lý thuyết tâm
động (dynamic) để tham dự vào việc thay đổi các niềm tin tiềm ẩn và các sơ đồ tương tác
cá nhân. Nhà trị liệu hành vi tìm thấy trong trị liệu nhận thức một mô hình tâm lý trị liệu
ngắn gọn, tích cực, có hướng dẫn, có tính cộng tác, có tính giáo dục, một mô hình tâm lý
trị liệu dựa trên cơ sở kinh nghiệm và có định hướng nhắm đến việc thay đổi hành vi trực
tiếp. Sự hợp nhất giữa trị liệu nhận thức và trị liệu hành vi đã trở thành quy luật hơn là
ngoại lệ.
Phương pháp tâm lý trị liệu nhận thức hiện đại được thành lập trên khái niệm về
“Tính kiến tạo về tâm lý” (psychological constructivism). Michael Mahoney (1991) đã
định nghĩa phương pháp trị liệu nhận thức như là một tập hợp các lý thuyết về tâm trí và
hoạt động tâm lý, trong đó có những tính chất sau”:
1. Nhấn mạnh bản chất tích cực và tiên phong của tri giác, học tập và kiến thức
2. Xác nhận tính ưu việt về cả cơ cấu lẫn chức năng của những tiến trình trừu
tượng và cụ thể trong tất cả kinh nghiệm thuộc tri giác cũng như lý trí.
3. Xem việc học tập, hiểu biết và trí nhớ là những hiện tượng phản ánh các cố gắng
liên tục của cơ thể và tâm trí nhằm tổ chức và tái tổ chức những khuôn mẫu hành động và
trải nghiệm của cá thể. Những khuôn mẫu ấy, dĩ nhiên, có liên quan đến khả năng dự
phần một cách linh hoạt và thích nghi cao của con người vào thế giới xung quanh.
Giống như các mô hình tâm lý học hành vi, tâm động học và quan điểm hệ thống,
trị liệu nhận thức được miêu tả tốt nhất như một “trường phái tư tưởng” hơn là một lý
thuyết đơn độc. Trường phái trị liệu nhận thức có thể biến thiên từ chủ nghĩa duy lý định
hướng hành vi (behaviorally oriented rationalism) cho đến học thuyết kiến tạo triệt để
(radical constructivism). Mặc dù những khuynh hướng tiếp cận này có đôi chút khác biệt
về mặt khái niệm nhưng chúng cùng chia sẻ một số những đặc tính chung nhất.
Trị liệu nhận thức có một số những giả định cơ bản sau đây:
1. Cách thức mà mỗi cá nhân nhận định hoặc cắt nghĩa các biến cố và tình huống
sẽ có vai trò điều tiết cách thức mà cá nhân ấy cảm nhận và hành xử. Nhận thức của mỗi
cá nhân tồn tại trong mối quan hệ tương tác giữa cảm xúc và hành vi cùng những hậu quả
của chúng trên các sự kiện xảy ra trong môi trường sống của người ấy.
2. Việc diễn giải ý nghĩa của các sự kiện là có tính cách tích cực và liên tục. Việc
phân tích các sự kiện giúp cho cá nhân rút ra một số ý nghĩa từ các kinh nghiệm của mình
và giúp cho cá nhân hiểu được các sự việc với mục đích thiết lập nên một “môi trường
sống riêng của cá nhân mình”
3. Mỗi con người có thể phát triển nên những hệ thống niềm tin đặc thù của mình
từ đó hướng dẫn cho các hành vi của người ấy. Niềm tin và giả thuyết ảnh hưởng trên tri
giác và trí nhớ cá nhân, từ đó hướng dẫn trí nhớ được kích hoạt khi có các kích thích hoặc
có các sự kiện đặc hiệu. Mỗi cá nhân trở nên nhạy cảm với các tác nhân đặc hiệu gồm có
các biến cố bên ngoài và các kinh nghiệm cảm xúc bên trong. Niềm tin và các giả định
góp phần vào khuynh hướng khiến cho đương sự tham gia một cách chọn lọc và tiếp nhận
thông tin nào phù hợp với hệ thống niềm tin vốn có, và “bỏ qua” những thông tin nào
không phù hợp với những niềm tin ấy .
4. Các yếu tố gây stress do vậy sẽ góp phần vào sự tổn hại hoạt động nhận thức cá
nhân đồng thời hoạt hoá các đáp ứng cũ kỹ và kém thích ứng của người ấy.
5. Giả thuyết về “tính chuyên biệt của hoạt động nhận thức” (cognitive specificity
hypothesis) cho rằng các hội chứng lâm sàng và các trạng thái cảm xúc có thể phân biệt
được dựa vào nội dung của các hệ thống niềm tin và các tiến trình nhận thức đã được kích
hoạt.
Mô hình trị liệu nhận thức cho rằng ba biến số đóng vai trò trung tâm trong việc
hình thành và duy trì các rối loạn tâm lý gồm có:
• Bộ ba nhận thức (cognitive triad)
• Các sơ đồ (schemata)
• Nhận thức sai lệch (bóp méo)
Bộ ba nhận thức (Cognitive Triad)
Aaron Beck là tác giả đầu tiên đưa ra khái niệm về “Bộ ba nhận thức”. Khái niệm
về bộ ba nhận thức đóng vai trò nhưng một khuôn khổ hữu dụng để xem xét những ý nghĩ
tự động và các niềm tin ẩn giấu sau những gì thân chủ đang mô tả. Thật vậy, các vấn đề
tâm lý của thân chủ đều có thể liên quan đến những niềm tin không thích nghi và kém
chức năng dẫn đến tư duy lệch lạc. Do vậy, khi bắt đầu việc trị liệu, điều cần thiết là nên
hỏi thân chủ nói ra những ý nghĩ của họ về bản thân mình, về thế giới bên ngoài và về
tương lai.
Sơ đồ (schemata)
Khái niệm sơ đồ đóng một vai trò quan trọng trong mô hình nhận thức của các vấn
đề rối loạn cảm xúc và hành vi. Được tồn trữ trong ký ức như những quá trình khái quát
hóa các trải nghiệm đặc thù và những khuôn mẫu cho các hoàn cảnh đặc thù, sơ đồ sẽ
cung cấp tiêu điểm và ý nghĩa cho việc tiếp nhận các thông tin.
Các sự kiện xảy ra trong đời sống sẽ hoạt hóa cả nội dung của tư tưởng lẫn các
cảm xúc kèm theo. Sơ đồ nhận thức có thể mô tả một cách chính xác hơn như là một cơ
cấu nhận thức - cảm xúc – tư duy
Các sơ đồ được hình thành ở những cá nhân như là những biểu trưng về các sự
kiện. Chúng phát sinh, duy trì và được củng cố thông qua các tiến trình đồng hóa và điều
ứng đối với những trải ngiệm xa lạ. Những tiến trình thích nghi này tiềm ẩn bên dưới hiệu
quả của những can thiệp về mặt tư duy. Việc trình bày và huấn luyện về hành vi giúp cho
thân chủ có được những trải nghiệm và chứng cứ không phù hợp với những niềm tin mà
họ vốn có. Những thay đổi về cảm xúc cũng như tư duy không được xem là bắt nguồn từ
việc học tập và từ các tác nhân củng cố; thay vì thế, những thay đổi xảy ra là do có sự
điều chỉnh những cách tư duy mà thân chủ đang có và có sự tạo lập những phương pháp
tư duy mới để thay thế.
