Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TP.HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 19 trang )

Trường: THCS Trần Quang Khải
Lớp: 9/1
BÀI 41-42-43
ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TP.HCM
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÍ, PHẠM VI LÃNH THỔ VÀ SỰ PHÂN CHIA HÀNH CHÍNH
1. Vị trí và lãnh thổ. Sự phân chia hành chính
Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn)
Thành phố trực thuộc Trung ương
Thành phố Hồ Chí Minh về đêm, nhìn từ Công trường Mê Linh về hướng bắc
.
Tọa độ: 10°45′0″B, 105°40′0″Đ
.
Quốc gia Việt Nam
Miền Đông Nam bộ
Tên khác Sài Gòn
1
Thành lập 1698 (Nguyễn Hữu Cảnh lập phủ Gia Định)
Chính quyền
– Chủ tịch UBNDLê Hoàng Quân
– Chủ tịch HĐNDPhạm Phương Thảo
– Bí thư Thành ủyLê Thanh Hải
Phân chia
hành chính
19 quận và 5 huyện
.
Diện tích 2.095 km²
Dân số 7.123.340 người
[1]
Mật độ 3.401 người/km²
.
Múi giờ G (UTC+7)


Mã bưu chính 70
Mã điện thoại 8
Bảng số xe 50 → 59
Web hochiminhcity.gov.vn
Thành Phố Hồ Chí Minh ở trung tâm của Nam Bộ, phía Tây Nam của Đông Nam Bộ, nằm
trong toạ độ địa lí khoảng: 10010’- 10038’ vĩ độ Bắc ( Củ Chi) và 106022’-106054’ kinh độ
Đông (Cần Giờ). Trung tâm thành phố cách thủ đô Hà Nội 1730 km (theo đường bộ).
Phía bắc giáp tỉnh Bình Dương.
Phía tây bắc giáp tỉnh Tây Ninh.
Phía đông bắc và đông bắc giáp tỉnh Đồng Nai.
Phía đông nam giáp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Phía tây và tây nam giáp tỉnh Long An và tỉnh Tiền Giang.
Có đường bờ biển là Cần Giờ dài 20 km
Nằm ở ngã tư quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông,
là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á. Đây là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh trong vùng
và là cửa ngõ quốc tế (Có cảng Sài Gòn, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất). Nằm trong vùng
chuyển tiếp giữa miền Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu long. Là trung tâm kinh tế, văn
hoá, du lịch, giáo dục, khoa học kĩ thuật, y tế lớn của cả nước.
Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm
20,2 % tổng sản phẩm và 27,9 % giá trị sản xuất công nghiệp của cả quốc gia. Nhờ điều kiện
tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của
Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không.
Vào năm 2007, thành phố đón khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế, tức 70 % lượng khách vào
Việt Nam. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí, Thành phố Hồ Chí Minh đều
giữ vai trò quan trọng bậc nhất.
2
Tuy vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối diện với những vấn đề của một đô thị lớn
có dân số tăng quá nhanh. Trong nội ô thành phố, đường xá trở nên quá tải, thường xuyên ùn
tắc. Hệ thống giao thông công cộng kém hiệu quả. Môi trường thành phố cũng đang bị ô
nhiễm do phương tiện giao thông, các công trường xây dựng và công nghiệp sản xuất.

Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương của
Việt Nam. Về mặt hành chính, thành phố được chia thành 19 quận và 5 huyện. Toàn thành phố
có 322 đơn vị hành chính cấp xã, phường, trong đó các huyện ngoại thành chiếm 63 xã
[25]
. Với
tổng diện tích 2.095,01 km², năm 2007 thành phố có dân số 6.650.942 người (theo điều tra dân
số 01/04/2009 dân số thành phố là 7.123.340 người (chiếm 8,30% dân số Việt Nam), mật độ
3.401 người/km²), mật độ trung bình 3.175 người/km². Tuy nhiên nếu tính những người cư trú
không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 8 triệu người.Lượng dân cư này tập
trung chủ yếu trong nội thành, gồm 5.564.975 người, mật độ lên tới 11.265 người/km². Trong
khi đó các huyện ngoại thành chỉ có 1.085.967 người, đạt 678 người/km²
[
. Nếu so với Hà Nội
(trước khi mở rộng năm 2008), khoảng 3,4 triệu người vào năm 2007
[26]
, Thành phố Hồ Chí
Minh có quy mô dân số lớn hơn rất nhiều.
Đơn vị hành chính: Có 24 quận huyện (Quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Tân Bình,
Tân Phú, Nhà Bè, Bình Chánh, Bình Tân, Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Thủ Đức, Hóc
Môn, Củ Chi, Cần Giờ)
2. Lịch sử hình thành
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm
kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền
Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, Thành phố Hồ Chí Minh hình thành nhờ công
cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia
Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Khi người Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc
khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành
một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông hay
Paris Phương Đông. Sài Gòn là thủ đô của Liên Bang Đông Dương giai đoạn 1887-1901. Năm
1954, Sài Gòn trở thành thủ đô của Việt Nam Cộng hòa và thành phố hoa lệ này trở thành một

trong những đô thị quan trọng của vùng Đông Nam Á. Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975,
lãnh thổ Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam
thống nhất quyết định đổi tên Sài Gòn thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên vị Chủ tịch
nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Quá trình hình thành: Thành Phố Hồ Chí Minh có tên gọi đầu tiên là Sài Côn, tiếng người
dân địa phương quen gọi Thầy Gòn thuộc phủ Gia Định (1698). Năm 1970 Sài Côn được đổi
tên là thành Gia Định và được xây dựng theo mô hình bát quái, lớn nhất ở phía Nam. Năm
1959 Pháp, thành Gia Định thất thủ. Hoà ước năm 1862, buộc triều đình Huế nhượng ba tỉnh
miền Đông Nam Bộ cho Pháp là: Biên Hoà, Gia Định và Định Tường. Thành Gia Định vừa là
tỉnh lị của phủ Tân Bình, vừa là huyện lị huyện Bình Dương, còn Chợ Lớn là huyện lị huyện
tân long, cũng thuộc phủ Tân Bình.
Nhờ vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên thuận lợi, việc buôn bán ở thành Gia Định ngày
càng phát đạt. Cũng trong năm 1862, cảng Sài Gòn được thành lập để tiếp nhận các thuyền
buôn của người phương Tây và các nước lân cận. Sài Gòn được các nhà buôn các nước
phương Tây gọi với cái tên mĩ miều “ Hòn ngọc Viễn Đông”.
Sài Gòn trở thành đô thị lớn nhất Đông Dương với hàng loạt công trình lớn được xây
dựng theo kiến trúc phương Tây. Đầu thế kỉ XX Chợ Lớn sáp nhập vào Sài Gòn.
Chiến thắng 30/4/1975 lịch sử đã chấm dứt 118 năm ách thống trị của thực dân, đế quốc, Sài
Gòn dược giải phóng, đất nước thống nhất.
Ngày 2-7-1976, Quốc hội khoá VI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính
3
thức đổi tên thành phố Sài Gòn là Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nay, Thành phố Hồ Chí
Minh là trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học-kĩ thuật lớn của nước ta.
II. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
1. Địa hình,vị trí
Thành phố Hồ Chí Minh có tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông, phía
Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng
Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền
Giang. Nằm ở miền Nam Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo
đường bộ, trung tâm thành phố cách cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị

trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông
quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn là
một cửa ngõ quốc tế
[2]
.
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, địa
hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Vùng cao nằm ở phía Bắc -
Đông Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến 25 mét. Xen kẽ có một số gò đồi, cao nhất
lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở quận 9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía Nam - Tây
Nam và Ðông Nam thành phố, có độ cao trung bình trên dưới 1 mét, nơi thấp nhất 0,5 mét.
Các khu vực trung tâm, một phần các quận Thủ Đức, quận 2, toàn bộ huyện Hóc Môn và quận
12 có độ cao trung bình, khoảng 5 tới 10 mét
[3]
.
2. Khí hậu, thời tiết
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, Thành phố Hồ Chí Mình có nhiệt độ cao
đều trong năm và hai mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11,
còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Trung bình, Thành phố Hồ Chí Minh có 160 tới
270 giờ nắng một tháng, nhiệt đó trung bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp nhất xuống
13,8 °C. Hàng năm, thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới 28 °C. Lượng mưa trung
bình của thành phố đạt 1.949 mm/năm, trong đó năm 1908 đạt cao nhất 2.718 mm, thấp nhất
xuống 1.392 mm vào năm 1958. Một năm, ở thành phố có trung bình 159 ngày mưa, tập trung
nhiều nhất vào các thàng từ 5 tới 11, chiếm khoảng 90%, đặc biệt hai tháng 6 và 9. Trên phạm
vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố không đều, khuynh hướng tăng theo trục Tây
Nam – Ðông Bắc. Các quận nội thành và các huyện phía Bắc có lượng mưa cao hơn khu vực
còn lại
[6]
.
Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây – Tây
Nam và Bắc – Ðông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s,

vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Ðông Bắc từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa
khô. Ngoài ra còn có gió tín phong theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới
tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão.
Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa, 80%, và xuống
thấp vào mùa không, 74,5%. Trung bình, độ ẩm không khí đạt bình quân/năm 79,5%
[6]
.
Khí hậu bình quân của Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Trung bình cao °C (°F)
32
(90)
33
(91)
34
(93)
34
(93)
33
(91)
32
(90)
31
(88)
32
(90)
31
(88)
31
(88)

