Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Lich su su hoc Viet Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.75 KB, 19 trang )

CHỨNG MINH LỊCH SỬ SỬ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC? CƠ SỞ
HÌNH THÀNH VÀ SỰ RA ĐỜI SỬ HỌC Ở NƯỚC TA?
1. CHỨNG MINH LỊCH SỬ SỬ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
1.1. Khái quát khái niệm Lịch sử Sử học
1
Lịch sử sử học là lịch sử của khoa học lịch sử, là quá trình tích lũy tri thức và quá
trình hình thành của khoa học này. Các trường phái trào lưu nghiên cứu sử học.
Thuật ngữ “Lịch sử sử học” theo tiếng Nga là “История историка”; “Lịch sử
khoa học lịch sử” là “история науки история”
1.2. Các tiêu chí của một khoa học và Lịch sử sử học
Bất kì một ngành nào khi được gọi là khoa học phải có đầy đủ các tiêu chí của
nó, thiếu một trong các tiêu chí đó sẽ không được gọi là khoa học.
Khoa học Lịch sử cũng vậy cũng có các tiêu chí của nó, cụ thể ở đây Lịch sử sử
học cũng là nghành khoa học có đầy đủ các tiêu chí: Đối tượng, chức năng, phương
pháp nghiên cứu…
1.3. Đối tượng của Lịch sử sử học
Đối tượng của Lịch sử sử học là bản thân khoa học lịch sử. Khoa học lịch sử
nghiên cứu về quá khứ loài người những gì đã xảy ra trong lịch sử của xã hội loài
người kể từ khi xuất hiện nhận thức lịch sử.
Thế nhưng Lịch sử sử học lại nghiên cứu về khoa học lịch sử, nghĩa là nghành
khoa học nào cũng phải có lịch sử của nó, lịch sử phát sinh và phát triển…Cụ thể ở
đây là, Lịch sử sử học lấy việc nghiên cứu về các nhà sử học, các trường phái sử
học, các tác phẩm sử học, các cơ quan nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu, rồi
tư tưởng nghiên cứu như thế nào? Và ra làm sao?
Để hiểu rõ hơn hay làm sang tỏ vấn đề chúng tôi đi vào phân tích sự giống và
khác nhau giữa Lịch sử sử học và khoa học lịch sử. Như vậy có thể thấy rằng sự
khác nhau ở đây là đối tượng nghiên cứu của nó. Các khoa học xã hội và nhân văn
cùng một khách thể để nghiên cứu nhưng mỗi khoa học lại có đối tượng riêng nằm
1
Nguyễn Văn Biểu (viết phần đầu) hiệu đính, chỉnh sửa toàn bài
1


trong khách thể đó, là xã hội loài người từ khi xuất hiện con người cho đến nay, đó
là quá trình thống nhất nhưng đầy mâu thuẫn đa dạng và phức tạp. Nhiệm vụ của
khoa học lịch sử là khắc phục lại tất cả quá trình thống nhất đó, lấy nghiên cứu quá
khứ để phục vụ cho hiện tại.
Trong thế giới vật chất tất cả mọi sự vật hiện tượng đều có lịch sử, đó là quá
trình hình thành, phát triển và diệt vong. Bản thân khoa học cũng có lịch sử của nó,
Lịch sử sử học không nghiên cứu bản thân sự phát triển của xã hội loài người mà
nghiên cứu sự ra đời và phát trển của khoa học lịch sử, tức là Lịch sử sử học nghiên
cứu sự nhận thức lịch sử của con người, nếu không có nhận thức lịch sử thì không có
khoa học lịch sử. Nhận thức lịch sử cũng mang yếu tố tri thức nhưng không phải
những tri thức này đều là khoa học lịch sử.
Nhưng giữa Lịch sử sử học và khoa học lịch sử nó cũng có điểm giống nhau
nghĩa là mang tính giai cấp, Lịch sử sử học ở Việt nam mang tính giai cấp của nó
nghĩa là nó làm cái chức năng bảo vệ chế độ đó, cụ thể đó tính Đảng và tính Khoa
học.
Như vậy, Lịch sử sử học có cùng khách thể của nhiều ngành khoa học lịch sử,
song nó cũng có đối tượng riêng, nó cũng có quá trình nghiên cứu của nó mặc dù so
với thế giới thì sự ra đời của nó ở Việt Nam muộn hơn và còn non trẻ.
1.4. Chức năng và nhiệm vụ
Nhiệm vụ của Lịch sử sử học được quy định bởi chức năng của nó. Ở đây
ngành Lịch sử không phải chỉ đơn giản là việc liệt kê lại, hoặc tổng kết công việc
nghiên cứu, thành tựu thu được qua quá trình nghiên cứu Lịch sử của các thời đại,
mà là toàn bộ quá trình phát triển của khoa học lịch sử, thông qua việc nghiên cứu
nội dung khoa học, thành tựu, tư tưởng sử học, những vai trò đóng góp của những
nhà sử học ở những thời đại khác nhau…
Lịch sử sử học không chỉ nghiên cứu một số tác phẩm của một số nhà sử học
nổi tiếng, các cơ quan nghiên cứu lịch sử, mà toàn bộ thành tựu đạt được thông qua
2
hoạt động của nhà sử học chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, của đông đảo
nhân dân yêu thích và góp phần vào sự phát triển của khoa ọc lịch sử.