Sơ đồ đóng một vai trò trung tâm trong việc diễn tả các rối loạn lâm sàng, giải
thích được sự bền vững của hành vi ảnh hưởng đến tư duy theo thời gian và sự liên tục
trong cảm nhận về bản ngã trong cuộc đời của một con người.
Nhận thức sai lệch
Có vô số những thông tin tác động trên đời sống hằng ngày của chúng ta, do đó ta
phải chọn lựa những sự việc nào hay kích thích nào là quan trọng nhất cho sự thích ứng
và sống còn của chúng ta. Một số sự việc sẽ được xem xét, được nhớ lai, và được nghĩ
đến; một số sự việc khác sẽ bị bỏ qua, không biết đến và quên đi vì không đáng quan tâm
hay không quan trọng .
Khi các khả năng chú ý và phân tích thông tin của chúng ta bị giới hạn, có thể xảy
ra một số sai lệch trong các trải nghiệm sống của chúng ta. Tri giác, ký ức và suy nghĩ của
một người có thể méo mó theo một số cách thức thích ứng hay không thích ứng. Ví dụ
một số cá nhân có thể nhìn đời sống một cách tích cực nhưng không thực tế và họ cho
rằng họ có thể ảnh hưởng hoặc kiểm soát được đời sống mà thực ra họ không thể làm
được. Họ có thể nắm bắt những cơ hội mà hầu hết những người khác đều tránh, ví dụ như
khởi sự một doanh nghiệp mới hay mạo hiểm đầu tư vào thị trường chứng khoán mới.
Tuy nhiên, sự lệch lạc như thế có thể tạo thành vấn đề khiến một người tìm cách
nắm bắt các cơ hội mà rốt cuộc có thể chuốc lấy những nguy hiểm. Ví dụ: họ có thể cảm
thấy đau ngực dữ dội mà không khám bác sĩ mà cho rằng “không có điều gì xảy ra cho tôi
vì tôi còn quá trẻ và khỏe mạnh nên khó bị cơn đau tim”. Chính sự nhận thức sai lệch,
kém thích nghi và tiêu cực là mục tiêu của trị liệu nhận thức.
Một công việc của trị liệu là làm cho sự méo mó tư duy ấy được nêu rõ và giúp
thân chủ nhận ra tác động của những nhận thức lệch lạc ấy đối với cuộc sống của mình.
Như vậy, méo mó tư duy biểu hiện cách xử lý thông tin kém thích ứng và có thể trở thành
biểu tượng của các kiểu hành vi đặc biệt hay của một hội chứng lâm sàng nào đó.
3.2 Các kỹ thuật can thiệp trong thực hành trị liệu nhận thức điều chỉnh sự méo mó
trong tư duy
Một yếu tố chung cho các mô hình trị liệu nhận thức - hành vi là nhấn mạnh việc
giúp đỡ thân chủ xem xét cách thức mà họ tạo dựng hay hiểu biết về bản thân và thế giới
của họ và thực nghiệm các cách thức mới mẻ để đáp ứng rồi thay đổi tư duy.
Bằng cách tìm hiểu cách thức riêng mà thân chủ có được những nhận định về
chính mình, thế giới xung quanh và triển vọng tương lai, nhà trị liệu có thể giúp thân chủ
có thể thay đổi các cảm xúc tiêu cực và hành động một cách thích ứng .
Trong thực tế, trị liệu nhận thức bao gồm những tính chất sau:
• Được cấu trúc tốt, chủ động và định hướng theo vấn đề (problem oriented)
• Thời gian giới hạn và có chiến lược
• Sử dụng mối quan hệ trị liệu có tính hợp tác.
• Sử dụng các kỹ thuật tâm lý giáo dục (psychoeducational techniques)
• Trợ giúp việc học tập kỹ năng.
• Sử dụng các câu hỏi theo phương pháp Socrate (Socratic questioning)
• Đặt nền tảng trên các mô hình xây dựng tư duy và hành vi.
• Sử dụng mô hình ứng phó (coping) và làm chủ (mastery)
Trị liệu nhận thức cố gắng phát hiện mục tiêu đặc thù, đo lường được và di chuyển
nhanh chóng trực tiếp vào những lĩnh vực đã tạo nên sự nhận thức méo mó trong tư duy.
Nó có thể sử dụng các kỹ năng tâm lý giáo dục và tìm cách cung cấp cho thân chủ những
kỹ năng để tư duy theo những chuẩn mực của xã hội thay vì sự méo mó
Ý nghĩa đặc thù của thân chủ (idiosynratic meaning)
Cần phải khám phá những ý nghĩa có liên quan đến lời nói và suy nghĩ của thân
chủ, ví dụ: một thân chủ tin tưởng rằng đời mình bị “tan nát” bởi sự việc vợ bỏ ra đi, có
thể được hỏi nhẹ nhàng rằng sự “tan nát” ấy có ý nghĩa gì. Có thể yêu cầu anh ta phản ánh
chính xác cách thức anh ta bị “tan nát” như thế nào và sau đó, bằng cách nào anh ta có thể
tránh được sự tan nát. Tất cả từ ngữ được nói ra đều mang những ý nghĩa đặc thù của
riêng thân chủ. Để có thể thăm dò các ý nghĩa ấy, nhà trị liệu cần có kỹ năng lắng nghe
tích cực, khả năng giao tiếp tốt và có khả năng xem xét các giả định của mình.
Yêu cầu bằng chứng (questioning the evidence)
Có thể làm việc với thân chủ bằng cách hỏi về những bằng chứng mà họ đang
dùng để duy trì và tăng cường niềm tin của họ. Việc này bao gồm sự xem xét một cách hệ
thống các bằng chứng nào đã củng cố niềm tin của họ, có thể xem xét độ tin cậy của các
nguồn thông tin và đương sự có thể nhận ra rằng họ đã bỏ qua những dữ liệu quan trọng
nhưng không phù hợp với các quan điểm sai lệch của cá nhân mình.
Quy kết lại (reattribution}
Thân chủ thường nhận trách nghiệm về các sự kiện và tình thế mà rất ít có khả
năng là thuộc trách nhiệm của họ. Nhà trị liệu có thể giúp thân chủ “phân phối lại” những
trách nhiệm cho tất cả các đối tác có liên quan.
Đáp ứng hợp lý (rational responding)
Một trong những kỹ thuật mạnh mẽ nhất trong trị liệu nhận thức méo mó tư duy là
việc giúp thân chủ thách thức các suy nghĩ sai lệch. Thân chủ thường cảm thấy khó khăn
khi bắt đầu việc nhận diện ra các suy nghĩ, cảm xúc hoặc các tình huống sống. Nếu thân
chủ trình bày một vấn đề cảm xúc (ví dụ: tôi rất buồn) nhà trị liệu cần thăm dò xem hoàn
cảnh nào tạo nên cảm xúc ấy và các suy nghĩ kèm theo. Nếu thân chủ đưa ra suy nghĩ (ví
dụ: tôi là người thất bại), nhà trị liệu cần xác định các cảm xúc và tình huống lúc ấy như
thế nào. Sau cùng nếu thân chủ nói về một tình huống (ví dụ: chồng tôi bỏ tôi), nhà trị
liệu nên tìm cách xác định các suy nghĩ và cảm xúc xảy ra trước, trong và sau sự kiện đó.