30
(86)
31 (88)
Trung bình thấp °C (°F)
21
(70)
22
(72)
23
(73)
24
(75)
25
(77)
24
(75)
25
(77)
24
(75)
23
(73)
23
(73)
22
(72)
22 (72)
4
Lượng mưa mm (inch)
14

(0.6)
4 (0.2)
12
(0.5)
42
(1.7)
220
(8.7)
331
(13)
313
(12.3)
267
(10.5)
334
(13.1)
268
(10.6)
115
(4.5)
56 (2.2)
Nguồn: Đại sứ quán Việt Nam tại London
[7]
26 tháng 2 năm 2008.
3. Thủy văn, thổ nhưỡng
Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm chủ yếu là hai tướng trầm tích Pleistocen
và Holocen lộ ra trên bề mặt. Trầm tích Pleistocen chiếm hầu hết phần Bắc, Tây Bắc và Đông
Bắc thành phố. Dưới tác động của các yếu tố tự nhiên và hoạt động của con người, trầm tích
phù sa cổ hình thành nhóm đất đặc trưng riêng: đất xám. Với hơn 45 nghìn hecta, tức khoảng
23,4 % diện tích thành phố, đất xám ở Thành phố Hồ Chí Minh có ba loại: đất xám cao, đất

xám có tầng loang lổ đỏ vàng và hiếm hơn là đất xám gley. Trầm tích Holocen ở Thành phố
Hồ Chí Minh có nhiều nguồn gốc: biển, vũng vịnh, sông biển, bãi bồi hình thành nhiều loại
đất khác nhau: nhóm đất phù sa biển với 15.100 ha, nhóm đất phèn với 40.800 ha và đất phèn
mặn với 45.500 ha. Ngoài ra còn có một diện tích khoảng hơn 400 ha là "giồng" cát gần biển
và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò
[4]
.
Về thủy văn, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí
Minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất đa dạng. Sông Ðồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên
Lâm Viên, hợp lưu bởi nhiều sông khác, có lưu vực lớn, khoảng 45.000 km². Với lưu lượng
bình quân 20–500 m³/s, hàng năm cung cấp 15 tỷ m³ nước, sông Đồng Nai trở thành nguồn
nước ngọt chính của thành phố. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy qua Thủ
Dầu Một đến Thành phố Hồ Chí Minh, với chiều dài 200 km và chảy dọc trên địa phận thành
phố dài 80 km. Sông Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m³/s, bề rộng tại thành
phố khoảng 225 m đến 370 m, độ sâu tới 20 m. Nhờ hệ thống kênh Rạch Chiếc, hai con sông
Đồng Nai và Sài Gòn nối thông ở phần nội thành mở rộng. Một con sông nữa của Thành phố
Hồ Chí Minh là sông Nhà Bè, hình thành ở nơi hợp lưu hai sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy
ra biển Đông bởi hai ngả chính Soài Rạp và Gành Rái. Trong đó, ngả Gành Rái chính là
đường thủy chính cho tàu ra vào bến cảng Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, Thành phố Hồ
Chí Minh còn có một hệ thống kênh rạch chằng chịt: Láng The, Bàu Nông, rạch Tra, Bến Cát,
An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hũ,
Kênh Ðôi Hệ thống sông, kênh rạch giúp Thành phố Hồ Chí Minh trong việc tưới tiêu,
nhưng do chịu ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Ðông, thủy triều thâm nhập sâu đã
gây nên những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu
vực nội thành
[5]
.
Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực phía Bắc Thành phố Hồ Chí Minh có được lượng nước
ngầm khá phong phú. Nhưng về phía Nam, trên trầm tích Holocen, nước ngầm thường bị
nhiễm phèn, nhiễm mặn. Khu vực nội thành cũ có lượng nước ngầm đáng kể, tuy chất lượng

không thực sự tốt, vẫn được khai thác chủ yếu ở ba tầng: 0–20 m, 60–90 m và 170–200 m
(tầng trầm tích Miocen). Tại Quận 12, các huyện Hóc Môn và Củ Chi, chất lượng nước tốt, trữ
lượng dồi dào, thường được khai thác ở tầng 60–90 m, trở thành nguồn nước bổ sung quan
trọng.
[5]
4. Tài nguyên sinh vật
Thành phố Hồ Chí Minh có một khu vườn ngập mặn tại Cần Giờ nơi đây cũng chính là nơi
cư trú của nhiều loại động-thực vật khác (còn gọi là đảo khỉ) với hệ sinh thái đa dạng nơi đây
đang dần trở thành khu du lịch sinh thái kết hợp du lịch biền.
III. DÂN CƯ VÀ LAO ĐỘNG
5
1. Dân cư
Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 Thành phố Hồ Chí Minh có dân số
7.123.340 người, gồm 1.812.086 hộ dân, bình quân 3,93 người/hộ. Phân theo giới tính: Nam
có 3.425.925 người chiếm 48,1%, nữ có 3.697.415 người chiếm 51,9% . Dân số thành phố
tăng nhanh, trong 10 năm từ 1999-2009 dân số thành phố tăng thêm 2,086.185 người, bính
quân tăng gần 209.000 người/năm, tốc độ tăng 3,53%/năm, chiếm 22% số dân tăng thêm của
cả nước trong vòng 10 năm. Quận Bình Tân có dân số lớn nhất với 572.796 người, tương
đương với dân số một số tỉnh như: Quảng Trị, Ninh Thuận; huyện Cần Giờ có dân số thấp
nhất với 68.213 người. Không chỉ là thành phố đông dân nhất Việt Nam, quy mô dân số của
Thành phố Hồ Chí Minh còn hơn phần lớn các thủ đô ở châu Âu ngoại trừ Moscow và
London. Theo số liệu thống kê năm 2004, 85,24% dân cư sống trong khu vực thành thị và
Thành phố Hồ Chí Minh cũng có gần một phần năm là dân nhập cư từ các tỉnh khác. Cơ cấu
dân tộc, người Kinh chiếm 92,91% dân số thành phố, tiếp theo tới người Hoa với 6,69%, còn
lại là các dân tộc Chăm, Khmer Những người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh cư trú ở khắp
các quận, huyện, nhưng tập trung nhiều nhất tại Quận 5, 6, 8, 10, 11 và có những đóng góp
đáng kể cho nền kinh tế thành phố.
Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều, ngay cả các quận nội ô.
Trong khi các quận 3, 4, 5 hay 10, 11 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km² thì các quận 2,
9, 12 chỉ khoảng 2.000 tới 6.000 người/km². Ở các huyện ngoại thành, mật độ dân số rất thấp,

