Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

NHÀ CỔ TÍCH HỌC NGUYỄN ĐỔNG CHI - Phần 1 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.81 KB, 11 trang )

NHÀ CỔ TÍCH HỌC NGUYỄN ĐỔNG CHI
Phần 1

Tiếp theo bộ Lược khảo về thần thoại Việt-nam[1], Kho tàng truyện
cổ tích Việt-nam là bộ sách thứ hai của Nguyễn Đổng Chi nghiên cứu về
truyện cổ dân gian. Mục đích của bộ sách này là giới thiệu và tìm hiểu
truyện cổ tích Việt-nam trong tư cách một sự tiếp cận hệ thống.
Công trình Kho tàng truyện cổ tích Việt-nam gồm 5 tập do Nhà xuất
bản Văn sử địa, Nhà xuất bản Sử học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội in
trong những năm 1958 - 1982, nhiều tập, được tái bản nhiều lần với số lượng
rất lớn.[2] Và gần đây, năm 1993, lần đầu tiên bộ sách lại được in trọn bộ 5
tập, do Viện Văn học xuất bản. Sách in ra dù nhiều, nhưng bao nhiêu cũng
chưa đủ, vì từ lâu, niềm khao khát để có được bộ sách trọn vẹn, như một tài
sản tinh thần giữ lại cho con cháu, đã là điều mong ước phổ biến ở nhiều
người.
Chỉ có thể giải thích sự cuốn hút đáng mừng này chính là do bộ sách
đã đáp ứng được nhu cầu mê say đọc truyện cổ tích của ngượi đọc thông
thường - một thứ mê say được bồi đắp từ thuở lọt lòng - cũng như đã đáp
ứng nhu cầu tự thân về sự phát triển của công tác sưu tầm, nghiên cứu, và
đổi mới phương pháp nghiên cứu truyện cổ tích Việt-nam trong những năm
gần đây. Chính những điều đó càng góp phần khẳng định vị trí quan trọng
của tác giả Nguyễn Đổng Chi trên hành trình hiện đại hóa ngành folklore
học dân tộc.
Bằng cuộc đời văn nghiệp của mình, Nguyễn Đổng Chi đã được giới
nghiên cứu đánh giá cao ở những đóng góp tích cực cho nhiều bộ môn khoa
học xã hội. Riêng đối với khoa học văn học dân gian, thì có thể nói, cùng với
Lược khảo về thần thoại Việt-nam, sự thành công của Kho tàng truyện cổ
tích Việt-nam đã đưa ông lên hàng ngũ những người đứng đầu vinh dự nhất.

