Điều trị tiểu đường: Thất bại của
3 liệu pháp hiện hành
Một loạt nghiên cứu mới công bố hôm 14-3 cho thấy chiến lược điều
trị bệnh tiểu đường phổ biến ở Mỹ hiện nay có thể gây tác hại cho bệnh
nhân. Đó là ba chiến lược điều trị để giảm nguy cơ đột quỵ và tử vong, gồm:
giảm huyết áp, giảm hàm lượng LDL (loại cholesterol xấu) và kiểm soát
hàm lượng đường trong máu sau bữa ăn.
Bệnh tiểu đường đang là một trong những vấn nạn y tế công cộng trên
thế giới. Ở các nước tiên tiến, khoảng 7-9% người trong độ tuổi trên 40 mắc
bệnh tiểu đường. Ở Việt Nam, nghiên cứu tại TP.HCM cho thấy cứ 100
người trên 30 tuổi thì có 11 nam và 14 nữ mắc bệnh tiểu đường, cao hơn cả
các nước Âu - Mỹ. Nghiên cứu này cũng cho thấy khoảng 55% bệnh nhân
tiểu đường bị cao huyết áp, chưa kể họ thường có hàm lượng LDL cao và
hàm lượng HDL (cholesterol tốt) thấp hơn người không mắc bệnh tiểu
đường.
Tuy nhiên, bằng chứng khoa học cho chiến lược điều trị tiểu đường
nói trên vẫn chưa đầy đủ. Do đó, trong năm năm qua, một số nhóm bác sĩ
Mỹ đã thực hiện những nghiên cứu quy mô, tốn kém hàng trăm triệu USD
để trả lời ba câu hỏi.
Một là đối với bệnh nhân tiểu đường, giảm huyết áp xuống dưới
120mmHg (còn gọi là điều trị tích cực) có giảm nguy cơ đột quỵ và tử vong
so với giảm huyết áp dưới 140mmHg (điều trị chuẩn) hay không? Hai là
giảm LDL và triglyceride có giảm nguy cơ bệnh tim mạch và tử vong hay
không? Ba là kiểm soát rối loạn dung nạp đường trong máu sau bữa ăn có
giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường và tim mạch không?
Để trả lời câu hỏi 1, các nhà nghiên cứu chọn 4.773 bệnh nhân tiểu
đường, phân nửa được điều trị tích cực để giảm huyết áp xuống dưới mức
120mmHg, và phân nửa được điều trị giảm huyết áp dưới mức 140mmHg.
Sau gần năm năm theo dõi, kết quả cho thấy không có khác biệt về tử vong
giữa hai nhóm. Trên thực tế, nhóm được điều trị tích cực thậm chí có nguy
cơ tử vong cao hơn nhóm được điều trị chuẩn!
Đối với câu hỏi 2, một nhóm nghiên cứu có tên ACCORD điều trị
5.518 bệnh nhân tiểu đường bằng hai liệu pháp: một nhóm được điều trị
bằng statin (thuốc giảm cholesterol), nhóm khác được điều trị bằng statin và
fibrate. Fibrate là thuốc có hiệu quả giảm triglyceride và LDL. Sau năm năm
theo dõi, hai nhóm có kết quả giống nhau về tỉ lệ tử vong và đột quỵ.
Để trả lời câu hỏi 3, một nhóm khác gồm 9.306 bệnh nhân bị chứng
rối loạn dung nạp đường trong máu, phân nửa được điều trị bằng
nateglimide và phân nửa không điều trị (nhóm giả dược). Sau năm năm theo
dõi, tỉ lệ mắc bệnh tiểu đường trong nhóm điều trị bằng nateglimide là 36%,
còn cao hơn nhóm không điều trị (33%). Trong cùng thời gian, không có
khác biệt đáng kể nào về tỉ lệ mắc bệnh tim mạch và tử vong giữa hai nhóm.
Nhóm điều trị bằng nateglimide thậm chí có tỉ lệ tử vong vì bệnh tim mạch
cao hơn nhóm không điều trị!
Những kết quả nghiên cứu trên được công bố trong số mới nhất của
tập san y khoa New England Journal of Medicine hôm 14-3. Giới chuyên gia
tim mạch ở Mỹ và thế giới ngỡ ngàng. Những kết quả này cho thấy giả định
khoa học làm nền tảng cho chiến lược điều trị bệnh tiểu đường trong thời
gian qua có lẽ sai.
Những kết quả trên là một bài học đắt giá cho những suy luận mang
tính niềm tin hơn là dựa vào bằng chứng khoa học. Ở mức độ đơn giản nhất,
bệnh nhân tiểu đường hay bị cao huyết áp, và cao huyết áp là yếu tố dẫn đến
nguy cơ đột quỵ và tử vong. Do đó, theo logic thông thường, kiểm soát
huyết áp ắt phải đem lại lợi ích cho bệnh nhân. Đó là giả thuyết đáng tin cậy
nhưng khi đưa vào thử nghiệm thực tế thì kết quả có khi hoàn toàn ngược
lại. Đây không phải lần đầu tiên kết quả thực nghiệm mâu thuẫn với giả
thuyết khoa học, nhưng có lẽ là lần đầu tiên giới y tế học một bài học đắt giá
như vậy.
Tuy nhiên, cần phải phân biệt giữa quần thể và cá nhân. Những kết
quả trên đây là kết quả trung bình, có lẽ thích hợp cho một quần thể hơn là
một cá nhân bệnh nhân. Trong thực tế ở một số bệnh nhân có nhiều yếu tố
nguy cơ cao, liệu pháp giảm huyết áp có thể đem lại hiệu quả giảm nguy cơ
tử vong. Tuy nhiên, nhận dạng những đối tượng có nguy cơ cao đòi hỏi
nhiều nghiên cứu hơn nữa.
Tiến sĩ Daniel Einhorn, một chuyên gia về tim mạch và là chủ tịch
Hội Nội tiết Mỹ, cho biết với những kết quả thực tế trên, rất khó đưa ra một
khuyến cáo cho cộng đồng về giảm huyết áp càng nhiều càng tốt, nhưng đối
với một số bệnh nhân thì kiểm soát huyết áp có thể đem lại lợi ích.