như Cần Giờ chỉ có 96 người/km². Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên
1,07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 1,9%. Theo ước tính năm 2005, trung bình mỗi ngày có
khoảng 1 triệu khách vãng lai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010, có số này còn có
thể tăng lên tới 2 triệu.
Mặc dù Thành phố Hồ Chí Minh có thu nhập bình quân đầu người rất cao so với mức bình
quân của cả Việt Nam, nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày các lớn do những tác động của
nền kinh tế thị trường. Những người hoạt động trong lĩnh vực thương mại cao hơn nhiều so
với ngành sản xuất. Sự khác biệt xã hội vẫn còn thể hiện rõ giữa các quận nội ô so với các
huyện ở ngoại thành.
Có 36 dân tộc: Kinh, Khmer, Nùng, Thái, Hông, Gia-rai, Ê Đê, Xơ-đăng, Cơho, Hrê,
Xiêng, Mnông, Gié Triêng, Co, Kháng, Phù Lá, Chứt, Brâu, Hoa, Chăm, Tày, Mường, Dao,
Ngái, Ba Na, Sán Chay, Sán Dìu, Raglai, Thổ, Giáy, Mạ, Chu-ru, Xinh-mun, Lào, La Hủ, Si
La và người nước ngoài. Đông nhất là người Kinh (chiếm gần 80% dân số), tiếp đó là người
Hoa (gần 10% dân số). Có dân tộc có số dân ít là Si La, Gié Triêng.
Tôn giáo chính: Phật giáo, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài, đạo Tin Lành.
2. Y tế
Thành phố Hồ Chí Minh, với dân số đông, mật độ cao trong nội thành, cộng thêm một
lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về y tế và chăm sóc sức khỏe. Các tệ nạn xã
hội, như mại dâm, ma túy, tình trạng ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe
dân cư thành phố. Những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát triển như sốt rét,
sốt xuất huyết, tả, thương hàn hay các bệnh của những quốc gia công nghiệp phát triển, như
tim mạch, tăng huyết áp, ung thư, tâm thần, bệnh nghề nghiệp đều xuất hiện ở Thành phố Hồ
Chí Minh. Tuổi thọ trung bình của nam giới ở thành phố là 71,19, con số ở nữ giới là 75,00.
Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 21.780 nhân viên y tế, trong đó có 3.399 bác
sĩ. Tỷ lệ bác sĩ đạt 5.45 trên 10 nghìn dân, giảm so với con số 7.31 của năm 2002. Toàn thành
phố có 19.442 giường bệnh, 56 bệnh viện, 317 trạm y tế và 5 nhà hộ sinh. Thế nhưng mạng
6
lưới bệnh viện chưa được phân bổ hợp lý, tập trung chủ yếu trong nội ô. Theo con số năm
1994, chỉ riêng Quận 5 có tới 13 bệnh viện với 5.290 giường, chiếm 37% số giường bệnh toàn
thành phố. Bù lại, hệ thống y tế cộng đồng tương đối hoàn chỉnh, tất cả các xã, phường đều có

trạm y tế. Bên cạnh hệ thống nhà nước, thành phố cũng có 2.303 cơ sở y tế tư nhân và 1.472
cơ sở dược tư nhân, góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn. Cũng tương tự hệ thống y tế
nhà nước, các cơ sở này tập trung chủ yếu trong nội ô và việc đảm bảo các nguyên tắc chuyên
môn chưa được chặt chẽ.
Sở Y tế thành phố hiện nay quản lý 8 bệnh viện đa khoa và 20 bệnh viện chuyên khoa.
Nhiều bệnh viện của thành phố đã liên doanh với nước ngoài để tăng chất lượng phục vụ
3. Giáo dục
Về mặt hành chính, Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh chỉ quản lý các cở sở giáo dục
từ bậc mầm non tới phổ thông. Các trường đại học, cao đẳng phần lớn thuộc Bộ Giáo dục và
Đào tạo Việt Nam. Trong năm học 2008–2009, toàn thành phố có 638 cơ sở giáo dục mầm
non, 467 trường cấp I, 239 trường cấp II, 81 trường cấp III và 55 trường cấp II, III. Ngoài ra,
theo con số từ 1994, Thành phố Hồ Chí Minh còn có 20 trung tâm xóa mù chữ, 139 trung tâm
tin học, ngoại ngữ và 12 cơ sở giáo dục đặc biệt. Tổng cộng 1.308 cơ sở giáo dục của thành
phố có 1.169 cơ sở công lập và bán công, còn lại là các cơ sở dân lập, tư thục.
Hệ thống các trường từ bậc mầm non tới trung học trải đều khắp thành phố. Trong khi đó,
những cơ sở xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tập trung chủ yếu vào bốn huyện ngoại thành Củ
Chi, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ. Các trường ngoại ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh không
chỉ giảng dạy những ngôn ngữ phổ biến mà còn một trường dạy quốc tế ngữ, một trường dạy
Hán Nôm, bốn trường dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
cũng có 40 trường quốc tế do các lãnh sự quán, công ty giáo dục đầu tư.
Giáo dục bậc đại học, trên địa bàn thành phố có trên 80 trường, đa số do Bộ Giáo dục và
Đào tạo quản lý, trong đó chỉ có 2 trường đại học công lập (đại học Sài Gòn và đại học Y khoa
Phạm Ngọc Thạch) do thành phố quản lý. Là thành phố lớn nhất Việt Nam, Thành phố Hồ Chí
Minh cũng là trung tâm giáo dục bậc đại học lớn bậc nhất, cùng với Hà Nội. Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh với năm đại học thành viên. Nhiều đại học lớn khác của thành phố
như Đại học Kiến trúc, Đại học Y Dược, Đại học Ngân hàng, Đại học Luật, Đại học Bách
khoa, Đại học Kinh tế đều là các đại học quan trọng của Việt Nam. Trong số học sinh, sinh
viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng của thành phố, 40% đến từ các tỉnh khác
của quốc gia.
Mặc dù đạt được những bước tiến quan trọng trong thời gian gần đây nhưng giáo dục

Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Trình độ dân trí chưa cao và chênh lệch
giữa các thành phần dân cư, đặc biệt là ngoại ô so với nội ô. Tỷ lệ trẻ em người Hoa không
biết chữ vẫn còn nhiều, gấp 13 lần trẻ em người Kinh. Giáo dục đào tạo vẫn chưa tương xứng
với nhu cầu của xã hội. Hệ thống cơ sở vật chất ngành giáo dục thành phố còn kém. Nhiều
trường học sinh phải học ba ca. Thu nhập của giáo viên chưa cao, đặc biệt ở các huyện ngoại
thành.
4. Giao thông vận tải
Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao
thông quan trọng của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Khác với Hà Nội, vận tải thủy ở
Thành phố Hồ Chí Minh chiếm một tỷ lệ quan trọng. Tính riêng vận tải hàng hóa, đường biển
chiếm khoảng 29% và đường sông khoảng chiếm 20% tổng khối lượng thông qua đầu mối
thành phố. Đường bộ chỉ chiếm 44% vận tại hàng hóa nhưng chiếm tới 85,6% vận tải hành
7
khách. Về giao thông đường không, Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là phi trường lớn nhất Việt
Nam về cả diện tích và công suất nhà ga. Năm 2006, vận tải thành phố đã vận chuyển tổng
cộng 73.743 tấn hàng hóa, 239 triệu lượt người và bốc xếp 44.341 tấn hàng. Toàn thành phố
hiện nay có khoảng 340.000 xe hơi và 3,5 triệu xe máy, gần gấp đôi so với Hà Nội.
Giao thông đường sắt của thành phố gồm tuyến nội ô và khu vực phụ cận - do Xí nghiệp
Liên hiệp đường sắt 3 quản lý, tuyến Bắc - Nam và một vài đoạn đường chuyên dụng, hiện
hầu như đã ngưng khai thác. Trong thành phố có hai nhà ga chính: Sóng Thần và Sài Gòn.
Bên cạnh đó còn có một số nhà ga nhỏ như Dĩ An, Thủ Đức, Bình Triệu, Gò Vấp. Do mạng
lưới đường sắt không được nối trực tiếp với các cảng, cơ sở đã cũ kỹ nên giao thông đường sắt
Thành phố Hồ Chí Minh không phát triển, chỉ chiếm khoảng 6% khối lượng hàng hóa và 0,6%
khối lượng hành khách
[52]
.
Giao thông đường bộ, thành phố có 6 bến xe khách liên tỉnh được phân bố ở các cửa ngõ
ra vào: Miền Đông, Văn Thánh, Miền Tây, Chợ Lớn, Tân Bình - Tây Ninh, Ký Thủ Ôn. Mạng
lưới khả năng tiếp nhận trên 1.200 xe/ngày, vận chuyển gần 41.000 khách/ngày đi các tỉnh
Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Cũng theo số liệu từ