Các phát biểu như “tôi cảm thấy mình là người thua cuộc” cần được tái định dạng
(reframe) như các suy nghĩ và cảm xúc kèm theo với suy nghĩ ấy. Sau khi xác định được
những suy nghĩ tự động sai lệch, nhà trị liệu có thể phát triển nên một đáp ứng hợp lý,
gồm bốn giai đoạn sau:
a. Xem xét một cách hệ thống những bằng chứng đã hỗ trợ hoặc bác bỏ niềm tin của thân
chủ
b. Phát triển những cách giải thích hoặc niềm tin thay thế có tính thích nghi hơn làm thay
đổi cách tư duy
c. Làm mất đi tính chất bi thảm hóa của những niềm tin hay những cách tư duy méo mó
d. Xác định những bước can thiệp về hành vi đặc hiệu để giải quyết vấn đề
Xem xét các giải pháp và phương pháp thay thế
Cần làm việc với thân chủ để đưa ra những giải pháp khác. Ví dụ: những thân chủ
tự sát thường tin rằng có các giải pháp và phương pháp thay thế và cái chết là một giải
pháp hợp lý. Nhà trị liệu có thể giúp thân chủ phát triển và lượng giá các giải pháp thay
thế.
Giải trừ sự bi thảm hóa
Kỹ thuật này giúp cho thân chủ đánh giá lại xem liệu họ có quá làm cho tình hình
trầm trọng thêm hay không. Giải thích nguyên nhân và định hướng nhận thức theo chuẩn
mực xã hội.
Các hệ quả huyễn tưởng hóa
Yêu cầu thân chủ mô tả những huyễn tưởng về một tình thế gây sợ hãi, về những
hình ảnh mà họ có về huyễn tưởng ấy cùng những mối bận tâm kèm theo. Khi mô tả được
các huyễn tưởng, thân chủ có thể thấy sự phi lý của những ý tưởng trong tư duy của họ.
Nếu những hậu quả của huyễn tưởng là có thực, nhà trị liệu cần làm việc với thân chủ
đánh giá mức độ nguy hiểm và phát triển các chiến lược ứng phó.
Những thuận lợi và bất lợi
Bằng cách hỏi thân chủ xem xét cả hai mặt thuận lợi và bất lợi của vấn đề, có thể
giúp họ có được một tầm nhìn rộng hơn. Kỹ thuật giải quyết vấn đề cơ bản này rất có ích
trong việc giúp thân chủ đạt được một tầm nhìn và tổ chức quá trình hành động hợp lý
“Biến nguy thành an” (turning adversity to advantage)
Có khi một hiểm họa tiềm tàng có thể được sử dụng như một điều kiện thuận lợi.
Trường hợp bị mất việc làm có thể là điểm mở đầu cho một công việc mới hay một nghề
nghiệp mới. Việc đặt ra một “thời hạn chót” có thể tạo ra một áp lực bất công, nhưng lại
có thể được vận dụng để tạo động lực cho đương sự hành động. Sẽ có được sự quân bình
giúp đặt những trải nghiệm của đương sự dưới một tầm nhìn mới.
Liên tưởng hoặc khám phá có hướng dẫn để định hướng tư duy theo chuẩn
mực xã hội
Trái ngược với kỹ thuật liên tưởng tự do của phân tâm, việc liên tưởng hoặc khám
phá có hướng dẫn bao gồm việc nhà trị liệu làm việc với thân chủ để kết nối các ý nghĩ và
các hình ảnh bằng cách dùng các câu hỏi theo kiểu Socrate (Socratic questioning): nhà trị
liệu cung cấp sự kết nối giữa những lời nói của thân chủ và khuyến khích thân chủ phát
hiện một loạt các suy nghĩ tự động của họ. Việc sử dụng các câu hỏi như “Rồi điều gì tiếp
theo?” hoặc “Vậy điều đó có ý nghĩa gì?” vv… sẽ cho phép nhà trị liệu hướng dẫn thân
chủ hiểu được các chủ đề (themes) trong dòng chảy của những tư tưởng tự động và các sơ
đồ.
Sử dụng kỹ thuật cường điệu hoặc nghịch lý (exaggeration or pardox)
Dường như có một không gian giữa hai thái độ cực đoan cho một vị trí duy nhất,
khi đẩy một ý tưởng đến cực đoan nhà tri liệu có thể giúp “di chuyển” thân chủ đến một
vị thế quân bình và thích ứng hơn đối với một niềm tin đặc biệt nào đó để thân chủ có
cách tư duy phù hợp.
Phát biểu các tiếng nói bên trong suy nghĩ
Mọi người khi được yêu cầu phản hồi những suy nghĩ của họ, đều có thể “nghe
tiếng nói của tư tưởng họ trong đầu”; khi yêu cầu thân chủ nói ra những tư tưởng này, họ
sẽ có một tư thế tốt hơn để làm việc với những “tiếng nói” và những tư tưởng này. Khi
nhà trị liệu “lấy đi” những tiếng nói sai lệch, thân chủ có thể trải nghiệm được việc đáp
ứng thích hợp. Ví dụ: nhà trị liệu có thể bắt đầu bằng cách tạo ra những khuôn mẫu đáp
ứng hợp lý với những lời mà thân chủ nói ra các tư tưởng sai lệch của ho; sau đó nhà trị
liệu có thể từng bước giúp thân chủ thực hành để nhận ra tính chất rối loạn tư duy của
mình và có thể đáp ứng tốt hơn để giải quyết các rối loạn tư duy của mình.
Tự hướng dẫn (self-instruction)
Meichenbaum (1977) và Rehm (1987) đã phát triển một loạt rộng rãi các kỹ thuật
tự học hữu ích để làm việc với các thân chủ trầm cảm hoặc xung động. Ví dụ: thân chủ có
thể được hướng dẫn cách lập chương trình tự học, trực tiếp xây dựng những hành vi thích
ứng hơn, đồng thời áp dụng các phương pháp đối phó với các tư duy lệch lạc.
Ngừng suy nghĩ, tư duy
Vì giữa tư duy và cảm xúc có sự liên hệ với nhau, các suy nghĩ tự động có tính
kém thích nghi có thể có hiệu ứng “hòn tuyết lăn” (snow ball): ngay khi các cảm xúc nhẹ
nhàng buồn rầu hay lo âu có thể làm sai lệch các tiến trình nhận thức dẫn đến việc cá nhân
cảm thấy liên tục rối trí; bắt đầu là một vấn đề nhỏ cũng có thể dễ dàng trở thành một
chuyện nặng nề, trầm trọng. Kỹ thuật ngừng suy nghĩ được sử dụng tốt nhất khi trạng thái
cảm xúc tiêu cực mới xuất hiện và sẽ kém hiệu quả hơn khi diễn biến của suy nghĩ đã tiến
triển.