Do yêu cầu nghiên cứu lịch sử một cách toàn diện-trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, do tính chất uyên thâm ở mức độ cần thiết của những nghiên cứu lịch sử
mà lịch sử sử học có liên quan chặt chẽ với sử học, với lịch sử văn học, lịch sử văn
hóa, lịch sử tư tưởng… Do đó. Lịch sử khoa học lịch sử khong chỉ giới hạn trong
quả trình hình thành, phát triển của nền sử học thế giới, một nước, một thời đại một
giai cấp, mà còn mở rộng đến việc nghiên cứu tư tưởng xã hội, góp phàn tìm hiều sự
phát triển của xã hội trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng.
Lịch sử sử họ có nhiệm vụ khách quan và cụ thể sau đây :
Tìm hiểu tích lũy tri thức lịch sử của xã hội loài người từ thời nguyên thủy
đến ngày nay, chủ yếu từ khi khoa học lịch sử hình thành trong xã hội có giai cấp.
Những thành tựu nghiên cứu lịch sử của cả nhân loại, của mỗi dân tộc qua các
chặng đường phát triển của xã hội, gắn liền với bối cảnh, điều kiện cụ thể lịch sử xã
hội loài người, cũng như lịch sử của mỗi dân tộc, mỗi thời đại
Tác động của sử học đối với sự phát triển của xã hội nói chung, mỗi thời kì
nói riêng.
Khuynh hướng, quan điểm, tư tưởng của một nền sử học, những cuộc đấu
tranh trên lĩnh vực sử học giữa các giai cấp khác nhau, thù địch trong xã hội.
Tích lũy phương pháp sưu tầm tư liệu, nghiên cứu lịch sử có những điểm
chung cho các nền sử học, sự kế thừa và phát triển của sử học, theo vị trí quan điểm
của các nhà sử học thuộc về các thời đại, giai cấp khác nhau, có những mối quan hệ
với nhau ( đấu tranh và kế thừa).
Ghi chép cuộc đời sự nghiệp của các nhà sử học, đánh giá các công trình
nghiên cứu lịch sử tiều biểu, theo các quan điển khác nhau, đối với chúng ta là quan
điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc nghiên cứu những vấn đề chủ yếu như trên góp phần tích cực vào việc
phát triển của khoa học lịch sử, nó giúp cho các nhà sử học hiện nay và thế hệ sau
3
rút ra nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích về mặt phương pháp luận, phương
phápnghiên cứu và một số vấn đề về nội dung ( qua tìm hiểu thành tựu nghiên cứu
đã đạt được) điều này xác nhận ý kiến đúng của J. Toponski khi ông viết “ Nhiệm vụ

cơ bản của những người viết lịch sử sử học là phát hiện những quan hệ phụ thuộc,
phức tạp giữa sự phát triển của tư tưởng lịch sử và đời sống, đó là hệ thống các quan
hệ xã hội, nền vă hóa của một thời đại nhất định, những sự kiện chính trị …”
1.5. Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu lịch sử sử học
2

Như đã trình bày ở trên việc nghiên cứu, học tạp lịch sử chiu ảnh hưởng của
một tư tưởng nhát định khi tìm hiểu, đánh giá một công trình, một nền sử học. Vì
vậy phải đứng trên một quan điểm nhất định.
Là một bộ phận trong gia đình khoa học sử học, một ngành khoa học nhân
văn, việc nghiên cứu lịch sử mang tính Đảng , tính giai cấp rõ rệt. Vấn đề tính Đảng
và mối quan hệ giữa tính khoa học và tính Đảng đã được trình bày ở phương pháp
luận sử học. Với tinh thần đỏi mới hiện nay, nó càng khẳng định một cách đúng đắn.
Nghị quyết của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam khóa VII “ Về công tác lí luận
trong giai đoạn hiện tại” ( ngày 28/3/1992 ) nêu rõ cần”… kết hợp tính thống nhất,
tính khoa họ với tính Đảng, giữa khoa học với chính trị” báo cáo chính trị của ban
chấp hành Trung ương khóa VIII tại Đại hội Đại hội Đảng lần thứ IX cũng nhấn
mạnh khoa học xã hội và nhân văn phải …” cung cấp luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường nối chủ trương của Đảng” điều này có nghĩa là phải thống nhất
tính Đảng và tính khoa học. Trong mối quan hệ giữa tính khoa học và tính Đảng
trong nghiên cứu khoa học xã hội, khoa học nhân văn nói chung, trong nghiên cứu
lịch sử sử học nói riêng, càn phải coi trọng tính khoa học và không coi nhẹ tính
Đảng. Tính Đảng là cơ sở để đạt được tính khoa học.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin tư tưởng Hồ Chí Minh,
chúng ta phân tích, đấu tranh, phê phán rút ra các bài học kinh nghiệm của sử học
qua các thời đại, để tiếp thu những yếu tố tích cực, tiến bộ cho sự phát triển của sử
2
Bùi cao cường viết phần này.
4
học và phục vụ có hiệu quả sự nghiệp cách mạng hiện nay. Vì vậy chúng ta nhất trí