1994, tổng lượng hành khách liên tỉnh qua thành phố khoảng 106,4 triệu lượt người/năm,
nhiều nhất qua quốc lộ 1A.
Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có bốn cảng biển chính: Sài Gòn, Bến Nghé, Nhà Bè,
Tân Cảng cùng các cảng sông Bình Đông, Tân Thuận, Tôn Thất Thuyết, Bình Lợi, Bình
Phước Ngoài ra còn có khoảng 50 bến đò phục vụ giao thông hành khách. Cảng Sài Gòn là
một trong những cảng lớn nhất Việt Nam, chiếm 25% trong tổng khối lượng hàng hóa thông
qua các cảng biển cả nước. Cảng Bến Nghé nằm phía hạ lưu sông Sài Gòn, rộng 32 ha, tổng
chiều dài cầu cảng 528 m, có thể cho tàu có tải trọng từ 15.000 - 20.000 tấn cập bến. Tuy năng
lực của các cảng của Thành phố Hồ Chí Minh lớn nhưng việc chuyển tiếp giữa giao thông
đường bộ, đường biển và đường sông gặp khó khăn. Tại hầu hết các cảng đường sông, do thiết
bị thiếu, vẫn phải bốc dỡ thủ công.
Giao thông trong nội ô, do tốc độ tăng dân số nhanh, quy hoạch yếu, hệ thống đường xá
nhỏ khiến thành phố luôn phải đối mặt với vấn đề ùn tắc. Thành phố có 239 cây cầu nhưng
phần lớn chiều rộng nhỏ hơn chiều rộng của đường nên gây khó khăn cho các phương tiện
giao thông. Không những thế, một phần các cây cầu có trọng tải thấp hay đang trọng tình trạng
xuống cấp. Tại các huyện ngoại thành, hệ thống đường vẫn phần nhiều là đường đất đá. Trong
khi đó, hệ thống đường trải nhựa còn lại cũng trở nên quá tải, cần sửa chữa. Để giải quyết vấn
đề giao thông đô thị, Thành phố Hồ Chí Minh đang đầu tư cho hệ thống giao thông công cộng.
Hiện nay thành phố có 3.250 xe buýt và 8.000 xe taxi, mỗi năm chỉ đáp ứng khoảng 6,2% nhu
cầu đi lại. Hệ thống xe buýt chưa đem lại hiệu quả cao, 65% tuyến trùng lặp. Cùng mạng lưới
xe buýt, dự án tàu điện ngầm Thành phố Hồ Chí Minh cũng được đang tiến hành. Theo dự
kiến, thành phố sẽ có bốn tuyến, tổng chiều dài 54 km, 6 đường ray và 22 nhà ga. Cuối 2010,
hai tuyến đầu tiên sẽ đi vào hoạt động.
5. Du lịch
Trong khoảng 4,3 triệu khách quốc tế đến Việt Nam vào năm 2007, 3 triệu khách đã tới
thăm Thành phố Hồ Chí Minh, tức khoảng 70%. Năm 2007 cũng là năm thành phố có được
bước tiến mạnh mẽ, lượng khách tăng khoảng 12% so với 2006, doanh thu ngành du lịch đạt
19.500 tỷ VND, tăng 20%. Là một thành phố trẻ chỉ với 300 năm lịch sử, nhưng Thành phố
Hồ Chí Minh đã xây dựng được không ít công trình kiến trúc và sở hữu một nền văn hóa đa
dạng.

8
Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh có 641 khách sạn với 17.646 phòng. Phục vụ những
khách cao cấp, thành phố có 11 khách sạn 5 sao, gồm: Caravelle, Sheraton, Moevenpick
(Omni cũ), New World, Equatorial, Legend, Renaissance Riverside, Windsor Plaza, Sofitel
Plaza, Park Hyatt, Majestic với tổng cộng 3.592 phòng. Hầu hết các khách sạn này đều do
những tập đoàn quốc tế như Accor, Furama, Mariot hay Shareton quản lý và tập trung nhiều
nhất tại Quận 1. Bên cạnh đó thành phố còn 8 khách sạn 4 sao với 1.281 phòng, 20 khách sạn
3 sao với 1.621 phòng. Do sự phát triển của du lịch, số phòng cao cấp tại thành phố hiện đang
thiếu trầm trọng. Mặc dù nhiều nhà đầu tư có ý định xây dựng tiếp các khách sạn sạng trọng
tại Thành phố Hồ Chí Minh nhưng họ lại gặp khó khăn trong việc tìm địa điểm. Theo dự kiến,
đến năm 2020, thành phố sẽ có thêm 10 nghìn phòng 4 hoặc 5 sao.
Các địa điểm du lịch của thành phố tương đối đa dạng. Với hệ thống 11 viện bảo tàng, chủ
yếu về đề tài lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu Việt Nam về số lượng bảo tàng. Bảo
tàng lớn nhất và cổ nhất thành phố là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam với 30 nghìn hiện vật. Trong
khi phần lớn khách thăm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh là người nước ngoài thì bảo tàng thu
hút nhiều khách nội địa nhất là Bảo tàng Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một
đô thị đa dạng về tôn giáo. Trên địa phận thành phố hiện nay có hơn một nghìn ngôi chùa,
đình, miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ. Còn các nhà thờ xuất hiện chủ yếu trong thế kỷ
19 theo các phong cách Roman, Gothic. Nhà thờ lớn và nổi tiếng nhất của thành phố là nhà
thờ Đức Bà, nằm ở Quận 1, hoàn thành năm 1880. Thời kỳ thuộc địa đã để lại cho thành phố
nhiều công trình kiến trúc quan trọng, như Trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố, Nhà hát lớn,
Bưu điện trung tâm, Bến Nhà Rồng Dinh Độc Lập và Thư viện Khoa học Tổng hợp được
xây dựng dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Kiến trúc hiện đại ghi dấu ấn ở thành phố bằng các
cao ốc, khách sạn, trung tâm thương mại như Diamond Plaza, Saigon Trade Centre Khu vực
ngoài trung tâm, Địa đạo Củ Chi, Rừng ngập mặn Cần Giờ, Vườn cò Thủ Đức cũng là những
địa điểm du lịch quan trọng.
Thành phố Hồ Chí Minh còn là một trung tâm mua sắm và giải trí. Bên cạnh các phòng trà
ca nhạc, quán bar, vũ trường, sân khấu, thành phố có khá nhiều khu vui chơi như Công viên
Đầm Sen, Suối Tiên, Thảo Cầm Viên. Các khu mua sắm, như Chợ Bến Thành, Diamond
Plaza hệ thống các nhà hàng, quán ăn cũng là một thế mạnh của du lịch thành phố.

6. Văn hóa
Truyền thông :
Là một trong hai trung tâm truyền thông của Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay có 38 đơn vị báo chí thành phố và 113 văn phòng đại diện báo chí trung ương và các tỉnh,
3 nhà xuất bản của thành phố và 21 chi nhánh nhà xuất bản trung ương cùng mạng lưới thông
tấn xã, các đài phát thanh, truyền hình địa phương và trung ương. Tổng cộng, trên địa bàn
thành phố hiện nay có trên một nghìn người hoạt động trong lĩnh vực báo chí
[67]
.
Trong lĩnh vực xuất bản, từ năm 1995 tới nay, ba nhà xuất bản của thành phố chiếm
1/7 số đầu sách xuất bản của cả Việt Nam. Ước tính khoảng 60 đến 70% số lượng sách của cả
nước được phát hành tại Thành phố Hồ Chí Minh
[67]
. Những năm gần đây, nhiều trung tâm
sách, cửa hàng sách hiện đại xuất hiện. Sài Gòn cũng là nơi ra đời tờ Gia Định báo, tờ báo
quốc ngữ đầu tiên. Sài Gòn giải phóng, Thanh Niên, Tuổi Trẻ nằm trong số những tờ báo lớn
nhất Việt Nam hiện nay. Ngoài ra còn có thể kể đến những báo và tạp chí lớn khác như Công
an thành phố, Người lao động, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Thời trang, Thế giới mới, Kiến thức
ngày nay Ngoài báo chí tiếng Việt, Thành phố Hồ Chí Minh còn có Saigon Times daily,
Thanhniennews bằng tiếng Anh, một ấn bản Sài Gòn giải phóng bằng tiếng Hoa.
9
Truyền hình đã xuất hiện tại Sài Gòn từ trước năm 1975, khi miền Bắc còn đang trong giai
đoạn thử nghiệm. Ngay sau ngày chính quyền miền Nam sụp đổ, Đài truyền hình Giải phóng
đã bắt đầu phát sóng. Đến nay, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh – HTV trở thành đài
truyền hình địa phương quan trọng bậc nhất Việt Nam. Ngoài sáu kênh phát trên sóng
analogue, HTV còn một số kênh truyền hình kỹ thuật số và truyền hình cáp. Đối tượng chính
của HTV là dân cư thành phố và một số tỉnh lân cận.
Thể dục thể thao:
Theo số liệu thống kê vào năm 1994, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có 492,7 hecta
dành cho hoạt động thể thao, tức trung bình 1,02 m²/người, trong đó nội thành là 0,26