I. KHO TÀNG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT-NAM - BỘ SÁCH LỚN
QUY TỤ MỌI NGUỒN CỦA TRUYỆN CỔ TÍCH



Mặc dù Nguyễn Đổng Chi đã nói môt cách khiêm tốn về bộ sách của
mình là chỉ giới hạn trong phạm vi truyện cổ tích của dân tộc Việt, mà chưa
có điều kiện đề cập đến kho tàng truyện cổ tích vô cùng phong phú của đồng
bào các dân tộc thiểu số, song với cách sưu tầm biên soạn tỷ mỷ thâu lượm
hết các nguồn tư liệu cụ thể, đặc biệt có thêm phần khảo di, trên cơ sở 201
cốt truyện của người Kinh, ông quả đã xây dựng được một tác phẩm có bề
dày đáng kể, có kết cấu hệ thống, cuốn hút tâm trí người đọc rộng rãi cũng
như giới nghiên cứu khoa học xã hội hàng mấy thập kỷ nay.
Bộ sách là biểu hiện của một công phu lao động nghiêm túc, một sự
trân trọng đáng quý đối với di sản văn học dân gian mà cụ thể là thể loại
truyện cổ tích của dân tộc ta. Ở đây, bao nhiêu vốn liếng cổ tích do người
Việt chắt chiu, sáng tạo, gom góp từ nhiều đời, đã được dồn lại, được chọn
lọc, sắp xếp và trình bày dưới dạng tinh kết. Hơn thế nữa, giá trị nhiều mặt
của loại hình cổ tích cũng được nhìn nhận một cách khái quát, toàn cảnh và
tổng hợp.
Hơn ai hết, Nguyễn Đổng Chi nhận thức được rằng trong nguồn gốc
sâu xa của lịch sử văn hóa dân tọc, truyện cổ dân gian nói chung hay truyện
cổ tích nói riêng từ rất sớm đã là món ăn tinh thần quan trọng, gắn bó chặt
chẽ với người Việt trong cuộc sống hàng ngày. Trải qua 1. 000 năm Bắc
thuộc, cùng với nhiều truyền thống văn hóa dân tộc không hề bị dập tắt, các
truyện dân gian về Lạc Long Quân - Âu Cơ, về nguồn gốc dân tộc con Lạc
cháu Hồng sinh ra từ bọc trăm trứng, đến các truyện địa linh nhân kiệt
Thánh Gióng, Tản Viên, Tô Lịch, Bà Triệu, Bà Trưng cũng vẫn trường tồn
và có ảnh hưởng sâu đậm ở giữa đời sống. Những câu chuyện này đã sớm
được các trí thức phong kiến Việt-nam ghi chép trong những tác phẩm khởi
đầu như Báo cực truyện, Giao-chỉ ký, Ngoại sử ký (thế kỷ XII), Việt điện u
linh (Lý Tế Xuyên), Lĩnh-nam chích quái (Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh, Kiều
Phú, thế kỷ XIV-XV). Rồi những tập Đại-việt sử ký toàn thư |(Ngỗ Sĩ Liên),
những tộc phả hoặc thần phả do Nguyễn Bính biên soạn, Truyền kỳ mạn lục

(Nguyễn Dữ), Thiên Nam văn lục (Nguyễn Hàng), Công dư tiệp ký (Vũ
Phương Đề), Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm), Tang thương ngẫu lục
(Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Kiến văn
tiểu lục (Lê Quý Đôn), Lịch triều hiến chương loại chi (Phan Huy Chú), Lan
Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Đại-nam nhất thống chi, Đại-nam liệt truyện
tiền biên (Quốc sử quán triều Nguyễn), Vân nang tiểu sử (Phạm Đình Dục)
Nguyễn Đổng Chi đã có con mắt tinh đời khi tiếp cận lại giá trị nhiều mặt
của những tác phẩm trên và mạnh dạn tách ra từ đó nguồn truyện kể phong
phú của dân gian, làm sống trở lại giọng điệu, phong cách dân gian cho hầu
hết những câu chuyện vốn đã được định hình bởi các nhà văn bác học. Đó là
một ý hướng khoa học chính đáng, bởi lẽ trước khi trở thành văn bản cố
định, các tác phẩm này đã sống trong lòng quần chúng một cách hồn hậu,
đúng như nhận xét của Vũ Quỳnh: "Từ đứa trẻ đầu xanh đến cụ già tóc bạc
đều truyền tụng và yêu dấu" (Tựa Lĩnh-nam chích quái liệt truyện, 1492)[3].
Không phải chỉ "tìm sử trong truyện, tìm truyện trong sử" ở những tác
phẩm trên, Nguyễn Đổng Chi còn thu thập tư liệu từ hàng loạt tác phẩm
khác xuất hiện vào thời cận đại, như Truyện khôi hài (1882), Ước lược
truyện tích nước Nam (1887), Chuyện đời xưa lựa ngón lấy những chuyện
hay và có ích (1888) của Trương Vĩnh Ký, Chuyện giải buồn của Huỳnh
Tịnh Của (1880), Tập san Du Lâm và quan sát (Landes, 1886), Truyện đời
xưa mới in ra lần đầu hết (Génibrel, 1899), Nam hải dị nhân liệt truyện
(Phan Kế Bính), Truyện Trương Chi (Chu Ngọc Chi, 1928), Truyện Đức
Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương (Lê Triệu Hoàn - Trần Trung Viên,
1929), Truyện cổ nước Nam (Nguyễn Văn Ngọc, 1932), Tô thị vọng phu
(Nguyễn Thúc Khiêm, 1936) cùng nhiều sách báo tiếng Việt, tiếng Pháp
khác, v. v Ngoài ta, Nguyễn Đổng Chi còn dựa vào nguồn tài liệu không
kém phần lý thú: các bản thần tích, thần phả ở miếu đền, các đạo sắc phong
thần, các bản xã chí ở nhiều địa phương khác nhau trong cả nước.
Trong tình hình tư liệu có thể, Nguyễn Đổng Chi lại mở rộng thêm
phạm vi nghiên cứu, hướng về một mảng khá nhiều những tác phẩm của