với ý kiến của E. M. Giu-cốp, khi ông viết rằng “ khoa học về quá khứ của nhan loại
đã và đang là chiến trường của cuộc đấu tranh tư tưởng … Lịch sử sử học có nghĩa
là môn sử học về khoa họ lịch sử, là môn có tính Đảng, nhận thức phát triển lịch sử
tư tưởng của nền tảng riêng của tư tưởng triết học và những nhu cầu xã hội . Từ đó
nhận thức được ý nghĩa lớn lao của công trình nghiên cứu lịch sử sử học, thấy được
sự xuất hiện các quan điểm sử học nhất định, phản ánh những lập trường tư tưởng
khác nhau của các lực lượng giai cấp xung đột” Điều này vẫn còn diễn ra cho nên
khi tiếp thu di sản tinh hoa văn hóa nhân loại trong đó có sử học để làm phong phú
việc nghiên cứu khoa học, khi hòa nhập vào khu vực và quốc tế, chúng ta phải giữ
đúng quan điểm tư tưởng của mình, vạn dụng một cách sáng tạo vào lĩnh vực khoa
học của mình
Những nguyên tắc, phương pháp luận Mác xít, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đạo một số
vấn đề cụ thể trong nghiên cứu học tập lịch sử.
Một là mối quan hệ giữa tài liệu sự kiện với khái quát – lí luận cũng như
nghiên cứu lịch sử việc nghiên cứu lịch sử sử học cũng dựa trên cơ sở tri thức cụ thể
về bối cảnh lịch sử xã hội, điều kiện hình thành của một nền sử học dựa vào thành
tựu cụ thể của khoa học lịch sử cụ thể của từng thời đại của mỗi nước, mỗi giai cấp
phải tìm hiểu những tác phẩm công trình lịch sử. Những tác phảm của các nhà khoa
học là vấn đề cơ bản quan trọng của của sự kiện lịch sử.
Việc nghiên cứu lịch sử phải dựa trên điều kiện khách quan; đó là tái hiện sự
kiện cũng như trong nghiên cứu khoa học lịch sử việc nghiên cứu lịch sử sử học
không thể dựa trên những tài liệu sự kiện cụ thể. Đó là những tài liệu về điều kiện
bối cảnh lịch sử cụ thể những thông tin về nhận thức lịch sử về những quy luật hình
thành và phát triển của lịch sử sử học. tên cơ sở tài liệu phải biết khái quát lí luận, sử
lí đúng đắn các sự kiện, khái quát, và lí luận chúng ta có thể sử dụng tốt phương
pháp lịch sử và phương pháp logic trong nghiên cứu.
5
Vấn đề phân kì lịch sử sử học là vấn đề trọng tâm, phải dựa trên thành tựu
nghiên cứu về phân kì trước đó thể hiện sự hình thành và pát triển của bản thân khoa
học lịch sử.

Dựa vào phan kì lịch sử thế giới và dân tộc. Bởi vì quá trình hình thành, phát
triển của của nền sử học kế tiếp nhau gắn liền với các thời kì lịch sử của dan tộc và
thế giới.
Trong việc phân kì phải xác định những mốc lớn, những sự kiện quan trọng
trong nghiên cứu lịch sử, đánh dáu sự thay đổi trong vấn đề phát triển của sử học. Vì
vậy việc phân kì lịch sử sử học không phải lúc nào cũng trùng khớp với phân kì lịch
sử mà có những nét riêng.
NHIỆM VỤ, CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
LỊCH SỬ SỬ HỌC
3
Lịch sử loài người bắt đầu từ khi con người và xã hội ra đời. Ngay từ lúc mới
xuất hiện, con người có ý thức về lịch sử của mình : nguồn gốc, tổ tiên, quê hương,
sinh hoạt….Đúng như F.Angghen đã viết :“ Lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư
duy cũng bắt đầu từ đó”. Sự nhận thức lịch sử khởi đầu là những hiểu biết đầu tiên
về con người và quá trình phát triển của xã hội rồi dần dần trở thành một khoa học –
khoa học lịch sử. Trải qua một chặng đường khá lâu để từ những tri thức đầu tiên ấy
trở thành khoa học lịch sử ( con người xuất hiện khoảng 3 – 4 triệu năm về trước và
khoa học lịch sử ra đời cho đến nay cũng khoảng trên 2000 năm). Mọi sự vật, hiện
tượng đều có lịch sử riêng, khoa học lịch sử cũng có lịch sử của mình. Đó là một
ngành nghiên cứu về môn học, được ngọi là Lịch sử khoa học lịch sử, hay như
thường gọi : Lịch sử sử học.
Muốn khẳng định lịch sử sử học có phải là một khoa học hay không thì chúng
ta phải hiểu thế nào là một khoa học và những tiêu chí để trở thành một khoa học.
Vậy khoa học là chỉ toàn bộ những kinh nghiệm hiểu biết của con người trong
cuộc sống lao động hằng ngày đạt đến trình độ khái quát hóa trừu tương hóa đi sâu
vào bản chất của sự vật nêu được quy luật vận động và đạt đến chân lý khách quan.
3
Nguyễn Thị Ngọc Anh viết phần này.
6
Một khoa học được hình thành bao giờ cũng phải có đối tượng, chức năng,

nhiệm vụ, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cụ thể tức là phải giải
quyết được vấn đề nghiên cứu ai? Nghiên cứu để làm gì? Nghiên cứu dựa trên cơ sở
nào? Và nghiên cứu như thế nào?
Để chứng minh cho lịch sử sử học là một khoa học em sẽ tìm hiểu về ba vấn
đề đó là nhiệm vụ, cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của lịch sử
sử học
1.5.1. Nhiệm vụ của lịch sử sử học
4
Nhiêm vụ của Lịch sử sử học được quy định do chức năng của nó. Ở đây,
ngành Lịch sử sử học không phải giản đơn là việc liệt kê lại hoặc tổng kết công việc
nghiên cứu, thành tựu thu được qua quá trình nghiên cứu của các thời đại, mà là toàn
bộ quá trình hình thành phát triển của khoa học lịch sử, thông qua nghiên cứu nội
dung khoa học, thành tựu, tư tưởng sử học, những vai trò, đóng góp của những nhà
sử học ở các thời đại khác nhau…
Lịch sử sử học không chỉ nghiên cứu một số tác phẩm của các nhà sử học nổi
tiếng, các cơ quan nghiên cứu lịch sử, mà toàn bộ thành tựu sử học đã đạt được
thông qua hoạt động của các nhà sử học chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, của
đông đảo nhân dân yêu thích và góp phần vào sự phát triển của khoa học lịch sử.
Do yêu cầu nghiên cứu lịch sử một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, do tính chất uyên thâm ở mức độ cần thiết của những nghiên cứu lịch sử
mà lịch sử sử học có liên quan chặt chẽ với sử học, với lịch sử văn học, lịch sử văn
hóa, lịch sử tư tưởng,….Do đó, lịch sử khoa học Lịch sử không chỉ giới hạn trong
việc nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của nền sử học thế giới, một nước,
một thời đại, một giai cấp mà còn mở rộng đến việc nghiên cứu tư tưởng xã hội, góp
phần vào việc tìm hiểu sự phát triển xã hội trên lĩnh vực văn học tư tưởng.
Lịch sử học có nhiệm vụ khách quan và cụ thể sau đây:
4
Ở đây do tôn trọng bài viết của các tác giả mà việc tập hợp chỉnh sửa chỉ ở mức độ đặc biệt cần thiết, như việc sai lỗi
chính tả, lỗi sai nghiêm trọng, người sửa vẫn tôn trọng để nguyên phần tham gia của các tác giả cùng tham gia.
7