m²/người. Với sự gia tăng dân số, con số thực tế hiện nay thấp hơn
[68]
. Vào năm 2005, toàn
thành phố có 91 sân bóng đá, 86 bể bơi, 256 phòng tập thể thao
[69]
. Sân vận động lớn nhất
thành phố hiện nay là sân Thống Nhất, với 25 nghìn chỗ ngồi. Sân vận động lớn thứ hai là sân
Quân khu 7, nằm ở quận Tân Bình. Không chỉ dành cho thi đấu thể thao, đây còn là địa điểm
tổ chức nhiều chương trình ca nhạc quy mô lớn. Một địa điểm thể thao quan trọng khác của
thành phố là Trường đua Phú Thọ. Xuất hiện từ thời thuộc địa, Trường đua Phú Thọ hiện nay
là trường đua ngựa duy nhất của Việt Nam. Sở Thể dục - Thể thao thành phố cũng quản lý
một số câu lạc bộ như Phan Đình Phùng, Thanh Đa, Yết Kiêu.
Thành phố Hồ Chí Minh cũng có những câu lạc bộ thể thao giàu thành tích. Môn bóng đá,
Câu lạc Thép Miền Nam - Cảng Sài Gòn, có sân nhà là sân Thống Nhất, từng từng 4 lần vô
định V League. Đội Công an Thành phố cũng từng một lần vô địch vào năm 1995. Các bộ
môn thể thao khác có thể kể đến Câu lạc bộ Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh môn bóng
chuyền, các câu lạc bộ bóng rổ, cờ, điền kinh, bóng bàn của thành phố.
Trung tâm văn hóa-giải trí:
Những lý do lịch sử và địa lý đã khiến Sài Gòn luôn là một thành phố đa dạng về văn
hóa. Ngay từ giai đoạn thành lập, dân cư của Sài Gòn đã thuộc nhiều dân tộc khác nhau: Kinh,
Hoa, Chăm Thời kỳ thuộc địa rồi chiến tranh Việt Nam, Sài Gòn hấp thụ thêm nền văn hóa
Âu Mỹ. Cho tới những thập niên gần đây, những hoạt động kinh tế, du lịch tiếp tục giúp thành
phố có một nền văn hóa đa dạng hơn.
Với vai trò một trung tâm văn hóa của Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có
22 đơn vị nghệ thuật, 9 rạp hát, 11 bảo tàng, 22 rạp chiếu phim, 25 thư viện
[70][71]
. Hoạt động
của ngành giải trí ở Thành phố Hồ Chí Minh nhộn nhịp hơn bất cứ thành phố nào ở Việt Nam.
Hầu hết các hãng phim tư nhân lớn của Việt Nam hiện nay, như Phước Sang, Thiên Ngân,
HKFilm, Việt Phim đều có trụ sở chính ở Thành phố Hồ Chí Minh. Doanh thu các rạp của

thành phố chiếm khoảng 60-70% doanh thu chiếu phim của cả nước
[72]
. Thành phố Hồ Chí
Minh cũng sở hữu những sân khấu đa dạng. Nhà hát kịch Sân khấu nhỏ tại Quận 3 với những
vở kịch thử nghiệm, những vở thư giãn ở Sân khấu Hài 135 Quận 1, Sân khấu kịch IDECAF
với những vở lấy từ tuồng tích cổ hoặc tái hiện các danh tác trên thế giới. Lĩnh vực ca nhạc,
Thành phố Hồ Chí Minh là thị trường sôi động nhất, điểm đến của phần lớn các ca sĩ nổi tiếng.
Ngoài những sân khấu lớn như Nhà hát Thành phố, Nhà hát Bến Thành, Nhà hát Hòa Bình,
Sân khấu Trống Đồng hoạt động âm nhạc hoạt động âm nhạc ở thành phố ở những phòng
trà, quán cà phê đa dạng: Tiếng Tơ Đồng, M&T, Catinat, ATB, Bodega, Carmen
Một số lễ hội và thời gian tổ chức:
Lễ hội chiến thắng Đống Đa: 5/1 âm lịch; Lễ hội Hai Bà Trưng: 8/3 âm lịch; Giỗ tổ
Hùng Vương: 10/3 âm lịch; Lễ Nghinh Ông: Tại Cần Giờ 16/8 âm lịch; Tết Ka-tê của người
Chăm: 29/8 âm lịch; Giỗ tổ Trần Hưng Đạo:10/12 âm lịch.
10
IV. KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành phố chiếm
0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9%
giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài. Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí
Minh có 4.344.000 lao động, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn
đang tham gia làm việc. Năm 2008, thu nhập bình quân đầu người ở thành phố đạt 2.534
USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 1024 USD/năm.
Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản,
nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính Cơ cấu kinh tế của thành
phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần
còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ
chiếm 1,2%.
Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng

vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ USD và 19,5 nghìn tỉ VND. Thành phố cũng đứng đầu Việt Nam tổng
lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2.530 dự án FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối
năm 2007. Riêng trong năm 2007, thành phố thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD.
Về thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống trung tâm mua sắm, siêu thị, chợ
đa dạng. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa của thành phố, hiện
nay vẫn giữ một vai trò quan trọng. Những thập niên gần đây, nhiều trung tâm thương mại
hiện đại xuất hiện như Saigon Trade Centre, Diamond Plaza Mức tiêu thụ của Thành phố Hồ
Chí Minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh khác của Việt Nam và gấp 1,5 lần thủ đô Hà
Nội. Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, có mã giao dịch là VN-Index, được
thành lập vào tháng 7 năm 1998. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, toàn thị trường đã có
507 loại chứng khoán được niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt
365 nghìn tỷ đồng.
Tuy vậy, nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn.
Toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại. Trong đó, có
21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ
sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy có trình độ công
nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Cơ sở hạ tầng của thành phố lạc hậu, quá tải, chỉ giá tiêu
dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp cũng gây khó khăn cho nền kinh tế. Ngành
công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn.
V. BẢO VỆ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
1. Ô nhiễm môi trường
Với tốc độ gia tăng dân số quá nhanh, cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, ý thức người dân kém ,
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường. Cũng
như Hà Nội, hiện tượng nước thải ở Thành phố Hồ Chí Minh không được xử lý, đổ thẳng vào
hệ thống sông ngòi rất phổ biến. Nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các
bệnh viện và cơ sở y tế lớn cũng chưa có hệ thống xử lý nước thải. Tại cụm công nghiệp Tham
Lương, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi chất thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính
500.000 m³/ngày. Sông Sài Gòn, mức độ ô nhiễm vi sinh chủ yếu do hoạt động nuôi trồng
thuỷ sản gây ra vượt tiêu chuẩn cho phép đến 220 lần. Cho tới 2008, vẫn chưa có giải pháp cụ
thể nào để chấm dứt tình trạng ô nhiễm này.