Ví dụ: có thể hướng dẫn cho một thân chủ đang lo âu vẽ ra một dấu hiệu của
ngừng suy nghĩ hoặc (nghe một tiếng chuông) lúc khởi đầu một cơn lo âu. Việc tạo ra một
thời gian ngừng nghĩ giây lát trong quá trình này có thể giúp cho thân chủ suy nghĩ về
nguồn gốc của lo âu và giới thiệu nhiều kỹ thuật nhận thức mạnh mẽ hơn trước khi sự lo
âu gia tăng (ví dụ kỹ thuật đáp ứng hợp lý).
Tranh Luận Trực Tiếp
Đôi khi tranh luận trực tiếp cũng hữu ích. Khi thân chủ có những nguy cơ tiềm
tàng như trong trường hợp có ý tự tử, có thể xem xét kỹ thuật tranh luận trực tiếp. Kỹ
thuật này có thể tạo nên tình trạng bất hợp tác và nhà trị liệu dễ trở nên bị mắc mứu vào
sự đối đầu hoặc tranh luận với thân chủ. Thật ra, tranh luận về các niềm tin cơ bản có thể
tạo ra sự kháng cự thụ động hoặc một đáp ứng thụ động. Kỹ thuật tranh luận, có thể sử
dụng kỹ lưỡng, đúng đắn và được thực hiện bởi một nhà trị liệu có kỹ năng.
Gọi tên các lệch lạc nhận thức (labeling of distortions)
Tư duy méo mó có thể là sự bận tâm quan trọng của thân chủ lo âu. Làm điều gì đó
để phát hiện bản chất và nội dung các suy nghĩ lệch lạc và giúp đặt tên các lệch lạc mà
thân chủ sử dụng, khi đó thân chủ sẽ trở nên ít sợ hãi hơn.
Phát triển các hình ảnh thay thế (developing replacement therapy)
Thân chủ tư duy méo mó thường trải nhiệm những hình ảnh kỳ ảo trong thời gian
stress. Khi sự méo mó tư duy có thể hoạt hóa bởi các hình ảnh này, có thể giúp cho thân
chủ phát triển những hình ảnh đối ứng. Ví dụ thay vì suy tưởng về sự thất bại, bối rối, nhà
trị liệu giúp thân chủ phát triển một hình ảnh đối ứng ngược lại có hiệu quả mới mẻ hơn.
Một khi thực hành tốt, thân chủ có thể thay thế những hình ảnh này bên ngoài thời gian trị
liệu
Đọc sách liệu pháp (Bibliotherapy)
Một số sách hay có thể dùng để đọc ở nhà, coi như một bài thực tập ở nhà. Những
sách này có thể sử dụng để giáo dục thân chủ về mô hình trị liệu nhận thức cơ bản, nhấn
mạnh các điểm đặc biệt trong khóa trị liệu, giới thiệu các ý tưởng mới để thảo luận trong
các phiên trị liệu sắp tới, hoặc đề nghị cách thức suy nghĩ thay thế về các mối bận tâm của
thân chủ.
3.3 Mô hình can thiệp trị liệu méo mó tư duy trên thế giới
Lý thuyết về trị liệu nhận thức được coi là lý thuyết nền tảng trong mô hình can
thiệp trị liệu méo mó tư duy trên thế giới. Xét trên một khía cạnh nào đó, mô hình trị liệu
méo mó tư duy trên thế giới lấy lý thuyết nền tảng là lý thuyết nhận thức và lý thuyết
nhận thức hành vi, trị liệu tâm lý trong trị liệu méo mó tư duy được lấy từ mô hình trị liệu
nhận thức.
Trong các mô hình can thiệp trị liệu méo mó tư duy trên thế giới, chúng được chia
ra những hợp phần: tâm lý trị liệu, các kỹ thuật ứng dụng, dùng thuốc. Những hợp phần
này có sự liên kết với nhau: để tiến hành tâm lý trị liệu, nhà trị liệu sử dụng các kỹ thuật
ứng dụng, hỗ trợ giảm bớt những biểu hiện sinh lý không tốt của bệnh nhân bằng cách sử
dụng thuốc.
3.3.1 Tâm lý trị liệu
Các tư liệu về trị liệu nhận thức đã phát triển theo cấp số nhân trong những thập kỷ
qua. Có gốc rễ từ công trình của Aaron Beck trong việc trị liệu trầm cảm (Beck, 1972,
1976), phương pháp trị liệu nhận thức hiện đại đã trở thành mô hình được ứng dụng rộng
rãi trong lĩnh vực tâm lý trị liệu và tâm bệnh học và đã được áp dụng trong nhiều vấn đề,
các nhóm thân chủ và các hoàn cảnh trị liệu khác nhau. Hiện nay có nhiều trung tâm trị
liệu nhận thức cho những đối tượng méo mó tư duy ở nhiều nơi trên thế giới như Buenos
Aires, Stockholm và Thượng Hải. Mô hình cơ bản đã được thích ứng ở nhiều nền văn hóa
một cách dễ dàng. Các nhà trị liệu ở Thụy Điển cũng như ở Trung Quốc xác định có
những quan tâm và phát triển trị liệu nhận thức như là một mô hình thích hợp với các đặc
trưng của các quốc gia này. Đây là một thực tế khá lý thú, vì đây là hai nước có nền văn
hoá rất khác nhau. Các cách tiếp cận nhận thức dường như được ứng dụng xuyên văn hoá
vì chúng tập trung vào diễn tiến và đặt nền tảng trên hiện tượng học (phenomenologically
based) Mô hình này tôn trọng thực tế cho rằng những niềm tin tiềm tàng đặc thù, có thể
được chia sẻ bởi những người thuộc những nền văn hoá riêng biệt và có sự khác biệt
xuyên văn hoá đáng kể về những niềm tin này.
Giống như các nhà tâm lý trị liệu phân tâm, nhà trị liệu nhận thức xác nhận sự
quan trọng của những đối thoại bên trong và những động cơ từ bên trong (internal
dialogues and motivations). Nhà trị liệu nhận thức làm việc để giúp thân chủ nói ra những
điều chưa được nói, dù rằng họ vẫn cố gắng tránh dùng các ẩn dụ về sự đè nén các bản
năng và quan niệm về việc hành vi chịu sự chi phối bởi các yếu tố bên trong gây lo âu, đè
nén. Họ cũng cố gắng phát hiện và thay đổi các niềm tin cùng các thái độ tạo nên sự đau
khổ mà thân chủ không tự nhận biết được.
Sự phát triển của trị liệu nhận thức như là một mô hình xử lý thông tin trong các
rối loạn lâm sàng đã được phát triển trong những năm 1970, vì những kỹ thuật trị liệu đặt
nền tảng trên các mô hình được điều hòa bởi nhận thức được đề nghị và vì các kết quả
nghiên cứu trị liệu chứng minh tính hiệu năng của các kỹ thuật đã được công bố.