Tìm hiểu sự tích lũy tri thức lịch sử của xã hội loài người từ thời nguyên thủy đến
ngày nay, chủ yếu từ khi khoa học lịch sử hình thành trong xã hội giai cấp.
Những thành tựu nghiêm cứu lịch sử của cả nhân loại, của mỗi dân tộc qua các
chặng đường phát triển của xã hội, gắn liền với bối cảnh điều kiện cụ thể của lịch sử
loài người, cũng như lịch sử của mỗi dân tộc, mỗi thời đại.
Tác dụng của sử học đối với sự phát triển của xã hội nói chung, mỗi thời kỳ nói
riêng.
Khuynh hướng, quan điểm, tư tưởng của một nền sử học, những cuộc đấu tranh
trên lĩnh vực sử học giữa các gia cấp khác nhau, thù địch trong xã hội.
Tích lũy phương pháp sưu tầm tư liệu, nghiên cứu lịch sử (mặt kỹ thuật nghiên
cứu) có những điểm chung cho các nền sử học, đánh giá sử học, sự kế thừa và phát
triển của sử học. Theo vị trí, quan điểm của các nhà sử học thuộc về các thời đại,
giai cấp khác nhau, có những mối quan hệ với nhau (đấu tranh và kế thừa).
Ghi chép cuộc đời sự nghiệp của các nhà sử học, đánh giá các công trình nghiên
cứu sử học tiêu biểu, theo các quan điểm khác nhau, đối với chúng ta là quan điểm
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc nghiên cưú những vấn đề chủ yếu như góp phần tích cực vào việc đẩy mạnh
và phát triển của khoa học lịch sử, nó giúp cho các nhà sử học hiện nay và thế hệ sau
rút ra nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích về mặt phương pháp luận, phương pháp
nghiên cứu và cả một số vấn đề về nội dung (qua tìm hiểu thành tựu nghiên cứu đã
đạt được ). Như J. Tôppôski đã viết “nhiệm vụ cơ bản của những người viết lịch sử
sử học là phát hiện những mối quan hệ phụ thuộc, phức tạp giữa sự phát triển của tư
tưởng lịch sử và đời sống đó là hệ thống các quan hệ xã hội nền văn hóa của một
thời đại nhất định, những sự kiện chính trị…”
1.5.2. Cơ sở phương pháp luận lịch sử sử học
Là một bộ phận trong gia đình khoa học lịch sử, một ngành khoa học nhân
văn, việc nghiên cứu lịch sử sử học mang tính Đảng và tính giai cấp rõ rệt. Tính
8
Đảng phải luôn kết hợp và thống nhất với tính khoa học, các tào liệu văn kiện của
Đảng đưa ra phải đảm bảo tính chính xác và khoa học .

Cũng như trong nghiên cứu khoa học lịch sử, việc nghiên cứu lịch sử sử học
không thể không dựa trên cơ sở tài liệu sự kiện cụ thể. Đó là những tài liệu về điều
kiện, bối cảnh lịch sử cụ thể, những thông tin về nhận thức lịch sử (qua tác phẩm, tác
giả về xã hội ) về những quy luật hình thành và phát triển của lịch sử sử học. Trên cơ
sở tài liệu và sự kiện phải tiến tới khái quát – lý luận. Không có trừu tượng hóa khái
quát hóa sẽ không có khoa học và nhà nghiên cứu và người học tập sẽ không đi sâu
được vào bản chất hiện tượng, không rút ra được các quy luật phát triển của bản thân
lịch sử sử học.
Sử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tài liệu sự-kiện và khái quát - lý luận, chúng ta mới
có thể sử dụng tốt phương pháp lịch sử và phương pháp logic trong nghiên cứu lịch
sử sử học.
1.5.3. Phương pháp nghiên cứu lịch sử sử học
Vì đối tượng của lịch sử sử học là khoa học lịch sử nên về cở bản chúng ta
phải dựa vào các phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử nói chung, được vận
dụng theo các nguyên tắc phương pháp luận về sự thống nhất giữa phương pháp lịch
sử và phương pháp logic để miêu tả khôi phục đúng bộ mặt của sử học trong điều
kiện lịch sử xã hội nhất định.
Phương pháp lịch sử là phương pháp miêu tả xem xét liệt kê những sự kiện cơ
bản những tài liệu chính xác, điển hình, đầy đủ để khôi phục được bức tranh quá khứ
của sử học đứng như nó tồn tại .
Phương pháp lôgic về cỏ bản cũng là phương pháp lịch sử, song thoát khỏi
những chi tiết vụn vặt và đi sâu vào cái bản chất, cái logic của sự phát triển, nêu rõ
tính quy luật và chi phối, tác động đến sự vận động, phát triển của sử học phản ánh
cuộc đấu tranh giữa các trường phái, giữa cái tiến bộ và cái bảo thủ trì trệ.
Mối quan hệ của hai phương pháp trên: trong hai phương pháp trên thì
phương pháp lịch sử có trước, phương pháp logic có sau và phương pháp lịch sử
9
quyết định nhưng phương pháp logic cũng tác động trở lại, hai phương pháp này
thống nhất vời nhau nhưng không đồng nhất vì phương pháp lịch sử có nhiệm vụ
khôi phục miêu tả cụ thể bức tranh quá khứ của sử học đúng như nó tồn tại thông