11
Lượng rác thải ở Thành phố Hồ Chí Minh lên tới 6.000 tấn/ngày, trong đó một phần lượng
rác thải rắn không được thu gom hết. Kết quả quan trắc năm 2007 cho thấy, so với năm 2006,
sự ô nhiễm hữu cơ tăng 2 đến 4 lần. Các phương tiện giao thông, hoạt động xây dựng, sản
xuất còn góp phần gây ô nhiễm không khí. Khu vực ngoại thành, đất cũng bị ô nhiễm do tồn
đọng thuốc bảo vệ thực vật từ sản xuất nông nghiệp gây nên.
Tình trạng ngập lụt trong trung tâm thành phố đang ở mức báo động cao, xảy ra cả trong
mùa khô. Diện tích khu vực ngập lụt khoảng 140 km
2
với 85% điểm ngập nước nằm ở khu
vực trung tâm. Thiệt hại do ngập nước gây ra ước tính 8 tỷ đồng mỗi năm. Nguyên nhân là do
hệ thống cống thoát nước được xây cách đây 50 năm đã xuống cấp. Ngoài ra, việc xây dựng
các khu công nghiệp và đô thị ở khu vực phía nam – khu vực thoát nước của thành phố này đã
làm cho tình hình ngập càng nghiêm trọng hơn.
Kết quả quan trắc chất lượng nguồn nước trên hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai, nơi
cung cấp nước thô để sản xuất nước sạch cho sinh hoạt của người dân thành phố cho thấy:
Suốt từ năm 2004 đến nay, nguồn cấp nước trên sông Sài Gòn chỉ đạt chuẩn nguồn nước loại
B, trong đó mức độ ô nhiễm vi sinh (Coliform) đã vượt chuẩn loại B từ 1-15 lần.
Trên sông Đồng Nai, chất lượng nước đoạn từ thượng nguồn Hóa An đến hạ nguồn Cát
Lái nồng độ dầu và ôxy hòa tan cũng chỉ đạt tiêu chuẩn loại B và Coliform thì đã vượt chuẩn
cho phép của nước loại B từ 2,3-50 lần.
Chưa dừng lại ở mức độ ô nhiễm nguồn nước thô nghiêm trọng này, theo kết quả quan trắc
quý I/2009 của Chi cục Bảo vệ môi trường, nhiều hàm lượng tạp chất gây ô nhiễm tiếp tục
tăng lên, trong đó nguồn nước tại 4/6 trạm quan trắc có mức độ nhiễm Coliform tăng từ hơn
1,6-21,3 lần.
Đặc biệt, tình trạng ô nhiễm vi sinh tại Trạm Phú Cường vượt quy chuẩn cho phép tới 278
lần! Mặc dù nguồn nước ô nhiễm như vậy nhưng hằng ngày vẫn có hơn 1 triệu mét khối nước
sạch được sản xuất từ nguồn nước thô loại B này để phục vụ sinh hoạt cho hàng triệu người
dân thành phố.
Chất lượng nước kênh rạch trên địa bàn cũng chẳng khá hơn khi nồng độ nhiễm Coliform

tại hầu hết các khu vực được giám sát đều vượt tiêu chuẩn nhiều lần và chưa có dấu hiệu giảm;
tình trạng ô nhiễm hữu cơ thông qua kết quả đo đạc vẫn còn đến một nửa số mẫu nước kênh
rạch vượt chuẩn cho phép lúc nước lớn và 100% số mẫu vượt chuẩn khi nước cạn.
Cụ thể, nguồn nước kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè đo tại cầu Lê Văn Sỹ, tình trạng ô nhiễm
hữu cơ cao xảy ra cả 2 thời điểm nước lớn và nước cạn, vượt tiêu chuẩn cho phép từ 5,9 - 6,9
lần; khu vực cầu Oâng Buông, Hòa Bình trên kênh Tân Hóa - Lò Gốm tình trạng ô nhiễm vi
sinh vượt chuẩn cho phép tới 14,5 lần; cầu Chà Và trên kênh Tàu Hũ - Bến Nghé hàm lượng
vi sinh cao gấp 23 lần mức cho phép…
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Sở TN&MT, hiện trên địa bàn thành phố đang có ít nhất
220 ngàn hộ dân và 9.000 cơ sở dịch vụ quy mô nhỏ khai thác lượng nước ngầm lên tới trên
600 ngàn m3/ngày để phục vụ sinh hoạt và sản xuất.
Nguồn tài nguyên nước ngầm tại thành phố đang bị cạn kiệt do lượng nước bù đắp chỉ
được 1/3. Đánh giá trong báo cáo về môi trường của UBND thành phố cho thấy, chất lượng
nước tại tầng Pleistocen, một trong 3 tầng khai thác nước ngầm chính đã xuất hiện nguy cơ
giảm chất lượng.
Đặc biệt là tại các khu vực thuộc quận nội thành và vùng ven, nơi có lưu lượng nước ngầm
được khai thác rất lớn phục vụ ăn uống, sinh hoạt hằng ngày. Kết quả điều tra chất lượng nước
12
ngầm năm 2008 đã cho thấy, nhiều mẫu nước ở khu vực quận Gò Vấp có hàm lượng hợp chất
nitơ cao vượt tiêu chuẩn nước ăn uống; xung quanh các khu vực chôn lấp rác thải tập trung
của thành phố như Đông Thạnh, Gò Cát, nguồn nước ngầm có hàm lượng nitrat cao và có dấu
hiệu bị nhiễm vi sinh Coliform và E.coli. Mức độ ô nhiễm nước ngầm tại nhiều khu vực khác
cũng đã lan sâu đến tầng thứ 3 với độ sâu trên dưới 4m.
Trong vòng 3 năm trở lại đây, khi thành phố tiến hành đào hàng loạt tuyến đường trong
khu vực nội thành với độ sâu từ 6 - 13m để lắp đặt các tuyến cống thoát nước, tuy không có số
liệu khảo sát ảnh hưởng tới chất lượng nước ngầm từ hoạt động này, nhưng theo khẳng định
của một kỹ sư địa chất thì "Chắc chắn chất lượng nguồn nước ngầm sẽ bị ảnh hưởng không
nhỏ".
Để bảo vệ nguồn nước, những năm qua UBND thành phố đã triển khai hàng loạt giải pháp
trước mắt cũng như lâu dài.

Nhưng tất cả các giải pháp mới chỉ mang tính tình thế; mới chỉ giải quyết được phần ngọn.
Cái gốc của vấn đề là một lượng lớn nước thải không qua xử lý trộn với nước kênh đen đã ô
nhiễm nặng hằng ngày đổ trực tiếp vào sông Sài Gòn vẫn chưa được giải quyết triệt để
2. Biện pháp bảo vệ môi trường
Thực hiện Chỉ thị 36/CT-TW của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường
(BVMT) trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Bộ xây dựng đã triển khai thực
hiện kế hoạch giảm thiểu ô nhiễm và BVMT tại các cơ sở sản xuất kinh doanh trong ngành.
Chủ trương của Bộ xây dựng là đặc biệt chú trọng tới các biện pháp xử lý chất thải gây ô
nhiễm (ví dụ như khói thải của các nhà máy gạch tuynen, các lò gạch tư nhân; nước thải của
nhà máy khoá, nhà máy tấm lợp; bụi thải của nhà máy xi măng sản xuất theo công nghệ lò
đứng; bụi thải có chứa amiăng của nhà máy tấm lợp và chất thải rắn của các cơ sở sản xuất )
và đầu tư trang thiết bị công nghệ thích hợp để đảm bảo có một môi trường trong sạch ngay
trong khu vực sản xuất và không gây ô nhiễm đối với các khu vực xung quanh.
Trên những quan điểm đó và từ đặc điểm của các lĩnh vực sản xuất, ngành xây dựng đã
đề ra một số các giải pháp công nghệ nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường tại các cơ sở sản xuất
điển hình của ngành:
1. Tại các nhà máy xi măng.
Ô nhiễm môi trường chủ yếu phát sinh từ các nhà máy sản xuất xi măng theo công
nghệ lò đứng và công nghệ lò quay phương pháp ướt không có hệ thống điều khiển tự động, từ
nhiều nhà máy không có hệ thống xử lý chất thải hoặc hệ thống đã cũ, hỏng, không hoạt động.
Các nhà máy xi măng lò quay công nghệ khô có trang bị hệ thống xử lý chất thải, vì vậy ít gây
ô nhiễm môi trường, công tác BVMT ở đây chủ yếu là kiểm soát kỹ các khâu vận chuyển
nguyên vật liệu và vệ sinh trong khu vực sản xuất.
Phế thải trong dây chuyền sản xuất xi măng bao gồm xỉ than, nước thải, bụi. Xỉ than
của lò đốt không gây độc hại, có thể được sử dụng làm chất phụ gia. Nước thải chủ yếu là
nước được sử dụng cho công đoạn làm mát máy nên không chứa các chất độc hại gây ô nhiễm
môi trường.
Ô nhiễm chủ yếu trong quá trình sản xuất xi măng là ô nhiễm bụi, vì vậy tại tất cả các
điểm phát sinh bụi đều cần phải có hệ thống xử lý thích hợp. Tuỳ theo nồng độ mà sử dụng hệ
thống lọc bụi 2 cấp (cấp 1 là xyclon, cấp 2 là lọc bụi tĩnh điện) hoặc hệ thống lọc bụi 1 cấp