Trung-quốc và Ấn-độ - "hai nền văn minh vĩ đại và cổ kính trên thế giới, lại
gần gũi về không gian với Việt-nam" - trong đó có chứa đựng những dị bản
truyện cổ tích hoặc có liên quan tới truyện cổ tích. Đối với thư tịch Trung-
quốc, ông quan tâm tới những chuyên tập như: Liệt tiên truyện (Lưu
Hướng), Cao sĩ truyện (Hoàng Phủ Mật), Bác vật chi (Trương Hoa, thế kỷ
III), Thần tiên truyện (Cát Hồng), Sưu thần ký (Can Bảo, thế kỷ IV), Thần dị
kinh, Sưu thần hậu ký, linh ứng lục, U minh lục, Minh tường ký, Dị uyển
(thế kỷ VII), Lục dị ký, Văn kỳ lục, Dậu dương tạp trở (thế kỷ IX), Thái-
bình quảng ký (thế kỷ X), Văn kiến tiền lục, Văn kiến hậu lục, Tục bác vật
chi (thế kỷ XIII), Bao Công kỳ án, Tây dương ký (thế kỷ XVI), Liêu trai chí
dị, Tân tề hài (thế kỷ XVIII). Bên cạnh đó là những thư tịch khác, tuy không
phải chuyên tập nhưng cũng chứa đựng rất nhiều yếu tố truyện cổ như sử ký
thì có Sử ký, Tà truyện ; địa lý có Thủy kinh chú, Sơn hài kinh; tiểu thuyết
có Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Kim cổ kì quan, Cổ kim tiểu thuyết; giáo
huấn có Nhị thập tứ hiếu, Ám thất đăng v.v
Nguyễn Đổng Chi cũng tìm tới các truyện cổ tích được ghi chép trong
các bộ kinh sách lớn của Ấn-độ mà học giả phương Tây từ thế kỷ trước đã
đánh giá rất cao và coi chúng là nguồn gốc duy nhất của truyện cổ tích thần
kỳ thế giới, bởi chúng giữ lại được khá nhiều sắc thái quái dị hoang đường
nguyên thủy. Đó là các kinh như: Kinh Vêđa (khoảng 2. 500 - 500 năm
trước CN), Avađana Jataka (Lịch sử các tiền kiếp của đức Phật, thế kỷ III
trước CN), Bộ kinh Mahabharata (thế kỷ II trước CN - IV sau CN),
Kathaxaritxagara (Biển truyện, thế kỷ II, III- IV), Panchatantra (thế kỷ II -
V), Brithatcatha (thế kỷ II hoặc từ thế kỷ III- thế kỷ V), Vêtala (thế kỷ IX),
v.v và nhiều những tập sưu tầm khác, chẳng hạn: Truyện giáo lý Puraha,
hay Thánh ca Thượng đế Bhagavat Gita
Sau tất cả những tìm tòi phát hiện và thu thập nói trên, còn phải kể
đến công phu sưu tầm, điền dã của Nguyễn Đổng Chi trong vòng 50 năm, nó
giúp ông vừa tìm thêm những nguồn tư liệu sống động, tươi rói không có
trong sách vở hoặc có giá trị bổ sung cho sách vở, vừa có điều kiện hình