qua các sự kiện tài liệu chính xác còn phương pháp logic thì rút ra cái bản chất quy
luật phát triển của sử học và đạt đến trình độ lý luận khái quát.
Ngoài ra để nghiên cứu lịch sử sử học cần phải sử dụng phương pháp tiếp cận
tìm hiểu trực tiếp các tác phẩm sử học của thời đại. Nếu không đi sâu nghiên cứu các
tác phẩm, các tác giả các khuynh hướng tư tưởng văn hóa của thời đại sẽ không hiểu
hết được tính đa dạng của nền sử học. Khi tiếp xúc với các tác phẩm sử học của thời
đại khác nhau cần thiết phải có sự phê phán đấu tranh với quan điểm sai trái, phải có
thái độ khách quan khoa học. Bằng phương pháp tiếp cận chúng ta cúng có thể tìm
hiểu đôi nét lịch sử sử học qua các thời kì như: thời kì phong kiến với các bài viết
“Quan niệm về sử học và phép chép sử của ta xưa, Tri Ân, số 68, 1942” “Cách chép
sử của nhà nho” Tri Ân số 48, 1992 …;thời kì sau cách mạng tháng Tám 1945 với
nhiều tác phẩm Đào Duy Anh “Muốn tìm hiểu sử học” Minh Đức xuất bản 1950,
Viên sử học, sử học Việt Nam trên đường phát triển nxb KHXH, Hà Nội 1981…
Một số tác phẩm có liên quan đến lịch sử sử học xuất hiện những kết quả nghiên cứu
này đã đặt cơ sở cho việc xây dựng bộ môn lịch sử sử học Việt Nam: Trần Kim
Đính, Lịch Sử sử học và Đổi mới sử học tạp chí NCLS số 5, 1991.Trần Văn Giàu,
Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỉ 19 đến Cách mạng tháng Tám, nxb
KHXH 1973…
Căn cứ vào các tiêu chí trên về nhiệm vụ, cơ sở phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu cùng với đối tượng và chức năng của lịch sử sử học ta có thể khẳng
định lịch sử sử học là một khoa học.
2. CƠ SƠ HÌNH THÀNH SỬ HỌC VIỆT NAM
5
Cơ sở hình thành của một nền sử học nói chung dựa trên sự ra đời của chữ
viết, sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước và nhu cầu chép sử. Nhưng ở Việt Nam
5
Lê Thị Ảnh viết phần này
10
do hoàn cảnh lịch sử mà khi nhà nước Văn Lang – Âu Lạc ra đời, tuy có giai cấp và
nhà nước nhưng nước ta chưa có nền sử học vì chưa có nhu cầu chép sử. Nhu cầu

chép sử chỉ thực sự xuất hiện khi đất nước ta được độc lập thống nhất, để khẳng định
vị thế dân tộc, ông cha ta đã chép lại sử để truyền bá kinh nghiệm cho thế hệ sau.
Việt Nam có lịch sử hình thành lâu đời, từ rất sớm con người đã sinh sống trên
đất nước ta. Ngay từ khi mới xuất hiện con người đã có ý thức tìm hiểu về nguồn
gốc, tổ tiên, sinh hoạt đời sống trong quá khứ. Nhận thức lịch sử là một yêu cầu
trong xã hội, trong đấu tranh với tự nhiên, đấu tranh giai cấp, hiểu biết quá khứ là
điều kiện để tồn tại và phát triển.
Thời kỳ đầu khi chưa có chữ viết ý thức về nguồn gốc tổ tiên và những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta được biểu hiện thông qua hình thức văn học dân gian,
qua các câu chuyện thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, ca dao tục ngữ. Văn học dân
gian là nguồn tư liệu lịch sử quý báu. Nó phản ánh dù dưới hình thức chưa thật chính
xác, khoa học một số sự kiện nhận thức, tâm tư, nguyện vọng của con người, của
thời đại xa xưa.
Văn học dân gian đã tồn tại từ rất lâu, là sản phẩm của tư duy phản ánh những
quan điểm của tập đoàn người về bản thân mình, về những sự kiện lịch sử, về mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người.
Các câu chuyện thần thoại về Âu Cơ – Lạc Long Quân, Sơn Tinh – Thuỷ
Tinh, Thánh Gióng là những câu chuyện cổ nhất xuất hiện gần như đồng thời vào
buổi đầu dựng nước của nhân dân ta. Thông qua những truyện kể thần thoại, truyền
thuyết, cổ tích, nó khái quát những nhận thức của tổ tiên ta về nguồn gốc dân tộc, về
cuộc đấu tranh với thiên nhiên để dựng nước, về cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để
giữ nước.
Câu chuyện đầu tiên là Âu Cơ – Lạc Long Quân, Lạc Long Quân là loài rồng
còn Âu Cơ là giống tiên. Ở câu chuyện này người Trung Quốc coi thường người
Việt Nam là giống người man di mọi rợ, còn cho mình là con thượng đế. Người
11
Trung Quốc coi trọng yếu tố linh thiêng là lân và rồng. Đế chống lại tư tưởng đó
người Việt Nam đã tự coi mình là con cháu rồng tiên.
Câu chuyện Thánh Gióng ra đời thể hiện ý thức bảo vệ dân tộc và truyền
thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Thánh Gióng luôn là biểu