dùng loại lọc bụi kiểu túi có hệ thống hoàn nguyên túi lọc bằng rung rũ. Các điểm phát bụi tại
các công đoạn vận chuyển, đóng bao và xuất hàng được trang bị lọc bụi tay áo. Máy nghiền
được thiết kế lắp đặt lọc bụi tĩnh điện.
13
Đối với các nhà máy xi măng phải tiến hành đầu tư trang bị các thiết bị lọc bụi tiến
tiến, ứng dụng các công nghệ giảm thiểu SOx và NOx thải ra môi trường hoặc thực hiện đổi
mới công nghệ sản xuất. Vấn đề tiết kiệm năng lượng đã được quan tâm và đã có nhiều biện
pháp tích cực để chuyển giao các công nghệ tiết kiệm năng lượng và giảm thiểu CO2 chống ô
nhiễm môi trường. Chẳng hạn như dự án mẫu về tiết kiệm năng lượng, tận dụng nhiệt thừa từ
lò nung klinker để chạy máy phát điện do tổ chức NEDO (Nhật Bản) tài trợ đang được thực
hiện tại Nhà máy xi măng Hà Tiên II.
Đối với các nhà máy gây ô nhiễm nghiêm trọng nằm xen kẽ trong khu dân cư thì phải đình chỉ
sản xuất hoặc di chuyển địa điểm.
2. Tại các nhà máy sản xuất gạch (gạch men, gạch ốp lát ) và các lò gạch tư nhân.
Chất thải rắn của nhà máy có số lượng không lớn, chủ yếu là các sản phẩm bền hoá
học, không bị phân huỷ hoặc tạo ra mùi khó chịu, có thể tái sử dụng nên về mặt môi trường
các chất thải này không phải là điều đáng quan tâm. Thành phần nước thải của nhà máy bao
gồm các tạp chất vô cơ không tan, cũng chứa một số chất hữu cơ lơ lửng và hoà tan, một số vi
trùng gây bệnh.
Khí thải chủ yếu sinh ra do đốt dầu FO, DO khi sấy, nung gạch với khói có chứa các
chất ô nhiễm như oxit lưu huỳnh, oxit nitơ, oxit cacbon, hydrocacbon, aldehyt và khí HF sinh
ra do phân huỷ đất sét. Bụi thải chủ yếu phát sinh trong các công đoạn vận chuyển nguyên
liệu, nghiền, sấy phun, tráng men, lò nung rolic và chủ yếu là bụi than, các hạt bụi vô cơ (đất
đá), bụi silic có kích thước rất nhỏ. Nguồn ô nhiễm chủ yếu là bụi từ xyclon lọc bụi của nhà
máy.
Để hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường không khí, tại các nhà máy sử dụng biện
pháp phát tán qua ống khói; lắp đặt hệ thống xử lý khói thải từ lò nung, lò sấy (cho khói thải đi
qua thiết bị lọc ướt dạng đĩa hoặc dạng đệm ) để giảm nồng độ các chất ô nhiễm trước khi
phát tán vào khí quyển; trang bị hệ thống hút bụi, thiết bị tách bụi xyclon hoặc buồng lắng,
thiết bị lọc bụi túi vải, ống tay áo ở các công đoạn: Sấy phun, cân đong phối liệu, ép và sấy

phun, tráng men và lò nung rolic. Sau khi đi qua các thiết bị xử lý, phần lớn bụi và một phần
khí độc hại được tách ra khỏi khí thải, khí thải lại tiếp tục được làm sạch bằng hệ thống lọc bụi
2 cấp mà cấp lọc thứ 2 là lọc túi vải. Như vậy khả năng thu hồi bụi thải có thể đạt tới 98%,
đảm bảo vệ sinh môi trường. Tại khu vực làm việc của công nhân bố trí các hệ thống hút bụi
cục bộ để hút và lọc bụi.
Đối với các lò gạch tư nhân sản xuất theo công nghệ lò đứng, không có hệ thống xử lý
khí thải hoặc hệ thống xử lý đã cũ, hỏng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng sẽ đình chỉ
những cơ sở gây ô nhiễm quá nặng, qui hoạch lại - xây dựng hệ thống lò nung tuynen có trang
bị hệ thống xử lý chất thải (trong khi chờ qui hoạch, các lò gạch thay phiên nhau hoạt động
hoặc chuyển đổi sản xuất).
3. Tại nhà máy sản xuất tấm lợp amiăng.
Hội nghị quốc tế chuyên đề về việc sử dụng amiăng ở Montreal (Canada) tháng 7/1997
đã khẳng định sợi amiăng loại crysotyl để sản xuất tấm lợp là vô hại đối với con người khi tiếp
xúc qua đường tiêu hoá hay trực tiếp với da và chỉ ảnh hưởng đến đường hô hấp giống như các
loại bụi vô cơ khác (giống như bụi silic không tự phân huỷ trong phổi mà được tích tụ lại gây
bệnh bụi phổi). Vấn đề chính được đặt ra cho các nhà máy sản xuất tấm lợp là phải kiểm soát
được lượng bụi có chứa các sợi amiăng, vì vậy phải kiểm soát triệt để ở khâu pha trộn để bụi
không phát sinh hoặc khuyếch tán ra môi trường xung quanh, đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh môi
trường, ngăn ngừa các bệnh nghề nghiệp.
Công nghệ sản xuất tấm lợp sử dụng phương pháp xeo nên quá trình sản xuất cần dùng
rất nhiều nước, vì vậy việc kiểm soát nước thải phải được chú trọng. Nước thải sản xuất của
nhà máy chủ yếu có hàm lượng kiềm và chất lơ lửng cao, các chất thải rắn có trong nước thải
tạo cặn trắng dọc theo tuyến mương thải. Nước thải có chứa các sản phẩm của quá trình thuỷ
14
hoá sợi amiăng và xi măng. Các chất lơ lửng trong nước chủ yếu là chất rắn vô cơ và môi
trường kiềm do dung dịch hydroxyt canxi tạo ra.
Phương pháp được đề xuất để xử lý nước thải là dùng khói lò kết hợp sử dụng axit để làm
giảm lượng kiềm trong nước thải, thiết kế xây dựng hệ thống sử dụng khí thải, xây dựng hệ
thống bể lắng, xử lý lắng bổ sung bằng các chất keo tụ khi cần thiết nhằm đảm bảo nước thải
sau khi xử lý đạt tiêu chuẩn qui định đối với nước thải công nghiệp.

Tại dây chuyền sản xuất tấm xi măng amiăng được chưng hấp bằng hơi nước, khói của
lò hơi dùng than antraxit chủ yếu chứa khí CO2, lượng SO2 và CO là không đáng kể. Lượng
khí CO2 này sẽ phản ứng với hydroxyt canxi trong nước thải tạo thành cacbonat canxi kết tủa
trắng. Các chất lơ lửng sẽ được lắng cơ học trong các bể lắng ngang (nếu lượng chất lơ lửng
vẫn còn cao sẽ được xử lý tiếp bằng hoá chất keo tụ). Lượng kiềm sẽ được trung hoà bằng
dung dịch axit sunfuaric. Sau đó nước thải được đưa vào xử lý lắng cơ học, tách cặn lỏng và
thải ra ngoài theo mương thoát nước.
Các kho chứa nguyên vật liệu phải được trang bị hệ thống lọc bụi, quạt hút gió và được
xây dựng ở những nơi cao ráo, thông thoáng.
Một số cơ sở sản xuất gây ô nhiễm nghiêm trọng có thể sẽ thay đổi loại hình sản xuất (ví dụ
tại tỉnh Thái Nguyên).
4. Xưởng sản xuất vôi thủ công theo công nghệ lò đứng, xưởng khai thác đá.
Các cơ sở này nằm rải rác ở một số tỉnh gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bởi
khói, bụi. Trong tương lai cần phải di chuyển địa điểm và đổi mới công nghệ sản xuất tiên
tiến, hiện đại. Mặt khác cần chú trọng qui hoạch lại việc khai thác tài nguyên để đảm bảo môi
trường sinh thái của khu vực.
5. Xưởng sản xuất bê tông.
Nguồn gây ô nhiễm chính là nước thải và bụi nhưng ở mức độ trung bình. Biện pháp
ngăn ngừa ô nhiễm là xây dựng bể lắng, gắn bộ lọc cyclon làm giảm bụi và khói.
6. Các cơ sở sản xuất cơ khí (sản xuất khoá, bi, đạn, tấm lót cho xi măng, vật tư thiết bị
phục vụ xây dựng ).
Các cơ sở này ít gây ô nhiễm môi trường. Nguồn phát sinh ô nhiễm chủ yếu là nhiệt
thừa, tiếng ồn và nước thải, khí thải từ các phân xưởng mạ. Riêng đối với Nhà máy khoá Minh
Khai đến nay đã đầu tư cải tạo hệ thống xử lý nước thải và đang đầu tư kinh phí cho xử lý khí
thải.
Trong quá trình mạ, một lượng lớn chất độc hại và hoá chất sử dụng được xả vào môi
trường nước và không khí. Các chất độc hại như Cr+6 có tác động xấu tới sức khỏe con người
như gây ra bệnh ung thư, viêm loét dạ dày, Ni tác động đến đường hô hấp, muối kẽm gây ra
các cơn co giật. Kim loại trong nước thải chưa được xử lý sẽ thấm sâu vào đất gây ô nhiễm
nước ngầm. Nước thải có chứa axit dùng trong quá trình tẩy gỉ gây nên ăn mòn bê tông và kim

