Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.6 KB, 2 trang )
Dân Tộc Xơ Đăng
Tên dân tộc: Xơ Đăng
Tên gọi khác: Xơ Đeng, Cà Dong, Tơ-dra, Hđang,
Mơ-nâm, Hà Lăng, Ka Râng, Bri La Teng, Con Lan
Nhóm ngôn ngữ: Môn - Khmer
Dân số: 230 người
Cư trú
Cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum, một số ít ở miền núi của tỉnh
Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Đặc điểm kinh tế
Người Xơ Đăng làm rẫy là chính. Nhóm Mơ-nâm làm ruộng nước
nhưng không cày bừa mà lại dùng sức trâu, sức người để giẫm nát
đất. Đồng bào chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, hái lượm, đánh
bắt cá, đan lát, dệt, rèn. Nhóm Tơ-dra có nghề rèn từ quặng sắt rất
phát triển và nổi tiếng.
Tổ chức cộng đồng
Mỗi làng Xơ Đăng có nhà rông, có bãi mộ chôn người chết Nhà
cửa của dân làng quây quần bên nhau, mọi người gắn bó giúp đỡ
nhau. Ông "già làng" được trọng nể nhất, là người điều hành mọi
sinh hoạt chung trong làng và đại diện của dân làng.
Hôn nhân gia đình
Tên của người Xơ Đăng không có họ kèm theo, nhưng có từ chỉ
định giới tính: nam là A, nữ là Y (ví dụ như là A Nhong, Y Hên).
Trai gái lớn lên, sau khi đã cưa răng theo phong tục (ngày nay ít
người còn theo phong tục này), được tìm hiểu, yêu nhau. Lễ cưới
xin đơn giản. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng ở luân chuyển với từng gia