tượng cho tinh thần và sức mạnh của người dân nước Việt trong đấu tranh chống
giặc giữ nước.
Câu chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh ra đời thể hiện tinh thần đoàn kết trong lao
động và trong xây dựng kinh tế, đấu tranh chống lại các thế lực tự nhiên của nhân
dân ta.
Các câu ca dao, tục ngữ lưu truyền rộng rãi trong nhân dân cũng ghi lại biết
bao sự kiện của những thời đại khác nhau, như tinh thần đoàn kết chống ngoại xâm
thời Hai Bà Trưng, sự kiện Bà Triệu cưỡi voi ra trận, Trần Hưng Đạo đánh bại quân
xâm lược Nguyên – Mông, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa chống quân Minh, đời sống
nhân dân thời Lê sơ, tình cảnh đất nước bị chia cắt dưới thời Lê – Trịnh – Nguyễn,
những sự rối ren trong triều chính nhà Nguyễn.
Nhân dân ta rất nhiều người thuộc những vần thơ ca ngợi Hai Bà Trưng:
“Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận loài tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị, em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay cờ tướng quân
Ngàn Tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã tới gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên kinh thành
Đô kỳ đóng ở Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.”
Ca dao tục ngữ là tiếng nói của dân gian Việt, trải qua nhiều thời đại, từ thời
xưa và cả thời nay, ca dao tục ngữ phản ánh tâm tư, tình cảm của người dân trong
12
sinh hoạt hàng ngày. Ca dao tục ngữ có thể xem là hình thức ngôn luận của con
người thời xưa, khi xã hội chưa phát triển.
Khi Lê Lợi dấy binh chống Minh, khởi đầu vùng Thanh Hoá, sau chiếm Nghệ
An, nhân dân đã ca ngợi vùng đất tự do ấy và cổ vũ việc di dân vào vùng này:
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”.
Các biến cố lịch sử ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân nhất là loạn lạc,
chiến tranh gây cảnh điêu tàn, chết chóc, nhà tan cửa nát, nhân dân chỉ biết bày tỏ
nỗi oán thán:
“Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
…Em về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”.
Thời Pháp xâm lược nước ta, người dân không khỏi buồn lòng nhìn thế sự rối
ren:
“Đêm đêm chớp bể mưa nguồn
Hỏi người quân tử có buồn chăng ai”.
Nhất là cảnh quốc phá gia vong với một triều đại suy tàn:
“Một nhà sinh đặng ba vua
Vua còn vua mất vua thua chạy dài”.
Khai thác tư liệu lịch sử trong văn học dân gian kể cả lễ hội cổ truyền chúng
ta thấy rõ quan niệm của tổ tiên về nhận thức lịch sử, thái độ đối với con người và sự
việc. Thông qua tư liệu văn hóa dân gian chúng ta kế thừa những truyền thống văn
hóa cộng động từ lâu đời, tồn tại và phát triển trong dân gian, trong các cộng đồng
làng xã, bao gồm văn họa dân gian truyền khẩu, các tục thờ cúng (tín ngưỡng dân
gian), các lễ hội, dân ca, sân khấu dân gian (hát chèo, múa rối), phong tục tập quán,
các làng nghề truyền thống…
13
Thời kỳ Bắc thuộc nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh chống lại âm mưu
đồng hóa của chính quyền phong kiến phương Bắc. Chúng ta đã đấu tranh chống
đồng hóa trên tất cả các lĩnh vực: chống đồng hóa con người, đồng hóa phong tục,
đồng hóa lãnh thổ. Những cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong thời Bắc thuộc đã
dần dần khẳng định được nền độc lập tự chủ sau khi họ Khúc giành quyền tự chủ.
Nhận thức về lịch sử được truyền lại cho đời sau còn là một trong những biện
pháp tạo nên sức mạnh để dân tộc ta tồn tại và phát triển, vượt qua mọi sự đàn áp,

đồng hoá và cuối cùng thoát khỏi ách thống trị hàng nghìn năm của các triều đại
phong kiến phương Bắc. Dân tộc ta được giải phóng, đất nước được độc lập thì việc
xây dựng “một nước văn hiến” rất được coi trọng.Tinh thần dân tộc lâu đời nhận
thức về lịch sử của tổ tiên ta qua tài liệu văn học dân gian từ lâu đời là cơ sở quan
trọng để khi đất nước thoát khỏi ách đô của phong kiến phương Bắc và giành độc lập
đã viết nên nhiều tài liệu có giá trị.
Ngoài những nhận thức lịch sử ban đầu và nguồn tài liệu văn hóa dân gian, cơ
sở hình thành nền sử học nước ta đó là sự xuất hiện của chữ viết. Tuy nhiên dân tộc
ta có chữ viết hay không đang là vấn đề tranh luận của các nhà sử học. Khi chính
quyền phương Bắc đặt ách đô hộ trên đất nước ta, chúng ta thực hiện chính sách
đồng hóa dân tộc ta và kể từ đó chữ Hán được du nhập và được sử dụng rộng rãi ở
nước ta. Tiếng Hán được sử dụng như một phương tiện giao tiếp và giao lưu văn hóa
kinh tế với Trung Quốc.
Do Việt Nam bị ách đô hộ của phong kiến phương Bắc trong suốt hơn một
nghìn năm nên hầu hết các bài văn bia khắc trên bia đều là chữ Hán. Chúng ta có thể
thấy rằng chữ Hán có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn hóa Việt Nam xưa.
Từ sau thế kỷ X tuy Việt Nam dành độc lập nhưng tự chủ, thoát khỏi ách đô
hộ của phong kiến phương Bắc, nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục được sử
dụng là một Phuong tiện quan trọng để phát triển văn hóa.
Thế kỷ XIII dưới thời Trần chữ Nôm (loại chữ nhân dân sáng tạo vận dụng
chữ Hán để ghi tiếng nói của dân tộc) được sử dụng để sáng tác thơ văn quốc âm, rồi
14
dần tồn tại song song với chữ Hán. Khi thực dân Pháp đặt nến thống trị trên đất nước
ta chữ quốc ngữ và chữ Pháp được sử dụng thay thế chữ Hán và chữ Nôm.
Như vậy trên cơ sở hình thành nền sử học nước ta đó là dựa trên những nhận
thức ban đầu của con người về tổ tiên về nguồn gốc dân tộc thông qua những câu
chuyện truyền thuyết, thần thoại, cổ tích, dân ca tục ngữ, và trên cơ sở xuất hiện của
chữ viết. Giúp chúng ta hình dung về nguồn gốc, đời sống văn hoá của tổ tiên từ xa
xưa đồng thời có hiểu biết về quá trình hình thành và phát triển của nền sử học dân
tộc.