loại của hệ thống thoát nước, gây phân huỷ xà phòng có trong nước thải, tạo váng làm cản trở
quá trình thoát nước và hoà tan oxy trong nước thải.
Xử lý nước thải của Nhà máy khóa Minh Khai được tiến hành theo phương pháp trao
đổi ion, tiến hành phân ly nước thải có chứa các kim loại crôm, niken từ phân xưởng cơ khí.
Đối với nước thải có chứa axit và kiềm thì được thu gom vào bể điều hoà. Nước thải có chứa
crôm được xử lý bằng dung dịch sunfat sắt 2, nước thải có chứa niken được xử lý bằng dung
dịch hydroxyt canxi, tách cặn lắng và chuyển tới nơi qui định.
Chất thải rắn chủ yếu là phoi tiện, phoi gang và vụn sắt nhưng số lượng không lớn và được thu
gom, vận chuyển đến bãi chôn lấp.
VI. PHƯƠNG HƯƠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
15
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM đến năm 2010
1. Duy trì tốc độ tăng trưởng của thành phố cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân chung
của cả nước và phát triển một cách toàn diện, cân đối và bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội.
Tốc độ tăng trưởng GDP TP.HCM bình quân thời kỳ 2000-2010phấn đấu đạt 12%/năm.
Riêng giai đoạn 2001-2005 đạt bình quân 11,0%/năm và giai đoạn 2005-2010 đạt bình quân
13,0%/năm. Tương ứng với 2 giai đoạn trên, tăng trưởng của khu vực I là 2,0% và 1,7%/năm;
khu vực II: 13,0% và 12,7%/năm; khu vực III: 9,6% và 13,5%/năm. GDP bình quân đầu người
tăng từ 1.350 USD năm 2000 lên 1.980 USD năm 2005 và 3.100 USD năm 2010.
2. Phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn TP.HCM gắn liền với tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ; phát triển kinh tế hướng mạnh về xuất
khẩu. Từ tỷ trọng 53,7% trong cơ cấu, khu vực dịch vụ TP.HCM phấn đấu đạt tỷ trọng khoảng
50,5% năm 2005 và 51,7% năm 2010; khu vực công nghiệp và xây dựng thay đổi tương ứng
44,1% năm 2000, đạt 48,1% (2005) và 47,5% (2010); khu vực nông lâm ngư nghiệp dự kiến
sẽ giảm liên tục từ 2,2% năm 2000 xuống còn 1,4% năm 2005 và 0,8% năm 2010. Hiện đại
hóa các ngành dịch vụ, đặc biệt là các loại dịch vụ cao cấp phục vụ sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và công nghiệp hóa ngang tầm với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của khu vực kinh
tế trọng điểm phía Nam và cả nước. Hình thành một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp lý, liên
kết hỗ trợ lẫn nhau, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản

nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
3. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất, chất lượng và hiệu quả của từng ngành và
toàn bộ nền kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong tiến trình hội nhập, chiếm lĩnh thị
trường trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu. Tập trung đầu tư đổi mới công nghệ, nâng
cao chất lượng các ngành CN hiện có, từng bước phát triển các ngành CN mũi nhọn, hoàn
chỉnh các khu CN tập trung. Phát triển các ngành, các lãnh vực DV then chốt như thương mại,
xuất nhập khẩu, tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, vận tải, thông tin viễn thông, khoa
học công nghệ, giáo dục đào tạo; hình thành một trung tâm kinh tế - tài chánh khu vực Đông
Nam Á; phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân năm giai
đoạn 2000-2005 là 22%/năm và giai đoạn 2006 - 2010 là 20%/năm, tốc độ tăng tổng kim
ngạch nhập khẩu bình quân năm giai đoạn 2000-2005 là 17%/năm và giai đoạn 2006 - 2010 là
15%/năm. Phát triển nông nghiệp theo hướng phù hợp với đặc điểm đô thị sinh thái.
4. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bảo đảm dân sinh, nâng cao chất lượng cuộc sống,
công bằng xã hội. Chuẩn bị tốt nguồn nhân lực; lựa chọn phát triển các công nghệ “mũi nhọn”,
đồng thời mở rộng nghiên cứu ứng dụng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH; tạo nhiều việc làm.
Phấn đấu không còn hộ đói, giảm số hộ nghèo dưới 8% tổng số hộ, giảm khoảng cách về mức
sống giữa hộ dân cư giàu nhất và hộ nghèo nhất từ trên 10 lần hiện nay xuống còn 5 - 6 lần
vào năm 2010; xây dựng môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh, tiên tiến, mang đậm bản sắc
và truyền thống dân tộc; cải thiện môi trường rộng thoáng, sạch và xanh. Việc cung cấp nhà ở
với giá phù hợp cho các tầng lớp dân cư khác nhau trong khu vực nội thành nhằm cải thiện
cuộc sống của những người nghèo, được đặt lên hàng đầu.
5. Hạn chế tăng dân số và phân bố lại hợp lý dân cư trong vùng và trên địa bàn thành
phố. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm học vấn, nghề nghiệp, đạo đức và thể
chất. Coi trọng phát triển khoa học và công nghệ, văn hóa – nghệ thuật, y tế, giáo dục, thể dục
thể thao tương xứng với một trung tâm của khu vực. Khắc phục các tiêu cực và tệ nạn xã hội,
phân hóa giàu nghèo.
6. Phát triển đồng bộ và đi trước một bước hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, hạ
tầng kỹ thuật, đặc biệt là giao thông đô thị. Song song với việc chỉnh trang, cải tạo, nâng cấp
khu vực đô thị cũ, phát triển nhanh các khu vực đô thị mới, đô thị hóa vùng nông thôn nhằm
16

hạn chế mật độ dân cư tập trung quá mức ở các khu vực trung tâm; gia tăng mật độ cây xanh,
khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường sinh thái, tiến tới xây dựng một đô thị văn minh hiện
đại. Về lâu dài, thành phố là đầu mối lớn về giao thông đường sắt ở khu vực phía Nam, nối với
đồng bằng sông Cửu Long, Nam Tây Nguyên và với đường sắt xuyên Á. Kiên quyết dần từng
bước thay đổi cơ cấu các loại phương tiện giao thông hoạt động trên địa bàn Thành phố. Tập
trung giải quyết vấn đề giao thông công cộng và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông. Thành
phố Hồ Chí Minh sẽ phát triển một hệ thống giao thông công cộng (xe Bus) tiện nghi và giá cả
vừa phải trong khu vực nội thành, cũng như phát triển dọc theo trục hành lang nối ra bên
ngoài.
7. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, nâng cao năng lực điều hành quản lý nhà
nước ở các cấp chính quyền thành phố; nghiên cứu đề xuất, điều chỉnh, bổ sung những vấn đề
thuộc cơ chế, chính sách và luật pháp để tạo động lực mới, động viên sức dân tham gia xây
dựng thành phố.
8. Phát triển kinh tế, kết hợp với giữ vững an ninh chính trị, trật tự công cộng, an toàn
xã hội, đóng góp tích cực cho công tác bảo đảm an ninh - quốc phòng khu vực phía Nam và
đất nước.
VII. MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TP.HCM
17
KẸT XE VÀO GIỜ CAO ĐIỂM DIAMOND PLAZA
18
DINH THỐNG NHẤT MỘT GÓC THÀNH PHỐ
TP VỀ ĐÊM CHỢ BẾN THÀNH VỀ ĐÊM
TOÀN CẢNH CHỢ BẾN THÀNH TP. VUI NHỘN
19
CAO ỐC TẠI TRUNG TÂM TP CẢNG NHÀ RỒNG
ĐỊA ĐẠO CỦ CHI NHÀ THỜ ĐỨC BÀ
UBND THẢNH PHỐ HCM VỊ TRÍ CỦA TP.HCM

×