3.3.2. Mô hình ABC
Bandura (1969, 1977a, 1977b) là tác giả được biết đến nhiều nhất trong việc phát
triển mô hình học tập xã hội của chứng lo âu và tính gay hấn, và ông đã phát hiện ra tầm
quan trọng trung tâm của sự nhận biết về “hiệu năng của bản thân” (self-efficacy) hoặc
năng lực cá nhân trong việc hướng dẫn hành vi con người. Trong việc tái công thức hóa
học thuyết hành vi cổ điển, một số tác giả cho rằng hành vi con người không chỉ được dàn
xếp bởi các yếu tố môi trường và yếu tố ngẫu nhiên mà do các yếu tố niềm tin và tri giác
của cá nhân đó.
Mô hình ABC rất thông dụng hiện nay để miêu tả sự quan hệ giữa “sự kiện đi
trước” (Antecedent events), “niềm tin” (Beliefs), “hành vi” (Behavior) và “hậu quả”
(Consequenses) ở mỗi cá nhân được đề nghị bởi Albert Ellis (1962, 1979, 1985) đã gợi ý
rằng những hành vi kém thích nghi hoặc các chứng nhiễu tâm là có liên quan trực tiếp đến
những niềm tin phi lý của một con người đối với những biến cố trong cuộc sống của họ.
Ellis đã phát triển một hệ thống các kiểu thức lệch lạc hoặc sai lầm thường thấy về mặt
nhận thức đồng thời phát triển một số kỹ thuật trị liệu có hướng dẫn để thay đổi chúng.
Mô hình của ông cho rằng bằng cách phát hiện và thay đổi các niềm tin phi lý hoặc không
thực tế có thể dẫn đến sự thay đổi các phản ứng cảm xúc và hành vi trước các sự kiện. Bởi
vì những niềm tin phi lý thường khá kiên định và có tính chất lâu đời.
3.3.3. Mô hình trầm cảm
Seligman (1974, 1975) cho rằng cá nhân bị trầm cảm khi họ tin rằng họ không thể
kiểm soát các kết quả quan trọng trong đời sống của họ (bao gồm cả các sự kiện tích cực
lẫn các sự kiện tiêu cực hay trừng phạt). Mô hình trầm cảm “học được sự tuyệt vọng”
(learned-helplessness), sau khi được cải biên bởi các tác giả Abramson, Seligman và
Teasdale (1978), đã tạo nên sự quan tâm nghiên cứu thực nghiệm và gợi ý rằng sự qui lỗi
bởi các thân chủ trầm cảm về nguyên nhân các sự cố trên có thể là mục tiêu quan trọng
của việc trị liệu .
3.3.4. Mô hình nhận thức hành vi
Rehn (1977) đã đề nghị một mô hình nhận thức - hành vi về trầm cảm tập trung
vào các thiếu sót trong việc “điều hòa bản thân” (self-regulation). Đặc biệt, tác giả cho
rằng các thân chủ trầm cảm biểu hiện sự kém cỏi trong việc tự quản lý bản thân mình (họ
tham dự một cách chọn lọc vào các sự kiện tiêu cực và muốn có các hiệu quả tức thì thay
vì chờ đợi những kết quả lâu dài từ các hành vi của mình) và họ cũng yếu kém trong khả
năng tự đánh giá bản thân (họ thường chỉ trích bản thân quá đáng và có khuynh hướng đổ
lỗi một cách không thích đáng về trách nhiệm của họ đối với các sự kiện tiêu cực) cũng
như yếu kém trong khả năng tự củng cố bản thân (self-reinforcement) (họ không có
khuynh hướng khen thưởng cho các thành công của mình và trừng phạt mình quá lố khi
không đạt được các mục tiêu). Mô hình của Rehn là sự phát triển các mô hình ban đầu về
điều hòa hành vi bản thân (Kanfer, 1971) và có ích lợi lâm sàng với các vấn đề hành vi
nhận thức đặc thù được trải nghiệm bởi các thân chủ trầm cảm (Fuchs & Rehn, 1977).
Một số lớn những kỹ thuật nhận thức và hành vi có thể được dùng để phát hiện và
sau đó đặt câu hỏi về lệch lạc trong nhận thức và các sơ đồ ẩn bên dưới . Những kỹ thuật
này được dạy cho thân chủ để giúp họ đáp ứng một cách lành mạnh hơn. Sự phối hợp
đúng đắn các kỹ thuật nhận thức và hành vi sẽ tuỳ thuộc vào khả năng của thân chủ, kỹ
năng của nhà trị liệu, mức độ bệnh lý và các mục tiêu trị liệu đặc hiệu. Ví dụ: khi làm việc
với các thân chủ liệt giường, những mục tiêu ban đầu của trị liệu có thể tập trung giúp đỡ
thân chủ thực hiện các công việc tự chăm sóc và việc phân tích công việc cần huấn luyện
thành những bước nhỏ với độ khó tăng dần có thể đạt thành công tốt hơn. Bắt đầu với các
công việc ít khó khăn nhất, sau đó tiến dần từng bước sang các công việc khó khăn hơn sẽ
giúp cho thân chủ ý thức được sự thành công của mình nhiều hơn.
3.3.5 Trị liệu bằng thuốc
Trị liệu bằng thuốc có thể là một phần trợ lực quan trọng trong chương trình trị
liệu. Ngược với các điều tin tưởng thông thường, trị liệu nhận thức và trị liệu bằng hóa
dược không loại trừ lẫn nhau, mà có thể phối hợp với nhau trong một chương trình trị liệu
(Wright & Schrodt, 1989; Wright, 1987, 1992). Ngoài giá trị thay đổi các suy nghĩ không
lành mạnh và hành vi kém thích ứng, đã tạo cho thân chủ cảm giác buồn rầu, lo âu, giận
dữ, trị liệu nhận thức còn có thể sử dụng để phát triển và thay đổi các niềm tin không tốt
đẹp về thuốc men Ngoài ra, như tác giả Wright (1992) nhận xét, trị liệu nhận thức có thể
trang bị cho thân chủ các kỹ thuật giải quyết vấn đề, giúp phát triển sự hoạt động tâm lý
xã hội tốt hơn và có thể giảm nguy cơ không lệ thuộc vào chương trình trị liệu thuốc men
lâu dài.
Kinh nghiệm lâm sàng cho thấy rằng trị liệu bằng thuốc có thể ích lợi trong việc
giảm bớt các triệu chứng sinh học của trầm cảm, như mất ngủ, mệt nhọc và kém tập trung
và như vậy có thể giúp các thân chủ trầm cảm nặng tham gia tích cực hơn trong quá trình
trị liệu. Tuy nhiên, cơ chế dẫn đến sự thay đổi do trị liệu bằng thuốc men vẫn chưa được
hiểu hết. Đối với các thân chủ hưng trầm cảm và loạn thần, thường phải sử dụng kết hợp
thuốc men và tâm lý trị liệu nếu thân chủ không đáp ứng với các can thiệp hành vi hoặc
bằng lời nói.
3.3.6 Đánh giá
* Những ưu điểm
- Các mô hình trị liệu méo mó tư duy đã nêu đặc biệt hữu ích trong trị liệu trầm
cảm, lo âu, rối loạn nhân cách - đều là những biểu hiện cụ thể, là những dạng thức của tư
duy méo mó.