3. SỰ RA ĐỜI CỦA NỀN SỬ HỌC
6
Hiện nay có rất nhiều ý kiến về sự ra đời của nên sử học nước ta. Tìm hiểu
trong qua trình lịch sử chúng ta thấy cũng như mọi dân tộc khác ,trước khi có chữ
viết nhân dân Việt Nam đã thể hiện những kiến thức ,quan niệm về lịch sử dân tộc
của mình trong các câu chuyện thần thoại ,cổ tích ,truyền thuyết … Đây là những
sản phẩm của tư duy phản ánh nhưng quan niệm của tập đoàn người về bản thân
mình về những sự kiện về mối quan hệ giữ con người với con người và với tự
nhiên.
Thời Triệu Đà (270-137TCN) đã có chức Nội sử sang thế kỷ độc lập tự chủ
dưới thời nhà Lý(1010-1224) đã có it sách vở loại hiến chương như Ngọc Diệp,
Hình thư nên dưới triều Lý cũng đã có sử thần làm việc biên chép những sách
ấy.Chẳng qua vì đời xưa, sinh hoạt đơn giản, ít khi có những biến hằng xẩy ra cần
ghi chép , nên dầu có sử thần cầm bít nhung trên trang “biên niên” cũng chỉ lưa thưa
ít nét chứ lấy đâu được những bổ sử đầy đặn và to tát như đời sau. Đến thời Trần có
Trần Tấn đã đứng làm Việt Chí , tiếc rằng bộ sách này không được truyền nội dung
ra sao thì không ai được biết và trước kia cũng ít người nhắc đến.
Phần trên chúng ta đã biết được cơ sở hình thành nên sử học của nước ta . Dựa vào
những tiêu chí trên cho thấy sự phát triển về kinh tế, giáo dục, chính trị dưới thời Lý
đã đặt cơ sở, nền tảng vững chắc cho sự ra đời của nền sử học nước ta dưới triều
6
Nguyễn Thị Lan Anh viết phần này
15
Trần. Bước sang thời Trần nhờ nền tảng vững chắc thời Lý chính quyền trung ương
xây dựng quy củ, chặt chẽ hơn ,tinh thần dân tộc phát triển mạnh mẽ luôn thể hiện tư
tưởng hào khí Đông A. Nhờ sự hung mạnh đất nước nên quân và dân nhà Trần ba
lần đánh thắng quân xâm lược Mồng Nguyên . Những chiến thắng lớn của quân và
dân ta trước một đất nước hung mạnh đã củng cố tinh thần ,khẳng định vị thế quốc
gia độc lập tự chủ, Từ đó có mong muốn ghi lại lịch sử đất nước , kinh nghiệm trong
quá trình đấu tranh dựng nước.Vì vậy nhà Trần lập Quốc sử viện do Lê Văn Hưu

đứng đầu. Đây là cơ quan quốc gia chuyên lo việc sưu tầm và biên soạn lịch sử dân
tộc, nhiều nhà sử học có tiếng đã xuất hiện và Lê Văn Hưu được coi là nhà sử học
lớn đầu tiên của nước ta.
Lê Văn Hưu người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc xã Triệu Trung,
huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
Theo lời các cố lão địa phương thì đất Triệu Trung vốn là trang trại của vị tổ khai sáng dòng họ
Lê - quan Trấn quốc bộc xạ Lê Lương thời Đinh Tiên Hoàng, đến nay đã được hơn hai mươi đời.
Lê Văn Hưu là ông tổ thứ bảy của dòng họ này. Cuốn Lê thị gia phả hiện còn được bảo tồn, ghi
ông sinh năm Canh Dần (1230) là người khôi ngô tuấn tú, tư chất thông minh.
Một hôm đi ngang qua lò rèn, thấy người ta đang làm những cái dùi sắt, Lê Văn Hưu muốn xin
một cái để làm dùi đóng sách. Bác thợ rèn thấy chú bé mới tí tuổi đầu đã chăm lo việc học hành,
bèn ra một vế đối để thử tài:
Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vở.
Lê Văn Hưu liền đối:
Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên.
Bác thợ rèn ngạc nhiên khen ngợi mãi rồi tặng luôn một cái dùi thật xinh, lại kèm theo ít tiền để
mua giấy bút.
Năm Đinh Mùi, Lê Văn Hưu đi thi, đỗ Bảng Nhãn. Đây là khoa thi đầu tiên ở Việt Nam có đặt
danh hiệu tam khôi (ba người đỗ đầu: Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa). Năm ấy, ông vừa
tròn 18 tuổi.
Sau khi thi đỗ, ông được giữ chức Kiểm pháp quan (chức quan trông coi việc hình luật), rồi Binh
bộ Thượng thư, rồi Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu.
Lê Văn Hưu vâng mệnh vua Trần Thái Tông (1225-1258) đầu tiên đứng biên soạn
bộ Đại Việt Sử Ký.Đây được coi là bộ sử đầu tiên của dân tộc ta gồm 30 quyển ,sách
16
chép từ thời Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng nghĩa là từ năm 209 TCN đến năm
1224. Bộ sách được ông biên tập và hoàn thành dâng lên vua Trần Thái Tông vào
tháng giêng năm Thiệu Long thứ 15 (tức là năm 1272) và được vua khen thưởng.
Hiện nay bộ sách này không còn nữa chúng ta chỉ có thể tìm hiêủ về nó qua tác
phẩm Đại việt sủ ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Phan Phu Tiên, Pham Công Trứ. Lê

