Sinh sản và phát triển
của Huệ biển (Crinoidea)
Thụ tinh ngoài. Trứng phát triển thành ấu trùng
đặc trưng là doliolaria dạng thuỳ có 5 vành
tiêm mao. Sau khi bám vào giá thể, ấu
trùng phân hoá thành dạng ấu trùng cystoid
gồm có đĩa trung tâm và cuống. Tiếp theo hình
thành dạng ấu trùng pentacrinus có đối xứng toả
tròn. Giai đoạn tiếp theo ở huệ biển có cuống thì
kéo dài và sống bám, còn ở huệ biển sống tự
do, tự cắt rời cuống, chuyển sang sống tự do.
Các loài huệ biển hiện sống có khoảng hơn 600
loài, trong đó có khoảng 75 loài huệ biển có
cuống và 540 loài huệ biển không có cuống.
Các loài hoá thạch tới 5.000 loài, xuất hiện từ
đầu kỷ Cambri và thịnh hành đến cuối Cacbon.
Một số loài có kích thước lớn, cuống dài tới 2
mét. Huệ biển có cuống xuất hiện trước, còn
huệ biển không có cuống xuất hiện muộn hơn
(đầu kỷ Jura).
Ở vùng biển Việt Nam có khoảng 60 loài huệ
biển. Các họ có số lượng loài nhiều hơn là
Comasteridae, Himerometridae, Mariometridae.
Các loài thường gặp là Comatula pectinata,
Comathus parvicira và Zygometra comma.
Hương Thảo
Cấu tạo cơ thể Huệ biển (Crinoidea)
Huệ biển là nhóm động vật da gai cổ nhất còn
tồn tại đến ngày nay, có khoảng 5000 loài hoá
thạch và hơn 600 loài hiện sống. Phần lớn
huệ biển sống bám với cuống dài, một số ít
sống tự do.
Ở nhóm huệ biển sống bám thì cơ thể
được chia thành 3 phần là đế bám, cuống
và cánh (gồm có đài hình đĩa và các tua dài). Đế
là phần rễ bám chắc vào giá thể. Cuống gồm có
nhiều đốt khớp lại với nhau, nhờ có hệ cơ điều
khiển nên có thể cử động được. Phần đài hình
đĩa, ở giữa đáy là tấm lưng (đĩa trung tâm) từ đó
xuất phát các tay. Huệ biển có 5 cánh tay phóng
xạ, mỗi cánh có chia đôi nhiều lần để cho số
lượng cánh tay là bội số của 5 (10, 20, 40 ).
Các tay này khớp động với đĩa trung tâm và có
thể cắt rời dễ dàng và khả năng tái sinh cao.
Trên cánh tay có 2 dãy gai, giữa các cánh tay về
phía trên là mặt miệng. Trên mặt miệng có lỗ
miệng, lỗ hậu môn và các rãnh phóng xạ tới các
cánh tay. Ở nhóm huệ biển sống tự do thì cấu
trúc cơ thể bị mất cuống, quanh tấm lưng có
nhiều cành cong xếp phóng xạ, thoạt nhìn giống
như rễ chung của cây. Hình thái và số lượng
của gai cánh, đặc điểm các tấm xương dùng để
phân loại huệ biển.
Hệ thống ống dẫn nước gồm có vòng quanh
miệng và 5 ống dẫn nước phóng xạ có nhánh
tới các gai cánh. Từ vòng ống dẫn nước quanh
miệng có nhiều (hoặc 5) ống đá mảnh treo trong
thể xoang. Thể xoang cũng liên hệ với nước
xung quanh nhờ vào hàng trăm lỗ nhỏ quanh
miệng. Phần này tương đương với tấm sàng
của các nhóm động vật da gai khác. Di chuyển
của huệ biển chủ yếu là hoạt động của các cánh
tay.
Ống tiêu hoá bắt đầu từ lỗ miệng, tới thực
quản, tiếp theo là ruột uốn cong, cuộn khúc
rồi đổ ra hậu môn nằm cùng phía với miệng. Đổ
vào ruột có các tuyến phụ đó là gan. Thức ăn
của huệ biển là các động vật bé, được tập trung
nhờ vào dòng nước theo các rãnh hướng về lỗ
miệng. Các gai miệng cũng góp phần vào việc
bắt mồi.
Hệ tuần hoàn có vòng quanh miệng là nơi tập
trung nhiều máu được gọi là cơ quan xốp. Trên
đĩa thân và thành ruột có mạch máu phát triển.
Không có hệ máu giả, thể xoang tiêu giảm chỉ
còn lại một khoang 5 ngăn xếp phóng xạ ở phía
đối miệng. Thiếu hệ hô hấp và bài tiết.
Hệ thần kinh có 2 phần xếp đối xứng nhau là
phần miệng (hệ ngoài) và phần đối miệng. Phần
miệng có vòng thần kinh quanh miệng, có 5 dây
phóng xạ nằm trong lớp biểu mô dưới rãnh
chân ống. Dây thần kinh phóng xạ có các
nhánh đi tới các gai cánh. Chú ý vị trí của hệ
thần kinh ở biểu mô là thể hiện tính chất nguyên
thuỷ của Huệ biển. Hệ thần kinh đối miệng rất
phát triển, có một khối thần kinh nằm trong
xoang 5 ngăn, từ đó có 5 dây thần kinh phóng
xạ có nhánh đi tới gai cánh. Huệ biển không có
giác quan chuyên hoá.
Hệ sinh dục có cấu tạo rất đặc trưng, phân tính.
Từ xoang 5 ngăn có cơ quan trụ hướng về phía
miệng và tận cùng là dải sinh dục. Tiếp theo là 5
dải tế bào của tuyến sinh dục hướng về 5 cánh.
Các dải tế bào này phân nhánh theo cánh tay và
kết thúc bằng các túi trong gai cánh. Các túi này
có lớp tế bào trong hình thành nên tế bào sinh
dục nên người ta coi mỗi túi là một tuyến sinh
dục. Sản phẩm sinh dục trong túi được chuyển
vào trong nước nhờ các vết nứt ở vị trí ổn định
của gai cánh.
Thảo Nguyên