- Các mô hình nêu trên đã trở thành chỗ đứng chung của các nhà trị liệu, của các
phương pháp lý thuyết và triết lý khác nhau, từ trường phái phân tâm đến trường phái
hành vi.
- Các mô hình này sử dụng cách tiếp cận tổng hợp, phối hợp nhiều liệu pháp cụ thể
để tăng tính hiệu quả của điều trị. Ít nhất là phải kết hợp hai kĩ thuật trị liệu trong quá
trình điều trị cho một rối nhiễu nào đó của thân chủ. Sự kết hợp nhiều liệu pháp hay kĩ
thuật can thiệp khác nhau trong một chương trình điều trị tổng hợp sẽ nâng cao tính hiệu
quả của trị liệu. nguyên tắc phối hợp này cũng giống như điều trị những vấn đề y học hiện
đại, chẳng hạn như vừa dùng thuốc, vừa sử dụng chế độ ăn kiêng vừa tập luyện để chữa
bệnh tim mạch.
- Với mô hình trị liệu nhận thức có tác dụng mang lại hiệu quả phòng ngừa tái phát
các dạng rối nhiễu tư duy, đặc biệt là trầm cảm sau khi kết thúc quá trình trị liệu.
- Tính cấu trúc tốt, tính tập trung và định hướng vấn đề: Trị liệu nhận thức trong hỗ
trợ điều trị tư duy méo mó cố gắng phát hiện mục tiêu đặc thù, đo lường được và di
chuyển nhanh chóng trực tiếp vào những lĩnh vực đã tạo nên những khó khăn lớn nhất
cho thân chủ. Cách tiếp cận này tương tự với liệu pháp tâm động học (psychodynamic) và
liệu pháp tương tác liên cá nhân ngắn hạn và tạm thời (Crits_Chistoph & Barber, 1991).
- Ngoài ra trị liệu nhận thức còn có tính chiến lược (strategic) và thường có hạn định thời
gian (time-limited). Tri liệu nhận thức tìm cách trang bị cho thân chủ những kỹ năng để
hiểu biết và quản lý chúng.
- Một nhân tố quan trọng của các mô hình này là thúc đẩy các kỹ năng và ý thức về
năng lực bản thân của thân chủ để họ có thể thực hiện các yêu cầu cuộc sống hiệu quả
hơn, từ đó có được một ý thức tốt hơn về khả năng kiểm soát cuộc sống và hiệu năng của
bản thân. Huấn luyện các kỹ năng xã hội, huấn luyện thư giãn và các bài tập kiểm soát sự
giận dữ là những ví dụ.
* Những điểm còn hạn chế
- Tiến trình trị liệu phức tạp với sự kết hợp và vận dụng nhiều kĩ thuật can thiệp
đòi hỏi trình độ cao và kinh nghiệm, sự linh hoạt của nhà trị liệu. Bên cạnh đó, sự kiên trì
và sự hợp tác ở phía thân chủ cũng yêu cầu rất cao mới đem lại hiệu quả trong trị liệu.
- Quá trình trị liệu trong các mô hình này cần có sự đánh giá và tiên liệu về việc
giảm thiểu nguy cơ tái phát những nhận thức, tư duy sai lệch. Tuy nhiên điều này chưa
được đề cập trong mô hình trị liệu này.
- Việc sử dụng nhiều kĩ thuật can thiệp song chưa chỉ ra kĩ thuật nào là chủ yếu và
mang tính đặc thù của mô hình có tác dụng mang lại hiệu quả và liên quan gần gũi với
việc cải thiện vấn đề làm nên sự thay đổi ở thân chủ.
3.4 Mô hình can thiệp tại Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có một mô hình cụ thể nào điều trị tư duy méo mó.
Hầu hết những bệnh nhân có biểu hiện của tư duy méo mó ở thể nặng, kéo dài được hỗ
trợ điều trị về mặt tâm lý tại các cơ sở, trung tâm tư vấn tâm lý hoặc các cơ sở chuyên
khoa tâm thần.
3.4.1 Mô hình can thiệp trong các trung tâm tham vấn tâm lý
Một yếu tố chung cho các mô hình can thiệp trong các trung tâm tham vấn tâm lý
là nhấn mạnh việc giúp đỡ thân chủ xem xét cách thức mà họ tạo dựng hay hiểu biết về
bản thân và thế giới của họ (nhận thức) và thực nghiệm các cách thức mới mẻ để đáp ứng
(hành vi).
Bằng cách tìm hiểu cách thức riêng mà thân chủ có được những nhận định về
chính mình, thế giới xung quanh và triển vọng tương lai, nhà CTXH có thể giúp thân
chủ có thể thay đổi các cảm xúc tiêu cực và hành động một cách thích ứng .
Trong thực tế, trị liệu méo mó tư duy tại các trung tâm tham vấn tâm lý thường
bao gồm những tính chất sau:
• Được cấu trúc tốt, chủ động và định hướng theo vấn đề
• Thời gian giới hạn và có chiến lược
• Sử dụng mối quan hệ trị liệu có tính hợp tác.
• Sử dụng các kỹ thuật tâm lý giáo dục
• Trợ giúp việc học tập kỹ năng.
• Sử dụng các câu hỏi theo phương pháp Socrate
• Đặt nền tảng trên các mô hình xây dựng tư duy và hành vi.
• Sử dụng mô hình ứng phó và làm chủ
Có lẽ điểm mạnh nhất của trị liệu méo mó tư duy tại các trung tâm tham vấn tâm
lý là tính cấu trúc tốt, tính tập trung và định hướng vấn đề. Trị liệu nhận thức cố gắng
phát hiện mục tiêu đặc thù, đo lường được và di chuyển nhanh chóng trực tiếp vào
những lãnh vực đã tạo nên những khó khăn lớn nhất cho thân chủ.
3.4.2 Mô hình can thiệp trong các cơ sở chuyên khoa tâm thần
Tư duy méo mó không phải là bệnh tâm thần, nhưng với thực tế ở Việt Nam chưa
có mô hình nào điều trị hỗ trợ cho những người có tư duy méo mó thì việc hỗ trợ điều trị
tư duy méo mó được các bác sĩ chuyên khoa tâm thần tại các cơ sở điều trị, chuyên khoa
tâm thần trực tiếp đảm nhận. Việc điều trị từ bỏ tư duy méo mó được thực hiện dưới đây
được lấy mẫu từ Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia - Bệnh viện Bạch Mai. Bao gồm hợp
phần sau:
- Liệu pháp tâm lý:
Có thể áp dụng liệu pháp nhận thức, liệu pháp nhóm, liệu pháp gia đình trong điều trị
chán ăn tâm thần:
a) Liệu pháp nhận thức:
- Phát hiện suy nghĩ lệch lạc và nguồn gốc của chúng.
- Từ các lối suy nghĩ này thiết lập thành lý luận mà giá trị của nó mà bệnh nhân có thể
kiểm tra hàng ngày.
- Làm một cuốn nhật ký về những ý nghĩ tiêu cực, bối cảnh nảy sinh những ý nghĩ đó và
xếp bậc theo mức độ trầm trọng của chúng.