Hy thời Lê.
Vậy một câu hỏi đặt ra tại sao Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu lại được coi là bộ sử
đầu tiên của nước ta và là sự kiện đánh dấu sự ra đời của nên sử học nước ta?
Qua Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên và một số sách sử khác đã phần nào
mô phỏng lại nội dung của bộ Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu.
Về nội dung Đại Việt là bộ sử đầu tiên khắc hoạ hầu như đầy đủ diện mạo dân tộc từ
thời Triệu Đà cai trị đến thời nhà Lý măc dù chua đầy đủ và chính xác.Việc coi sự
tích các triều đại và sự việc của các triều đại là đối tượng ghi chép đã khiến cho tác
giả dẽ bị xa lầy vào việc liệt kê kể lại các sự kiện một cách vụn vặt dời dạc.Tuy
nhiên các sử gia về sau có thể dựa vào đó để chắt lọc và khai thác trên nhiều phương
diện góc cạnh khác nhau.
Về phương pháp chép sử Lê Văn Hưu đã sử dụng phương pháp biên niên, nhưng có
sự kếp hợp với biện pháp sưu tầm tài liệu thực tế, noi gương Tư Mã Thiên đi xem
phong thuỷ cac nơi. Ông cũng đã thâu lươm thêm chỉnh lý các tài liệu lịch sủ ít ra là
hình thế song núi và các địa danh co liên quan đến các sự kiện lịch sử.Những nơi
ông qua làm cho việc ghi chép lịch sử đã sinh đông hơn các tác phẩm lịch sử của
các triều đại trước.
Về quan điểm chép sử thì tuy còn bị ảnh hưởng của tư tưởng thời đại, giai cấp tác
giả cũng đã một phần đứng trên quan điểm của nhân dân , những người nghèo khổ
trong xã hội lên tiếng phê phán sự bóc lột và sự xã xỉ của bọn vua chúa và quan tâm
phần nào đến đời sống nhân dân như việc ông nói về việc Lý Thái Tổ dựng 8 cảnh
chùa ở phủ Thiên Bích. Chẳng những thế ông đã dung ngòi bút chép sử ,tác giả đã
nghiêm khắc chì trích thói ích kỷ, dâm dật và thái độ độc đoán của bọn vua quan.
17
Về mặt ý nghĩa bộ Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu đối với lịch sử Việt Nam rất
quan trọng không khác gì bộ sử ký của Tư Mã Thiên đối với lịch sử Trung Quốc , là
một bức tranh đa màu sắc nhất thể hiện được xã hội Việt Nam trong suột chiều dài
lịch sử là một tác phẩm lớn để người đời sau có thể nhìn vào đó mà thấy được mọi
mặt của lịch sủ dân tộc.
Trong bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết: "Văn Hưu là

người chép sử giỏi đời Trần, Phu Tiên là bậc cổ lão của thánh triều ta, đều vâng
chiếu biên soạn lịch sử nước nhà, tìm khắp các tài liệu còn sót lại, tập hợp thành
sách để cho người xem đời sau không có gì phải tiếc nữa, thế là được rồi
Dựa trên những cơ sở hình thành nền sử học của nước ta và những gì đã trình
bầy ở trên thì mặc dầu còn nhiều thiếu sót song Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu vẫn
là bộ sử đầu tiên của nước ta và Lê Văn Hưu là người đặt nền móng cho sự hinh
thành nền sử học dân tộc .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. Văn Tạo. Sử học và hiện thực. Nxb KHXH. 1997.
2. UB KHXH Việt Nam. Viện Sử học. Nxb KHXH Hà Nội. 1981.
18
3. Nguyễn Hồng Phong. Mấy vấn đề phương pháp luận sử học. Nxb KHXH.
1967.
4. GS. Phan Ngọc Liên - Nguyễn Ngọc Cơ (đồng chủ biên). Lịch sử sử học Việt
Nam. Nxb ĐHSP. 2003.
5. Thái Đắc Xuân. 100 sự tích và truyền thuyết hay nhất. Nxb văn hóa thông tin .
2006.
6. Nguyễn Cừ. Tuyển tập tục ngữ ca dao Việt Nam. Nxb văn học. 2001.
7. GS. TS. Phan Ngọc Liên (cb). Phương pháp luận sử học. Nxb ĐHSP. 2003.
8. GS. TS. Phan Ngọc Liên (cb). Lịch sử sử học thế giới. Nxb ĐHSP. 2006.
9. N.A. Êrôphêep. Lịch sử là gì. Nxb Giáo dục, 1981.
10. Cải cách sử học. Nxb. Viện Thông tin khoa học xã hội. 1996.
11. Phạm Quỳnh. Sử học. Nxb Quốc học thư xã. 1942.
19

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×