dung rõ ràng hơn một diện mạo đích thực của cổ tích mà mình phải góp
phần dựng lại - một thứ cổ tích không xơ cứng mà còn tồn tại uyển chuyển,
tự nó, như nó vẫn tồn tại từ miệng này qua miệng khác ở giữa cuộc đời.
Và đến đây, cái gia tài cổ tích của Nguyễn Đổng Chi đã có thể nói là
hoàn thành, với một sức chứa không kém phần bề bộn. Mục tiêu tiếp cận thể
loại đòi hỏi ông bước sang một giai đoạn mới trong thao tác nghiên cứu.
Hơn ai hết, ông là người hiểu rõ ý nghĩa lớn lao của tuyển tập mà ông nung
nấu trong nhiều thập kỷ. Tòa kiến trúc Kho tàng truyện cổ tích Việt-nam do
ông tạo dựng lên từ những chất liệu quý giá và đáng tin tưởng đó thực sự là
một tập đại thành của mọi ngọn nguồn cổ tích bản địa.

II- KHẢO DỊ - THAO TÁC ĐẦU TIÊN ĐEM LẠI CHO TRUYỆN
CỔ TÍCH VIỆT-NAM MỘT CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH

Vượt xa tất cả những tuyển tập sưu tầm khác, Nguyễn Đổng Chi đã
làm cho truyện cổ tích Việt-nam bội thu lên rất nhiều, nhờ cách kể chuyện
có thêm phần "khảo dị". Đây là một công việc đối chiếu rất vất vả, đòi hỏi
một sự kiên trì tìm kiếm tử công phu, nhưng kết quả của nó là mỗi một cốt
truyện thường phát hiện ra không ít những cốt truyện tương đồng mà ta gọi
là dị bản, có khi tới hàng chục, hàng vài chục dị bản khác nhau. Cách làm
thật khác với trước ông và cũng là hết sức mới mẻ đối với đương thời, một
thao tác quan trọng đưa đến cho truyện cổ tích Việt-nam một diện mạo
phong phú mới. Với công việc này Nguyễn Đổng Chi tất nhiên không đơn
thuần chỉ là người sưu tầm, tập hợp truyện cổ tích. Ông còn là người có một
nhãn quan mới trong phương pháp nhìn nhận truyện cổ tích. Đúng như
Nguyễn Đổng Chi đã nhận thấy: trên hành trình lịch sử, mỗi dân tộc đều có
một kho tàng truyện cổ tích của riêng mình, song mặt khác, cùng với những
yếu tố bản địa, sự tự sinh văn hóa trong lòng dân tộc, "vốn liếng tinh thần
quý giá ấy lại luôn luôn ánh xạ lẫn nhau trong mối quan hệ hội nhập và giao
lưu văn hóa" giữa dân tộc này và dân tộc kia. Ông nói trong lời Tổng luận:

"Theo chúng tôi, truyện cổ tích cũng như mọi sản phẩm văn hóa khác, nhất
là những sản phẩm không tên tác giả, nghĩa là những sản phẩm có xu thế
hoàn chỉnh giá trị nên quá trình lưu chuyển, sau khi xuất hiện tại một vùng
nào đấy sẽ dễ dàng được nhiều người hoàn chỉnh và trở thành tài sản chung
của cả xã hội (cái bất biến), và từ đó nó sẵn sàng vượt biên giới xứ sở để gia
nhập vào tài sản tinh thần của một dân tộc khác dù xa hay gần. Cho nên có
hiện tượng lặp đi lặp lại, hiện tượng dị bản trong truyện cổ tích " (tập V, tr.
2528)[4]. Điều đó có nghĩa là trong gia tài truyện cổ tích của mỗi dân tộc có
những cốt truyện riêng độc đáo, nhưng cũng sẽ có những cốt truyện mạng
tính chất phổ biến, những cốt truyện mà một số dân tộc khác, thậm chí hầu
hết các dân tộc trên thế giới đều có. Xuất phát từ những ghi nhận đó,
Nguyễn Đổng Chi đã thấy tính chất quốc tế là một hiện tượng nổi bật và độc
đáo của truyện cổ tích. Truyện cổ tích có khả năng di chuyển từ dân tộc này
sang dân tộc khác, từ địa phương này đến địa phương khác, vượt qua mọi
ranh giới về ngôn ngữ, về lãnh thổ của các quốc gia
Các nhà nghiên cứu truyện cổ tích thế giới từ lâu từng chú ý đến hiện
tượng này và đã từng công bố những con số thống kê đáng kinh ngạc.
Nhưng ở các nước phương Đông và nhất là ở Việt-nam thì vấn đề này hầu
như chưa được khảo sát. Và người đi tiên phong, người đầu tiên ở Việt-nam
chính là ông - Nguyễn Đổng Chi, người đã có công giới thiệu, tập hợp
những cốt truyện cổ tích của người Việt cùng với biết bao những cốt truyện
cùng kiểu có quy mô phổ biến trên toàn quốc gia và trên thế giới trong tuyển
tập Kho tàng truyện cổ tích Việt-nam.
Một mặt Nguyễn Đổng Chi sưu tập tài liệu truyện cổ tích từ ngọn
nguồn, với sự am hiểu kỹ càng và sâu rộng về lịch sử, văn hóa dân tộc Việt.
Mặt khác, ông đã vượt qua mọi sự trở ngại về ngôn ngữ, khoảng cách và
thời gian để thu nhập thêm rất nhiều cốt truyện của các dân tộc Việt-nam
khác và của phương Tây. Trong toàn bộ 5 tập Kho tàng truyện cổ tích Việt-
nam, Nguyễn Đổng Chi đã lần lượt giới thiệu với người đọc qua mỗi một cốt
truyện của người Việt là một tập hợp về các cốt truyện cổ tích, các hiện

tượng, nhân vật, các mô-típ tương đương rút ra từ truyện cổ tích của nhiều
dân tộc khác nhau. Đó là truyện cổ tích của hàng chục các dân tộc ít người ở
Việt-nam như: Ba-na (Bahnar), Cơ-ho, Hơ-rê, Khơ-me (Khmer), Chàm, Ê-
đê, Ja-rai (Djarai), Mường, Thái, Tày, Nùng, H’mông, Khơ-mú, v.v Và đó
cũng là truyện cổ tích của rất nhiều dân tộc thuộc cả 5 châu lục: Á, Âu, Phi,
Úc, Mỹ, v.v với sự hiện diện của tên gọi nhiều nước như: Nga, Anh, Pháp,
Tiệp, Bun-ga-ri, Ba-lan, Đức, Hà-lan, Thụy-sĩ, Thụy-điển, Đan-mạch, Islan,
Ý, Tây-ban-nha, An-ba-ni, Ru-ma-ni, Lat-vi, Et-tô-ni, Phần-lan, Ấn-độ,
Trung-quốc, Mông-cổ, Triều-tiên, Nhật-bản, Lào, Căm-pu-chia, Miến-điện,
Thái-lan, v.v
Bản kể có khảo dị - việc làm đó khẳng định quan niệm đúng đắn của
Nguyễn Đổng Chi về đặc trưng cũng như quy luật vận hành của loại hình cổ
tích, và cũng là thành quả cao nhất mà giới nghiên cứu vẫn luôn mong đạt
tới. Việc làm đó cũng đã phủ nhận lối sưu tầm, ghi chép kể truyện cổ tích
đơn giản, xuất hiện trong điều kiện khoa văn bản học cổ tích chưa mấy phát
triển trước đây. Do vây, Kho tàng truyện cổ tích Việt-nam cũng mở ra một
triển vọng cho khoa so sánh văn học dân gian, đem đến cho người đọc cái
nhu cầu hiểu biết sâu rộng về các cốt truyện cổ tích gần nhau, đồng thời
cũng giúp người nghiên cứu một sự tận thu các nguồn tư liệu hữu ích.

×