- Nghiên cứu để hiểu biết về các ý tưởng tự động.
- Tìm hiểu các cách suy nghĩ khác với các mô hình suy nghĩ sai lệch đó, áp dụng và ghi
nhận những cố gắng này.
- Kết hợp các hoạt động này hàng ngày như là những nhiệm vụ bài tập ở nhà.
Thầy thuốc đóng vai trò cộng tác viên và người hướng dẫn giúp bệnh nhân kiểm
tra các giả thuyết được xác định. Bệnh nhân có thể tập làm các giải pháp trước khi họ áp
dụng chúng trong các định hướng thực tế.
b) Liệu pháp tâm lý nhóm:
- Liệu pháp tâm lý nhóm điển hình là các thành viên hợp tác, họ quyết tâm theo đuổi
những mục tiêu thông thường và tin rằng sự tham gia của họ sẽ mang lại những lợi ích.
Họ là thành phần của một hệ thống mối liên hệ có tổ chức, được qui định bởi các tiêu
chuẩn đặc hiệu.
c) Liệu pháp gia đình:
Nội dung của sự can thiệp gia đình gọi là giáo dục tâm lý, đào tạo các kỹ năng giao
tiếp, các phương pháp giải quyết vấn đề, cung cấp thông tin về bệnh tật và phương pháp
điều trị để giảm sự ảnh hưởng tiêu cực của tư duy méo mó đối với các thành viên tham
gia.
3.5 Vận dụng mô hình can thiệp với trường hợp cụ thể : phụ nữ bị stress sau khi
sinh con
3.5.1 Những biểu hiện, triệu chứng phụ nữ bị stress sau khi sinh con
Tâm lý người mẹ lúc này rất phức tạp, hay cáu gắt, khóc lóc, buồn chán vô cớ, khó
chịu với sự có mặt của nhiều người, đôi khi lại trở nên chán nản, muốn buông xuôi, không
thiết làm gì cả. Có khi cảm thấy có lỗi với con vì chưa chăm sóc con chu đáo, như ý
muốn, tự trách mình không phải là một người mẹ tốt. Có khi lại cảm thấy căm ghét đứa
con của mình, không muốn có nó trên đời
Các triệu chứng có thể xuất hiện vào bất kỳ thời điểm nào đó trong năm đầu sau sinh,
bao gồm các triệu chứng thường gặp sau
Cảm thấy mình không xứng đáng chăm sóc em bé
Sao nhãng trong việc chăm sóc con
Cáu gắt với người khác
Dễ lo âu và hoảng sợ
Buồn bã
Cảm thấy có tội
Không còn thích thú với những thứ, hoạt động mình ưu thích trước kia
Giảm thiểu giao tiếp với người khác
Rối loạn giấc ngủ (thường là mất ngủ)
Ăn uống thất thường
An ủi không đem lại kết quả
Cảm thấy trống rỗng
Cảm thấy yếu ớt hoặc không còn sức lực
Không cảm thấy thoải mái trong quan hệ tình dục
Giảm khả năng diễn đạt chính xác khi nói hoặc viết
Tuyệt vọng
Lòng tự trọng thấp
Những ý nghĩ ám ảnh có thể xuất hiện và thường liên quan đến bạo lực đối với đứa
trẻ. Trong trường hợp bị nặng ý nghĩ và hành vi giết đứa trẻ ngay sau khi sanh có thể xảy
ra với những hoang tưởng hoặc ảo giác
3.5.2 Nguyên nhân gây ra stress ở phụ nữ sau khi sinh
Stress chỉ các thay đổi về tâm sinh lý xảy ra nhằm đáp ứng các với các kích thích
được cơ thể nhận biết là đe dọa hoặc có hại. Những điều mà chúng ta nghĩ đến và cách
thức mà chúng ta cảm thấy đều có ảnh hưởng đến sức khỏe; tâm trí và thân thể liên hệ với
nhau một cách mật thiết. Một trong những nguyên nhân cơ bản của những stress ở phụ nữ
sau sinh là xuất phát từ những suy nghĩ lệch lạc, sự “méo mó về tư duy”. Sau khi sinh,
người phụ nữ rất dễ bị stress. Stress có thể khiến đầu óc người mẹ mệt mỏi, chán ăn, mất
ngủ, thậm chí mất sữa. Điều này không chỉ không tốt trong việc chăm sóc em bé mà còn
có ảnh hưởng xấu tới sản phụ.
Nguyên nhân chính dẫn đến việc các bà mẹ bị căng thẳng chính là do thiếu kinh
nghiệm và không có sự chuẩn bị tốt về mặt tâm lý sau sinh. Bên cạnh đó, có những người
mẹ chỉ phải đối mặt với một vài mối lo lắng khi nuôi con, nhưng cũng có những người mẹ
gần như bị ngập chìm trong stress bởi có quá nhiều căng thẳng, áp lực mà họ phải đối
mặt.
Sinh con không như ý muốn: Về giới tính, ngoại hình, thiếu tháng, con bị bệnh, đau
yếu, nhẹ cân. Người phụ nữ trong giai đoạn này thường tự trách mình không chăm sóc tốt
khi mang bầu, không tìm hiểu kỹ chế độ dinh dưỡng, hay do mình bất cẩn, không quan
tâm tới con, do số phận…Tự dằn vặt trách mình hay đổ lỗi cho một điều gì khác.
Những vất vả khi nuôi con: Cho con ăn, con quấy khóc, thiếu ngủ vì phải thức
đêm, kiêng cữ …
Stress vì thương con: Mọi người mẹ đều yêu thương và lo lắng cho con và họ luôn
cảm thấy con mình thật bé nhỏ, cần được nâng niu, che chở. Chính điều này đã mang lại
stress cho các bà mẹ bởi họ luôn lo sợ những điều không hay sẽ đến với con mình.
Tự tạo áp lực cho mình: Các bà mẹ thường lo lắng và tự hỏi không biết mình đã
hoàn thành tốt vai trò một người mẹ hay chưa.
Không có thời gian cho bản thân: Sau khi có con, người phụ nữ luôn bận rộn, ít có
thời gian để chăm sóc bản thân hay đơn giản là giữ gìn sức khoẻ của chính mình. Bên
cạnh đó, các bà mẹ cũng ít để tâm tới các mối quan hệ khác, kể cả với người chồng của
mình. Do đó, các bà mẹ rất dễ bị stress.
Khó khăn về tài chính: Em bé ra đời sẽ mang đến nhiều áp lực về mặt tài chính.
Bạn phải “đau đầu” để trang trải nhiều khoản, gánh nặng ngày càng tăng.
Không có được sự quan tâm, sẻ chia: Bạn phải tự mình làm tất cả mọi chuyện mà
không nhận được sự giúp đỡ của chồng, người thân.
Tâm lý người mẹ lúc này rất phức tạp, hay cáu gắt, khóc lóc, buồn chán vô cớ, khó
chịu với sự có mặt của nhiều người, đôi khi lại trở nên chán nản, muốn buông xuôi, không
thiết làm gì cả. Có khi cảm thấy có lỗi với con vì chưa chăm sóc con chu đáo, như ý
muốn, tự trách mình không phải là một người mẹ tốt. Có khi lại cảm thấy căm ghét đứa
con của mình, không muốn có nó trên đời
3.5.3. Hậu quả của những stress
Stress sau sinh nếu kéo dài có thể khiến bà mẹ bị mất sữa, ảnh hưởng đến việc chăm
sóc bé. Hơn thế, sức khỏe của bà mẹ cũng bị ảnh hưởng không nhỏ, bởi stress có thể
khiến đầu óc mệt mỏi, chán ăn, ngủ không có giờ giấc hoặc mất ngủ. Điều này rất có hại
cho sản phụ.
Một nghiên cứu mới đây cho biết: Mẹ cáu gắt, stress cũng ảnh hưởng đến tâm tính của
con. Con sẽ quấy khóc kể cả khi đã lớn. Đặc biệt, không khí gia đình lúc nào cũng "sôi
sục", nặng nề, vợ chồng không thể hòa hợp, các mối quan hệ khác trong gia đình cũng bị
ảnh hưởng, lúc nào cũng trực “nổ tung” bởi tâm lý "thất thường" của sản phụ.
Tình trạng này kéo dài dẫn đến mất ngủ triền miên, trầm cảm, rối loạn tâm thần và ảnh
hưởng tới hành vi. Thưc tế có nhiều hậu quả đáng tiếc xảy ra khi người mẹ mắc chứng
trầm sảm sau sinh kéo dài quá lâu mà không có sự quan tâm của chồng và gia đình tìm
biện pháp hỗ trợ dẫn đến hậu quả đau long (vụ mẹ để giết con rồi tự sát tại Ba Vì- Hà Nội
là một minh chứng)
3.5.3. Vai trò của CTXH với phụ nữ gặp phải stress sau khi sinh con
- Vận dụng lí thuyết trị liệu nhận thức và mô hình can thiệp để trợ giúp thân chủ bị stress
sau khi sinh
+ Nhân viên xã hội tham vấn sâu cho những phụ nữ gặp phải trầm cảm sau sinh,
giúp họ dần vượt qua bệnh lý, nhận diện những sai lệch trong suy nghĩ và định hướng lại
cho hợp với chuẩn mực.
+ Thực hiện vãng gia để tìm hiểu gia cảnh thân chủ, mối quan hệ trogn gia đình,
tìm kiếm và kết nối nguồn lực trợ giúp tahan chủ ngay chính trong gia đình và cộng đồng
xung quanh.
+ Bằng cách tìm hiểu cách thức riêng mà thân chủ có được những nhận định về
chính mình, thế giới xung quanh và triển vọng tương lai, nhà trị liệu có thể giúp phụ nữ
sau sinh có thể thay đổi các cảm xúc tiêu cực và hành động một cách thích ứng . Sử dụng
các kỹ năng tâm lý giáo dục và tìm cách cung cấp cho thân chủ những kỹ năng để tư duy
theo những chuẩn mực của xã hội thay vì sự méo mó.
+ Nhân viên xã hội giúp thân chủ thách thức các suy nghĩ sai lệch, giải thích
nguyên nhân của những sai lệch mà thân chủ gặp phải và định hướng lại tư duy lệch lạc
đó cho phù hợp với chuẩn mực. Như những căng thẳng khi sinh con không mong muốn,
cảm thấy mình không làm tròn bổn phận của một người mẹ, thế giới sụp đổ khi chồng và
những người xung quanh không còn coi trọng mình như trước.
+ Bằng các phương pháp và kỹ thuật nhân viên CTXH thúc đẩy phụ nữ sau sinh
nói lên suy nghĩ của mình, những căng thẳng hay áp bức mà mình phải chịu, tranh luận
thẳng thắn những điều mà họ không nói ra được nhằm giảm thiểu căng thẳng. Đồng thời
sử dụng các liệu pháp nhằm giải tỏa stress cho họ như: đọc sách liệu pháp, tập thể dục, tự
chăm sóc bản thân thỉnh thoảng,cho phép mình được nghỉ ngơi thư giãn vài giờ không
làm gì trong ngày để ngủ lâu hơn, đọc sách, nghe nhạc. Luôn giữ cho tinh thần được thoải
mái.
+ Nhân viên xã hội tư vấn, giới thiệu kết nối họ tới các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
tinh thần trong cộng đồng, tham gia các lớp tập huấn về kỹ năng làm cha mẹ (cách thức
nuôi dạy con, lên kế hoạch tài chính và thời gian chăm con, sự chia sẻ công việc gia đình
giữa hai vợ chồng). Tham gia các câu lạc bộ dành cho bà mẹ trẻ .Có thể là câu lạc bộ các
bà mẹ trẻ hay câu lạc bộ mẹ và bé, bởi khi tham gia, phụ nữ sinh con có thể học hỏi được
nhiều kinh nghiệm từ các bà mẹ khác. Giao lưu, gặp gỡ, trao đổi và các hoạt động tập thể
sẽ thấy cuộc sống có ý nghĩa, thoải mái hơn.
+ Cần thực hiện CTXH với người chồng vì đây là người gần gũi nhất và có vai trò
quan trọng để trợ giúp người phụ nữ vượt qua những bệnh lý tinh thần. Cần làm việc vơi
người chồng để anh ta thấy được tình trạng hiện tại của vợi và cùng tham gia kế hoạch trợ
gúp cho người vợ. Tình cảm vợ chồng, sự sẻ chia công việc gia đình khi sinh con là nhân
tố quan trọng thúc đấy người phụ nữ suy nghĩ tích cực hơn. Cùng với những người thân
trong gia đình hỗ trợ,động viên, tạo không khí thoải mái để giúp người phụ nữ cảm thấy
mình không cô độc và được giúp đỡ.
+ Điều quan trọng nhất là nhân viên xã hội và thân chủ phải tìm ra nguyên nhân
chính xác gây ra những căng thẳng, stress. Bởi khi đã xác định được nguyên nhân nào thì
việc khắc phục sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
IV. KẾT LUẬN
Từ quá trình tìm hiểu về vấn đề méo mó tư duy nêu trên cho chúng ta cái nhìn khái
quát nhất về khái niệm, những biểu hiện và đặc trưng cơ bản của hiện tượng này. Từ đó
đề xuất và đánh giá được mô hình can thiệp phù hợp trong việc điều chỉnh và hỗ trợ
những thân chủ gặp phải những biểu hiện của tư duy sai lệch. với mô hình trị liệu nhận
thức được đề cập, dựa trên những đặc điểm, những ảnh hưởng tích cực của nó, mô hình
hỗ trợ này đã và đang mang lại hiệu quả cao trong trị liệu cho vấn đề của thân chủ liên
quan đến nhận thức méo mó. Trên cơ sở của việc tìm hiểu đem lại, việc vận dụng mô hình
trị liệu nhận thúc trong trợ giúp thân chủ là phụ nữ bị stress sau khi sinh con để làm rõ
thêm về tính phù hợp và hiệu quả đối với thực tế quá trình trợ giúp theo cách tiếp cận của
CTXH.